Chương V
-ooOoo-
Phẩm Năm Kệ
(CXCVIII) Ràjadatta (Thera. 37)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh trong một gia đình của những người lữ hành, cha mẹ gọi ngài là Ràjadatta (Vua ban cho), vì rằng sinh được ngài là nhờ cha mẹ cầu nguyện Vesavana, một vị thiên thần hư không. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài một
lần dẫn năm trăm cỗ xe hàng hóa đến Ràjagaha (Vương Xá); tại đấy ngài
tiêu tất cả tiền, tiêu một ngàn đồng cho một kỹ nữ đẹp, đến nỗi ngài hết cả
tiền, không có đủ ăn, phải đi lang thang trong đói khổ. Rồi ngài đến tinh xá
Trúc Lâm (Veluvana) với các cư sĩ khác, tại đấy bậc Ðạo Sư đang
thuyết pháp với một thính chúng rất lớn. Rồi Rajadatta,
ngồi ở phía ngoài thính chúng nghe, khởi lòng tin và xuất gia. Thực hành hạnh
đầu đà, ngài sống trong một nghĩa địa.
Rồi một nhà lữ hành khác
cũng tiêu hết một ngàn đồng cho người kỳ nữ, nhưng trên tay người này có một
chiếc nhẫn rất có giá trị và người kỹ nữ thèm muốn lấy chiếc nhẫn. Nàng cho
người đánh cắp. Nhưng người hầu hạ của người lữ hành tin cho cảnh sát biết, đến
lục soát nhà nàng giết nàng và quăng thân nàng trong nghĩa địa.
Trưỏng lão Rajadatta, đang đi tìm một đối tượng để quán tưởng, thấy được thi hài của
người kỹ nữ. Ngài tập trung tư tưởng, nhưng các phần thi hài nàng chưa bị chó
hay chó rừng ăn, làm ngài dao động và chi phối ngài. Ngài lấy làm ảo não buồn
phiền, lánh xa đi một lúc rồi lại bắt đầu tự mình khích lệ, tu thiền, phát
triển thiền quán và chứng quả A-la-hán.
Rồi suy tư trên thành
công của mình, cảm thấy hoan hỷ phấn khởi, ngài nói:
314. Một Tỷ-kheo đi đến
Tại một bãi tha ma,
Thấy thân một đàn bà,
Bị quăng tại chỗ ấy,
Vất bỏ trong nghĩa địa,
Làm mồi cho sâu ăn.
Tại một bãi tha ma,
Thấy thân một đàn bà,
Bị quăng tại chỗ ấy,
Vất bỏ trong nghĩa địa,
Làm mồi cho sâu ăn.
315. Có kẻ sinh nhàm
chán,
Thấy thân chết khốn nạn,
Trong ta, dục tham hiện,
Như mù, ta bị trói.
Thấy thân chết khốn nạn,
Trong ta, dục tham hiện,
Như mù, ta bị trói.
316. Mau hơn cơm sôi
trào,
Chỗ ấy, ta đi thoát,
Chánh niệm, ta tỉnh giác,
Ta đến, ngồi một bên.
Chỗ ấy, ta đi thoát,
Chánh niệm, ta tỉnh giác,
Ta đến, ngồi một bên.
317. Rồi ta tự ý tác,
Như lý khởi tư duy,
Các hiểm nguy hiển lộ,
Nhàm chán ta an trú.
Như lý khởi tư duy,
Các hiểm nguy hiển lộ,
Nhàm chán ta an trú.
318. Và tâm ta giải
thoát,
Thấy Pháp nhĩ là vậy,
Ba minh chứng đạt được,
Lời Phật dạy làm xong.
Thấy Pháp nhĩ là vậy,
Ba minh chứng đạt được,
Lời Phật dạy làm xong.
(CXCIX) Subhùta (Thera. 37)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh trong một gia đình thường dân ở Magadha, tên là Subhùta, ngài không thể sống trong gia đình, nên bỏ nhà
làm nguời du sĩ. Không thấy trong bộ phái của mình cái gì là chân lý và thấy Upatissa, Kolita, Sela sống hạnh phúc hoan hỷ sau khi tu hành, ngài
khởi lòng tin giáo lý đức Phật và xin xuất gia. Sau khi lấy được cảm tình các
vị giáo thọ sư và truyền pháp sự, ngài vào nhập thất với một đề tài thiền quán.
Nhờ phát triển thiền quán, ngài chứng quả A-la-hán.
Rồi ngài tuyên bố chánh
trí của ngài bằng cách ôn lại sự đau khổ khi tu hành và sự hoan hỷ khi ngài
được tu thiền, ngài nói lên bài kệ:
319. Ðặt mình vào tại
chỗ,
Không được cho thích đáng,
Một người muốn làm việc,
Nhưng không được thành tựu
Như vậy công việc ấy,
Ðược xem bị thất bại.
Không được cho thích đáng,
Một người muốn làm việc,
Nhưng không được thành tựu
Như vậy công việc ấy,
Ðược xem bị thất bại.
320. Nếu từ bỏ phần
thắng,
Gốc khổ được rút lên,
Nó giống kẻ đánh bạc,
Vận rủi quăng con bài,
Nếu nó quăng tất cả,
Nó chẳng khác người mù,
Không nhìn thấy con đường,
Bằng phẳng, không bằng phẳng.
Gốc khổ được rút lên,
Nó giống kẻ đánh bạc,
Vận rủi quăng con bài,
Nếu nó quăng tất cả,
Nó chẳng khác người mù,
Không nhìn thấy con đường,
Bằng phẳng, không bằng phẳng.
321. Hãy nói điều có
làm,
Không nói điều không làm,
Bậc Hiền trí rõ biết,
Người chỉ nói không làm.
Không nói điều không làm,
Bậc Hiền trí rõ biết,
Người chỉ nói không làm.
322. Như bông hoa tươi
đẹp,
Có sắc nhưng không hương,
Cũng vậy lời khéo nói,
Có làm, có kết quả.
Có sắc nhưng không hương,
Cũng vậy lời khéo nói,
Có làm, có kết quả.
323. Như bông hoa tươi
đẹp,
Có sắc lại không hương,
Cũng vậy lời khéo nói
Không làm không kết quả.
Có sắc lại không hương,
Cũng vậy lời khéo nói
Không làm không kết quả.
(CC) Girimànanda (Thera. 38)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài được sanh ở Ràjagaha (Vương Xá) con trai của vị cố vấn nghi lễ cho
vua Bimbisàra (Tần-bà-sa-la). Ngài thấy uy lực và uy nghi của
đức Phật khi đức Phật dự hội ở Ràjagaha, và xin xuất gia. Trong thời kỳ học tập, ngài
sống trong một thời gian tại một ngôi làng rồi trở lui lại thành phố để đảnh lễ
Ðức Phật. VuaBimbisàra nghe tin ngài tới, đến yết kiến ngài và nói ngài hãy ở lại đây,
vua xin lo liệu tất cả. Vì vua nhiều việc nên quên đi lời hứa, và ngài phải
sống giữa trời. Và thần mưa không mưa sợ làm ngài ướt. Rồi vua Bimbisàra, thấy trời hạn hán nên xây dựng một am thất cho ngài. Và ngài
sống trong am thất ấy cố gắng tu hành tinh tấn, quyết tâm nỗ lực, tu tập thiền
định, thiền quán, chứng được quả A-la-hán. Rồi hoan hỷ với sự kiện này, ngài
nói lên lời chánh trí của ngài trong khi trời bắt đầu đổ mưa.
324. Trời mưa như bài
ca,
Khéo hát với nhạc điệu,
Ta ngồi trong am thất,
An lạc, được che chở,
Tại đấy ta an trú,
Thoải mái và an tịnh,
Thần mưa, nếu ngươi muốn,
Hãy mưa, hãy mưa đi.
Khéo hát với nhạc điệu,
Ta ngồi trong am thất,
An lạc, được che chở,
Tại đấy ta an trú,
Thoải mái và an tịnh,
Thần mưa, nếu ngươi muốn,
Hãy mưa, hãy mưa đi.
325. Trời mưa như bài ca
Khéo hát với nhạc điệu,
Ta ngồi trong am thất,
An lạc, được che chở.
Tại đấy ta an trú,
Tâm tư thật tịnh chỉ,
Thần mưa, nếu ngươi muốn,
Hãy mưa, hãy mưa đi.
Khéo hát với nhạc điệu,
Ta ngồi trong am thất,
An lạc, được che chở.
Tại đấy ta an trú,
Tâm tư thật tịnh chỉ,
Thần mưa, nếu ngươi muốn,
Hãy mưa, hãy mưa đi.
326. Trời mưa như bài
ca,
Khéo hát với nhạc điệu,
Ta ngồi trong am thất,
An lạc, đuợc che chở.
Tại đấy ta an trú,
Tâm tư, ly tham ái,
Thần mưa nếu ngươi muốn,
Hãy mưa, hãy mưa đi.
Khéo hát với nhạc điệu,
Ta ngồi trong am thất,
An lạc, đuợc che chở.
Tại đấy ta an trú,
Tâm tư, ly tham ái,
Thần mưa nếu ngươi muốn,
Hãy mưa, hãy mưa đi.
327. Trời mưa như bài
ca,
Khéo hát với nhạc điệu,
Ta ngồi trong am thất,
An lạc được che chở.
Tại đấy ta an trú,
Tâm tư ly sân hận,
Thần mưa nếu ngươi muốn,
Hãy mưa, hãy mưa đi.
Khéo hát với nhạc điệu,
Ta ngồi trong am thất,
An lạc được che chở.
Tại đấy ta an trú,
Tâm tư ly sân hận,
Thần mưa nếu ngươi muốn,
Hãy mưa, hãy mưa đi.
328. Trời mưa như bài
ca,
Khéo hát với nhạc điệu,
Ta ngồi trong am thất,
An lạc, được che chở.
Tại đấy ta an trú,
Tâm tư ly si mê,
Thần mưa nếu ngươi muốn,
Hãy mưa, hãy mưa đi.
Khéo hát với nhạc điệu,
Ta ngồi trong am thất,
An lạc, được che chở.
Tại đấy ta an trú,
Tâm tư ly si mê,
Thần mưa nếu ngươi muốn,
Hãy mưa, hãy mưa đi.
(CCI) Sumana (Thera. 38)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh trong một gia đình thường dân, ở Kosala, tên làSumana, ngài lớn lên trong hoàn cảnh may mắn. Anh mẹ
ngài trở thành vị A-la-hán, sống ở trong rừng, và khi Sumana đến tuổi trưởng thành, cậu ngài cho ngài xuất gia và trao cho ngài
đề tài để thiền quán về phía giới hạnh. Cuối cùng, khi Bốn thiền và Năm thắng
trí đã chứng được, vị Trưởng lão chỉ cho ngài phương pháp thiền quán, và nhờ
vậy ngài chứng quả A-la-hán. Khi đi đến người cậu của ngài, ngài được hỏi về sự
thành công và ngài nói lên chánh trí của ngài như sau:
329. Ðiều giáo thọ sư
muốn,
Tôi biết trong chánh pháp,
Với tôi mong bất tử,
Ðiều phải làm, làm xong.
Tôi biết trong chánh pháp,
Với tôi mong bất tử,
Ðiều phải làm, làm xong.
330. Pháp tôi đạt, tự
chứng,
Không phải chỉ nghe suông,
Trí tôi được thanh tịnh,
Không còn có nghi ngờ,
Mong tôi đứng gần ngài,
Nói lên điều xác chứng.
Không phải chỉ nghe suông,
Trí tôi được thanh tịnh,
Không còn có nghi ngờ,
Mong tôi đứng gần ngài,
Nói lên điều xác chứng.
331. Tôi biết các đời
trước,
Thiên nhãn tôi thanh tịnh,
Mục đích tôi đạt được,
Lời Phật dạy làm xong.
Thiên nhãn tôi thanh tịnh,
Mục đích tôi đạt được,
Lời Phật dạy làm xong.
332. Học tập, không
phóng dật,
Khéo nghe lời ngài dạy,
Mọi lậu hoặc, tôi đoạn,
Nay không còn tái sanh.
Khéo nghe lời ngài dạy,
Mọi lậu hoặc, tôi đoạn,
Nay không còn tái sanh.
333. Ngài giảng tôi
thánh giới,
Từ mẫn ngài hộ trì.
Ngài dạy, không vô ích,
Tôi đệ tử học ngài.
Từ mẫn ngài hộ trì.
Ngài dạy, không vô ích,
Tôi đệ tử học ngài.
(CCII) Vaddha (Thera. 38)
Sanh trong đời đức Phật
hiện tại, tại thành Dhamkaccha trong một dòng họ thường dân, ngài được đặt tên
là Vaddha. Khi lớn lên, mẹ ngài cảm thấy âu lo vì vấn đề tái sanh và chết,
giao con lại cho bà con, rồi bà xuất gia giữa các Tỷ-kheo-ni. Sau bà trở thành
một vị A-ha-hán. Con bà, cũng xuất gia dưới sự hướng dẫn của Veludanta, học lời dạy đức Phật, trở thành một pháp sư giỏi có tiếng. Một
hôm, suy nghĩ đến trách nhiệm của mình, ngài nghĩ: 'Nay ta sẽ đến thăm mẹ ta
một mình và không đắp y ngoài'. Rồi ngài đi đến trú xứ các Tỷ-kheo-ni. Mẹ ngài
thấy ngài vậy, chỉ trích ngài sao đi đến trú xứ Tỷ-kheo-ni một mình và không
đắp y ngoài. Ngài nhận thấy mình có lỗi, trở về tinh xá, ngồi trong phòng thiền
định và chứng quả A-la-hán. Ngài nói lên chánh trí của ngài, nhờ lời chỉ trích
của mẹ ngài:
334. Lành thay, bà mẹ
ta,
Kích thích, khích lệ ta,
Nghe lời dạy của bà,
Ðược dạy bởi bà mẹ,
Ta tinh cần, tinh tấn,
Chứng Bồ-đề vô thượng.
Kích thích, khích lệ ta,
Nghe lời dạy của bà,
Ðược dạy bởi bà mẹ,
Ta tinh cần, tinh tấn,
Chứng Bồ-đề vô thượng.
335. Ta xứng được cúng
dường,
Ba minh, thấy bất tử.
Ta chứng quả La-hán,
Xứng đáng được cúng dường,
Ba minh đã chứng đạt,
Thấy được quả bất tử,
Chiến thắng quân Ma vương,
Ta sống, không lậu hoặc.
Ba minh, thấy bất tử.
Ta chứng quả La-hán,
Xứng đáng được cúng dường,
Ba minh đã chứng đạt,
Thấy được quả bất tử,
Chiến thắng quân Ma vương,
Ta sống, không lậu hoặc.
336. Các lậu hoặc, nội,
ngoại,
Trước đã có trong ta,
Tất cả bị nhổ sạch,
Không còn khởi tên nữa.
Trước đã có trong ta,
Tất cả bị nhổ sạch,
Không còn khởi tên nữa.
337. Bà chị tâm nhu
thuận,
Nói lên ý nghĩa này,
Trong con và trong ta,
Cỏ rừng không còn nữa.
Nói lên ý nghĩa này,
Trong con và trong ta,
Cỏ rừng không còn nữa.
338. Khổ đã được chấm
dứt,
Thân này thân cuối cùng,
Ðường sanh tử đứt đoạn,
Nay không còn tái sanh.
Thân này thân cuối cùng,
Ðường sanh tử đứt đoạn,
Nay không còn tái sanh.
(CCIII) Nadikassapa (Thera. 39)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn ở Magadha (Ma-kiệt-đà), là anh của Kassapa. Ngài thiên hẳn đời sống xuất gia, không ưa thích đời sống gia
đình, và ngài trở thành một ẩn sĩ. Với ba trăm đồ chúng, ngài sống một đời sống
ẩn sĩ trên bờ sông Neranjarà (Ni-liên-thiền), và do vậy ngài được biết và
được gọi làKassapa ở bên sông (Nadi-Kassapa). Ngài được Thế Tôn giáo hóa cùng với hai anh em, như đã được ghi
trong Luật tạng. Sau khi Thế Tôn thuyết kinh Lửa Bốc Cháy, ngài chứng quả
A-la-hán. Sau đó, suy tư trên thiền chứng, ngài nói lên chánh trí của mình,
bằng cách nhổ lên các sai lầm:
339. Thật lợi ích cho ta
Ðức Phật đến tại đây,
Ðến con sông tên gọi
Sông Nê-răn-ja-ra,
Ta nghe pháp ngài giảng
Ðoạn tận các tà kiến
Ðức Phật đến tại đây,
Ðến con sông tên gọi
Sông Nê-răn-ja-ra,
Ta nghe pháp ngài giảng
Ðoạn tận các tà kiến
340. Ta hành lễ tế tự,
Ðọc cao lời tế lễ,
Ta đốt lên lửa thiêng,
Ðổ cúng dường vào lửa,
Nghĩ rằng ta thanh tịnh,
Ta thật mù, phàm phu.
Ðọc cao lời tế lễ,
Ta đốt lên lửa thiêng,
Ðổ cúng dường vào lửa,
Nghĩ rằng ta thanh tịnh,
Ta thật mù, phàm phu.
341. Lang thang rừng tà
kiến,
Bị giới cấm, mờ mắt,
Không tịnh, nghĩ thanh tịnh,
Mù lòa, ta không thấy
Bị giới cấm, mờ mắt,
Không tịnh, nghĩ thanh tịnh,
Mù lòa, ta không thấy
342. Ta đoạn tận tà
kiến,
Mọi sanh hữu phá tan,
Ta đốt lên ngọn lửa,
Xứng đáng được cúng dường,
Ta cúi mình đảnh lễ,
Bậc Như Lai Ðiều Ngự.
Mọi sanh hữu phá tan,
Ta đốt lên ngọn lửa,
Xứng đáng được cúng dường,
Ta cúi mình đảnh lễ,
Bậc Như Lai Ðiều Ngự.
343. Mọi si mê, ta đoạn,
Hữu ái được phá hủy,
Ðường sanh tử đoạn tận,
Nay không còn tái sanh.
Hữu ái được phá hủy,
Ðường sanh tử đoạn tận,
Nay không còn tái sanh.
(CCIV) Gayà-Kassapa (Thera. 39)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn, câu chuyện ngài giống như câu
chuyện của Nadì-Kassapa, chỉ khác ngài chỉ có hai trăm đệ tử và sống ởGayà,
ngài nói lên chánh trí bằng cách tán thán tẩy sạch các điều ác như sau:
344. Buổi sáng, trưa,
buổi chiều,
Ba lần trong một ngày,
Ta xuống dòng Gà-yà,
Sông Ga-ya-phay-gu.
Ba lần trong một ngày,
Ta xuống dòng Gà-yà,
Sông Ga-ya-phay-gu.
345. Các điều ác, ta làm
Trong các đời sống trước,
Nay đây ta rửa sạch,
Xưa ta tin là vậy.
Trong các đời sống trước,
Nay đây ta rửa sạch,
Xưa ta tin là vậy.
346. Nghe lời nói khéo
giảng,
Con đường đủ pháp nghĩa,
Với ý nghĩa chân thật,
Ta như lý quán sát.
Con đường đủ pháp nghĩa,
Với ý nghĩa chân thật,
Ta như lý quán sát.
347. Ta tắm sạch mọi ác,
Ta không uế, trong sạch.
Ta trong sạch thuần tịnh,
Thừa tự bậc trong sạch,
Ta chính là con trai,
Con chính tông đức Phật.
Ta không uế, trong sạch.
Ta trong sạch thuần tịnh,
Thừa tự bậc trong sạch,
Ta chính là con trai,
Con chính tông đức Phật.
348. Lặn vào dòng Tám
chánh,
Ta gột sạch mọi ác,
Ba minh ta đạt được,
Lời Phật dạy làm xong.
Ta gột sạch mọi ác,
Ba minh ta đạt được,
Lời Phật dạy làm xong.
(CCV) Vakkali (Thera. 39)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong một dòng họ Bà-la-môn và được gọi tên Vakkali. Khi đến tuổi trưởng thành, và học xong ba tập Vệ-đà, trở thành
thuần thục trong những thành tích Bà-la-môn, ngài thấy bậc Ðạo Sư, ngài nhìn
không chán thân hình tuyệt vời của đức Phật, và ngài đi theo bậc Ðạo Sư. Khi
ngài trở về nhà, ngài nghĩ nếu ở lại nhà, ngài sẽ không có dịp luôn luôn thấy
được đức Phật. Do vậy, ngài xuất gia, và từ khi ăn uống và tắm rửa, ngài để
toàn thì giờ để chiêm ngưỡng đức Phật. Bậc Ðạo Sư, chờ đợi thiền quán của ngài
được chín muồi, nên trong một thời gian dài, đức Phật không nói gì. Một hôm đức
Phật hỏi: 'Này Vakkali, thân bất tịnh này mà Thầy thấy, đối với Thầy
như thế nào? Ai thấy Pháp người ấy tức thấy Ta. Vì rằng thấy Pháp tức là thấy
Ta, và thấy ta tức là thấy Pháp'. Nghe lời nói đức Phật, ngài không chiêm
ngưỡng thân đức Phật nữa, nhưng ngài chưa bỏ đi xa được. Bậc Ðạo Sư nghĩ rằng:
'Tỷ-kheo này, nếu không được xúc động mạnh, sẽ không thức tỉnh’, nên vào cuối
ngày an cư mùa mưa, đức Phật nói: 'Này Vakkali, hãy đi đi'. Nghe bậc
Ðạo Sư nói vậy, ngài tự nghĩ ngài phải đi, nhưng nghĩ rằng đời ngài có ý nghĩa
gì, nếu không được gặp bậc Ðạo Sư, nên ngài có ý định leo lên núi Linh Thứu để
gieo mình xuống vực núi tự tử. Ðức Phật biết được Vakkali có ý định như vậy, nên sợ ngài phá hoại những điều kiện chứng được
thánh quả, nên hiện ra trước mặt ngài và đọc lên bài kệ:
Tỷ-kheo nhiều hân hoan,
Tịnh tín giáo pháp Phật,
Chứng cảnh giới tịch tịnh,
Các hạnh an tịnh lạc.
Tịnh tín giáo pháp Phật,
Chứng cảnh giới tịch tịnh,
Các hạnh an tịnh lạc.
Ðức Phật đưa tay và nói:
'Hãy đến, này Tỷ-kheo!' Vakkali rất lấy làm sung sướng được nghe lời Phật dạy,
thấy được điều gì mình đang làm, đứng trên hư không suy tư đến lời Phật dạy,
chứng quả A-la-hán với sự hiểu biết về nghĩa và về pháp. (Ðây là những tài liệu
được tập sớ của bộ Anguttara Nikàya và tập sớ của Dhammapaca ghi chép lại).
Theo những tài liệu
khác, Vakkali chưa chứng quả A-la-hán, sau khi nghe lời dạy của bậc Ðạo Sư, ngài
ở trên núi Linh Thứu, phát triển thiền quán. Thế Tôn cho ngài một đề tài tu
tập, nhưng vì quá đói và bị tê liệt nên ngài không chứng quả được. Biết vậy,
Thế Tôn nói với ngài như sau:
349. Bị bệnh gió chi
phối,
Thầy sống trong rừng sâu,
Chỗ khất thực hạn chế,
Thân gầy mòn ốm yếu,
Tỷ-kheo sẽ làm gì?
Với thân thể như vậy?
Thầy sống trong rừng sâu,
Chỗ khất thực hạn chế,
Thân gầy mòn ốm yếu,
Tỷ-kheo sẽ làm gì?
Với thân thể như vậy?
Vị Trưởng lão nói lên sự
hân hoan thường xuyên của mình, nhờ được sự an lạc siêu nhân:
350. Thân con được tràn
ngập,
Với hỷ lạc tỏa rộng,
Dầu có bị gầy ốm,
Con sẽ sống trong rừng.
Với hỷ lạc tỏa rộng,
Dầu có bị gầy ốm,
Con sẽ sống trong rừng.
351. Tu tập Bốn niệm xứ,
Năm căn và Năm lực,
Tu tập các Giác chi,
Con sẽ sống trong rừng.
Năm căn và Năm lực,
Tu tập các Giác chi,
Con sẽ sống trong rừng.
352. Con thấy bạn đồng
tu,
Sống hòa hiệp, dõng mãnh,
Luôn kiên trì tinh tấn,
Con sẽ sống trong rừng.
Sống hòa hiệp, dõng mãnh,
Luôn kiên trì tinh tấn,
Con sẽ sống trong rừng.
353. Tùy niệm Phật thiền
định,
Bậc Tối thượng Ðiều Ngự,
Ngày đêm không biếng nhác,
Con sẽ sống trong rừng.
Bậc Tối thượng Ðiều Ngự,
Ngày đêm không biếng nhác,
Con sẽ sống trong rừng.
Khi nói vậy, ngài phát
triển thiền quán và ngay khi ấy chứng quả A-la-hán.
(CCVI) Vigitasena (Thera. 39)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ra trong một gia đình huấn luyện voi ở nướcKosala, và
được đặt tên là Vigitasena. Những người cậu bên ngoại, Sena và Upasena cả hai đã xuất gia và chứng quả A-la-hán. Vigitasena sau khi đã thuần thục nghề của mình, thấy thần
thông song hành của bậc Ðạo Sư khởi lòng tin, và theo bản năng tự nhiên, xin
xuất gia dưới sự hướng dẫn của các người cậu. Nhờ các người cậu giảng dạy, ngài
đạt đến thiền quán, nhưng tâm trí ngài thiên về lý luận chạy theo những vật bên
ngoài, nên ngài giảng dạy cho tâm trí ngài như sau:
354. Ta sẽ chế ngự
ngươi,
Như cửa khóa ngăn voi,
Ta sẽ không thúc ngươi,
Này tâm trong điều ác,
Ngươi chính là lưới dục,
Ngươi do thân sanh ra.
Như cửa khóa ngăn voi,
Ta sẽ không thúc ngươi,
Này tâm trong điều ác,
Ngươi chính là lưới dục,
Ngươi do thân sanh ra.
355. Chế ngự ngươi không
đi,
Như voi, không cửa mở,
Này tâm, kẻ phù thủy,
Dầu ngươi cố gắng mãi,
Ngươi không còn lang thang,
Ưa thích làm điều ác.
Như voi, không cửa mở,
Này tâm, kẻ phù thủy,
Dầu ngươi cố gắng mãi,
Ngươi không còn lang thang,
Ưa thích làm điều ác.
356. Như người cầm câu
móc,
Ngăn mãi voi chưa thuần,
Như người dùng sức mạnh,
Cải hóa kẻ không muốn,
Cũng vậy đối với ngươi,
Ta sẽ cải hóa ngươi.
Ngăn mãi voi chưa thuần,
Như người dùng sức mạnh,
Cải hóa kẻ không muốn,
Cũng vậy đối với ngươi,
Ta sẽ cải hóa ngươi.
357. Như bánh xe tuyệt
hảo,
Khéo huấn luyện ngựa hay,
Cũng vậy ta điều ngươi,
Dựa lên trên Năm lực.
Khéo huấn luyện ngựa hay,
Cũng vậy ta điều ngươi,
Dựa lên trên Năm lực.
358. Ta sẽ cột chặt
ngươi,
Với chánh niệm vững chắc,
Tự mình đã chế ngự,
Ta sẽ chế ngự ngươi,
Nhờ sức nặng tinh tấn,
Ngươi được ta áp lực,
Do vậy, hỡi này tâm,
Ngươi sẽ không xa ta.
Với chánh niệm vững chắc,
Tự mình đã chế ngự,
Ta sẽ chế ngự ngươi,
Nhờ sức nặng tinh tấn,
Ngươi được ta áp lực,
Do vậy, hỡi này tâm,
Ngươi sẽ không xa ta.
(CCVII) Yasadatta (Thera. 40)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh trong dòng họ vua Malla, được đặt tên làYasadatta,
ngài được học ở Takkasilà. Sau khi đi du hành vói du sĩ Sabhiya, cả hai đếnSàvatthi, tại đây hỏi Thế Tôn một số câu hỏi. Yasadatta ngồi nghe những câu trả lời, ý muốn ưa chỉ
trích: 'Ta sẽ nêu lên những khuyết điểm trong những câu trả lời của Sa-môn Gotama'. Thế Tôn hiểu tâm tư của Yasadatta,
nên sau khi nói kinh Sabhiya, Thế Tôn giáo huấn Yasadatta như sau:
359. Với tâm, muốn chỉ
trích,
Kẻ ngu nghe lời dạy
Của bậc đã thắng trận,
Người ấy, thái độ vậy,
Rất xa vời Chánh pháp,
Như đất xa bầu trời.
Kẻ ngu nghe lời dạy
Của bậc đã thắng trận,
Người ấy, thái độ vậy,
Rất xa vời Chánh pháp,
Như đất xa bầu trời.
360. Với tâm muốn chỉ
trích,
Kẻ ngu nghe lời dạy
Của bậc đã chiến thắng,
Người ấy thái độ vậy,
Tổn giảm xa Chánh pháp,
Như trăng nửa tháng đen.
Kẻ ngu nghe lời dạy
Của bậc đã chiến thắng,
Người ấy thái độ vậy,
Tổn giảm xa Chánh pháp,
Như trăng nửa tháng đen.
361. Với tâm muốn chỉ
trích,
Kẻ ngu nghe lời dạy
Của bậc đã chiến thắng,
Người ấy thái độ vậy,
Khô cạn trong diệu pháp,
Như cá mắc nước cạn.
Kẻ ngu nghe lời dạy
Của bậc đã chiến thắng,
Người ấy thái độ vậy,
Khô cạn trong diệu pháp,
Như cá mắc nước cạn.
362. Với tâm muốn chỉ
trích,
Kẻ ngu nghe lời dạy
Của bậc đã chiến thắng,
Người ấy thái độ vậy,
Không lớn trong diệu pháp,
Như giống thối trong ruộng.
Kẻ ngu nghe lời dạy
Của bậc đã chiến thắng,
Người ấy thái độ vậy,
Không lớn trong diệu pháp,
Như giống thối trong ruộng.
363. Ai tâm tư thỏa mãn,
Nghe bậc Thánh giảng dạy,
Từ bỏ mọi lậu hoặc,
Chứng ngộ không dao động,
Ðạt tịch tịnh tối thượng,
Chứng Niết-bàn vô lậu.
Nghe bậc Thánh giảng dạy,
Từ bỏ mọi lậu hoặc,
Chứng ngộ không dao động,
Ðạt tịch tịnh tối thượng,
Chứng Niết-bàn vô lậu.
(CCVIII) Sonakutikanna (Thera. 40)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở xứ Avanti, trong một gia đình rất giàu có, và được đặt
tên là Sona. Vì đeo một bông tai đắt giá, ngài cũng được
gọi là Koti hayKutikanna (người có lỗ tai đắt giá). Lớn lên, ngài trở
thành một điền chủ, và khi Trưởng lão Mahà Kaccàna ở gần bên nhà, ngài cung cấp các vật dụng nhu yếu, nghe Chánh
pháp, cuối cùng cảm thấy dao động, xin xuất gia với Trưởng lão Kaccàna. Rủ thêm mười người một cách khó khăn, ngài xin phép vị Trưởng
lão đi đến Sàvatthi để yết kiến Thế Tôn. Ðược phép ngủ đêm trong
chái phòng đức Phật, và buổi sáng được mời tụng đọc, ngài được khen khi đọc
mười sáu Athaka. Khi đọc đến câu: 'Thấy sự nguy hiểm của một
đời thế tục', ngài phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán.
Khi ngài được đức Bổn Sư
bằng lòng về ba vấn đề mà vị Trưởng lão Mahà Kaccànagiao
cho ngài hỏi, ngài trở về chỗ cũ và thưa lại với bậc giáo thọ sư của mình (Sự
kiện này được ghi chép đầy đủ trong tập Udàna và tập sớ Anguttara, nhưng ở đây lại nói ngài chứng quả A-la-hán khi còn học tập với
vị giáo thọ sư của mình).
Rồi, trong khi sống, thọ
hưởng an lạc giải thoát, ngài ôn lại sự thanh đạt của mình, và với tâm hoan hỷ,
ngài nói lên những bài kệ như sau:
364. Ta thọ được đại
giới,
Ta giải thoát vô lậu,
Thế Tôn, ta được thấy,
Ta sống chung tinh xá.
Ta giải thoát vô lậu,
Thế Tôn, ta được thấy,
Ta sống chung tinh xá.
365. Thế Tôn, trải nhiều
ngày
Sống ngay ở ngoài trời,
Ðạo Sư khéo an trú,
Rồi mới vào tịnh xá.
Sống ngay ở ngoài trời,
Ðạo Sư khéo an trú,
Rồi mới vào tịnh xá.
366. Trải y Tăng-già-lê
Gotama nằm xuống,
Như sư tử hang đá,
Ðoạn tận mọi sợ hãi.
Gotama nằm xuống,
Như sư tử hang đá,
Ðoạn tận mọi sợ hãi.
367. Khéo lựa lời tốt
lành,
Ðệ tử bậc Chánh Giác,
Trước đức Phật tuyệt hảo,
Sona thuyết diệu pháp.
Ðệ tử bậc Chánh Giác,
Trước đức Phật tuyệt hảo,
Sona thuyết diệu pháp.
368. Liễu Tri Năm thủ
uẩn,
Tu tập con đường Thánh
Ðạt an tịnh tối thượng,
Chứng Niết-bàn vô lậu.
Tu tập con đường Thánh
Ðạt an tịnh tối thượng,
Chứng Niết-bàn vô lậu.
(CCIX) Kosiya (Thera. 41)
Trong thời Ðức Phật hiện
tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn ở Magadha và được đặt tên là Sona. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài hay đến nghe Trưởng lãoSàriputta thuyết pháp, tin tưởng ở nơi giáo lý, xuất gia
và không bao lâu chứng quả A-la-hán. Rồi ôn lại quá trình giải thoát của mình,
ngài tán thán đức hạnh và sức mạnh quyết định hành thiện của các bậc Thánh với
những bài kệ sau đây:
369. Ai hiểu những lời
dạy
Của các bậc Ðạo Sư,
Bậc trí sống an trú,
Phát sanh lòng ái niệm,
Bậc trí có lòng tin,
Biết thù thắng trong Pháp.
Của các bậc Ðạo Sư,
Bậc trí sống an trú,
Phát sanh lòng ái niệm,
Bậc trí có lòng tin,
Biết thù thắng trong Pháp.
370. Vị khi nạn lớn
khởi,
Suy tư không tê liệt,
Bậc trí có kiên trì,
Biết thù thắng trong Pháp.
Suy tư không tê liệt,
Bậc trí có kiên trì,
Biết thù thắng trong Pháp.
371. Ai vững trú như
biển,
Không dục, trí tuệ sâu,
Thấy rõ chân nghĩa lý,
Tế nhị và vi diệu,
Bậc trí trú bất động,
Biết thù thắng trong Pháp.
Không dục, trí tuệ sâu,
Thấy rõ chân nghĩa lý,
Tế nhị và vi diệu,
Bậc trí trú bất động,
Biết thù thắng trong Pháp.
372. Bậc nghe nhiều, trì
Pháp,
Hành pháp và Tùy pháp,
Bậc trí gọi như thị,
Biết thù thắng trong Pháp.
Hành pháp và Tùy pháp,
Bậc trí gọi như thị,
Biết thù thắng trong Pháp.
373. Ai hiểu nghĩa lời
nói,
Biết nghĩa, hành như thật,
Bậc trí gọi nội nghĩa,
Biết thù thắng trong Pháp.
Biết nghĩa, hành như thật,
Bậc trí gọi nội nghĩa,
Biết thù thắng trong Pháp.
0 Komentar