Chương VI
-ooOoo-
Phẩm Sáu Kệ
(CCK) Uruvelà Kassapa (Thera. 42)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh làm anh cả trong ba anh em một gia đình Bà-la-môn tên Kassapa, và cả ba đều học thông ba tập Vệ-đà. Ba anh em có đến năm trăm, ba
trăm và hai trăm thanh niên đệ tử vì không tìm được chân lý trong kinh điển của
họ, chỉ tìm thấy những vấn đề thế tục, nên họ từ bỏ gia đình và trở thành những
ẩn sĩ. Cả ba được đặt tên tùy theo chỗ ở của mỗi vị, và ngài được gọi là Uruvelà Kassapa vì ngài ởUruvelà. Một số sự kiện đã xảy
ra, vị Bồ-tát xuất gia, chuyển Pháp luân, năm vị Trưởng lão chứng quả A-la-hán,
năm mươi bạn đứng đầu là Yasa được hóa độ, sự xuất phát của vị A-la-hán để
thuyết pháp độ sanh, sự hóa độ ba mươi người bạn giàu có, bậc Ðạo sư đi đến Uruvelà. Khi Thế Tôn hiện ra nhiều thần thông bắt đầu với sự nhiếp phục
con rắn, Kassapa khởi lòng tin và xuất gia, hai người em cũng bắt
chước người anh cả. Thế Tôn giảng kinh AAdittapariyàya cho ba anh em Kassapa với một ngàn đệ tử và khiến mọi người chứng quả
A-la-hán.
Uruvelà Kassapa ôn lại sự thành quả của mình, nói lên chánh trí
với những bài kệ như sau:
375. Thấy được các thần
thông
Gotama danh tiếng,
Nhưng ta chưa thần phục,
Bị ganh, mạn lừa dối.
Gotama danh tiếng,
Nhưng ta chưa thần phục,
Bị ganh, mạn lừa dối.
376. Bậc Ðiều Ngự loài
Người,
Biết được tâm tư ta,
Chất vấn ta hốt hoảng,
Kỳ diệu lông dựng ngược.
Biết được tâm tư ta,
Chất vấn ta hốt hoảng,
Kỳ diệu lông dựng ngược.
377. Xưa ta thuộc bện
tóc,
Thần thông ta nhỏ mọn,
Ta xem chúng vô dụng,
Ta xuất gia đầu Phật,
Thần thông ta nhỏ mọn,
Ta xem chúng vô dụng,
Ta xuất gia đầu Phật,
378. Xưa bằng lòng tế
tự,
Xem dục giới hàng đầu,
Sau ta nhổ tận sạch
Cả tham, sân và si.
Xem dục giới hàng đầu,
Sau ta nhổ tận sạch
Cả tham, sân và si.
379. Ta biết các đời
truóc,
Thiên nhãn ta trong sạch,
Thần thông biết tâm nguòi,
Thiên nhĩ, ta đạt được.
Thiên nhãn ta trong sạch,
Thần thông biết tâm nguòi,
Thiên nhĩ, ta đạt được.
380. Do đích gì xuất
gia,
Bỏ nhà, sống không nhà,
Ðích ấy ta đạt được,
Mọi kiết sử tận diệt.
Bỏ nhà, sống không nhà,
Ðích ấy ta đạt được,
Mọi kiết sử tận diệt.
(CCXI) Tekicchakàrì (Thera. 42)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh làm con một Bà-la-môn tên Subuddha. Ngài được các nhà giải
phẫu cứu sống khi ngài mới sanh, vì vậy ngài được đặt tên làTekicchakàrì (người được các bác sĩ cứu sống). Ngài lớn lên
học các nghệ thuật và học thuật của giai cấp mình. Phụ thân ngài vì trí tuệ và
chánh sách của mình, nên bị vuaCandagotta, vua Bà-la-nại ganh ghét và bỏ tù. Tekicchakàrì nghe vậy, sợ hãi bỏ trốn, lánh mình tại tinh xá
của một vị Trưởng lão, và tường thuật cho vị ấy biết nỗi khó khăn của mình. Vị
Trưởng lão cho ngài xuất gia, chọn cho ngài một đề tài tu tập và ngài trở thành
một Tỷ-kheo sống ngoài trời không kể gì lạnh nóng, hoàn toàn chú tâm vào tu tập
cho được thành quả. Ác ma sợ ngài thoát khỏi sự chi phối của mình nên muốn phá
rối vị Trưởng lão, đến gần dưới hình thức một người mục đồng, khi gặt hái đã
xong, muốn cám dỗ ngài nên nói như sau:
381. Lúa đã gặt thâu
xong
Gạo đã được đập, giã,
Nhưng một miếng, không có,
Ta sẽ làm gì đây?
Gạo đã được đập, giã,
Nhưng một miếng, không có,
Ta sẽ làm gì đây?
Vị Trưởng lão nghĩ rằng:
'Người này nói đến tình cảnh của nó. Nhưng ta cần phải giáo huấn ta! Không phải
phần việc để ta thuyết giảng'. Như vậy, vị Trưởng lão khuyên mình nên thiền
quán trên ba quy y:
382. Hãy niệm Phật vô
lượng!
Tâm hân hoan thoải mái,
Thân thấm nhuần hỷ thọ,
Luôn luôn cảm phấn chấn.
Tâm hân hoan thoải mái,
Thân thấm nhuần hỷ thọ,
Luôn luôn cảm phấn chấn.
383. Hãy niệm Pháp vô
lượng!
Tâm hân hoan thoải mái,
Thân thấm nhuần hỷ thọ,
Luôn luôn cảm phấn chấn.
Tâm hân hoan thoải mái,
Thân thấm nhuần hỷ thọ,
Luôn luôn cảm phấn chấn.
384. Hãy niệm Tăng vô
lượng!
Tâm hân hoan thoải mái,
Thân thấm nhuần hỷ thọ,
Luôn luôn cảm phấn chấn.
Tâm hân hoan thoải mái,
Thân thấm nhuần hỷ thọ,
Luôn luôn cảm phấn chấn.
Rồi Ác ma, muốn ngài
không sống hạnh viễn ly, làm như muốn lo cho ngài được hạnh phúc, nói rằng:
385. Ngài sống giữa ngoài
trời,
Những đêm này giá lạnh
Chớ để lạnh hại ngài!
Hãy vào trong tịnh xá,
Có cửa đóng then gài.
Những đêm này giá lạnh
Chớ để lạnh hại ngài!
Hãy vào trong tịnh xá,
Có cửa đóng then gài.
Vị Trưởng lão, nêu rõ ở
trong nhà là một trói buộc và ở ngoài trời là giải thoát, nên trả lời:
Ta sẽ cảm thọ được,
Với bốn tâm vô lượng,
Ta sẽ sống an lạc
Với những tâm tư ấy,
Giá lạnh không hại ta,
Ta sống không dao động.
Với bốn tâm vô lượng,
Ta sẽ sống an lạc
Với những tâm tư ấy,
Giá lạnh không hại ta,
Ta sống không dao động.
Nói vậy, vị Trưởng lão
phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán.
Vì rằng vị Trưởng lão
sống trong thời vua Bindusàra, các bài kệ này cần được hiểu là được tụng đọc
vào kỳ kiết tập thứ ba như là thuộc Kinh tạng.
(CCXII ) Mahà-Nàga (Thera. 43)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài được sanh tại Sàketa, con trai một Bà-la-môn tênMadhu Vàsettha và được đặt tên là Mahà-Nàga. Ngài thấy thần thông do Trưởng lãoGavampati thực hiện trong khi Thế Tôn sống trong rừng Anjana, và khởi lòng tin, ngài xuất gia dưới sự hướng dẫn của vị Trưởng
lão, và chứng quả A-la-hán nhờ vị này giáo huấn.
Ngay khi ngài an trú
trong an lạc giải thoát, Trưởng lão Mahà-Nàga thấy sáu Tỷ-kheo thường
hay không cung kính các vị đồng Phạm hạnh, và ngài giáo huấn họ với những bài
kệ như sau, những bài kệ này trở thành lời tuyên bố chánh trí của ngài:
387. Ai đối đồng Phạm
hạnh,
Không có sự cung kính,
Chúng thối giảm diệu pháp
Như cá mắc nước cạn.
Không có sự cung kính,
Chúng thối giảm diệu pháp
Như cá mắc nước cạn.
388. Ai đối đồng Phạm
hạnh,
Không có sự cung kính,
Không lớn trong diệu pháp,
Như giống thối trong ruộng.
Không có sự cung kính,
Không lớn trong diệu pháp,
Như giống thối trong ruộng.
389. Ai đối đồng Phạm
hạnh,
Không có sự cung kính,
Chúng xa rời Niết-bàn,
Trong lời dạy Pháp vương.
Không có sự cung kính,
Chúng xa rời Niết-bàn,
Trong lời dạy Pháp vương.
390. Ai đối đồng Phạm
hạnh,
Thật có sự cung kính,
Không thối giảm diệu pháp,
Như cá được nước nhiều.
Thật có sự cung kính,
Không thối giảm diệu pháp,
Như cá được nước nhiều.
391. Ai đối đồng Phạm
hạnh,
Thật có sự cung kính,
Lớn mạnh trong diệu pháp,
Như giống tốt trong ruộng.
Thật có sự cung kính,
Lớn mạnh trong diệu pháp,
Như giống tốt trong ruộng.
392. Ai đối đồng Phạm
hạnh,
Thật có sự cung kính,
Họ đến gần Niết-bàn,
Trong lời dạy Pháp vương.
Thật có sự cung kính,
Họ đến gần Niết-bàn,
Trong lời dạy Pháp vương.
(CCXIII) Kulla (Thera. 43)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở Sàvatthi (Xá-vệ) trong gia đình một điền chủ tên là Kulla, ngài được cảm hóa với lòng tin và được bậc Ðạo Sư độ cho xuất gia.
Nhưng ngài thường bị tham dục chi phối. Bậc Ðạo Sư biết yếu điểm này của ngài,
cho ngài một đề tài bất tịnh và khuyên ngài thiền quán trong một nghĩa địa. Khi
tu tập này chưa được kết quả bậc Ðạo Sư đi với ngài và yêu cầu ngài theo dõi
tiến trình thối nát và tiêu diệt của vật bất tịnh. Khi Kulla đã được tự tại thoát ly, Thế Tôn phóng hào quang, khiến ngài nhớ
lại bài học, chứng Sơ thiền và từ đấy phát triển thiền quán, chứng được quả
A-la-hán.
Ôn lại kinh nghiệm, ngài
thốt ra những câu kệ sau đây, trước nói về ngài, rồi nhắc lại lời dạy của bậc
Ðạo Sư, cuối cùng lại nói về ngài:
393. Kulla đến nghĩa
địa,
Thấy bỏ một đàn bà,
Vất ném trong nghĩa địa,
Làm mồi cho sâu ăn.
Thấy bỏ một đàn bà,
Vất ném trong nghĩa địa,
Làm mồi cho sâu ăn.
394. Kulla, hãy nhìn
thân,
Bệnh hoạn nhớp hôi thối,
Nước ứ chảy, rỉ chảy,
Ðược kẻ ngu thích thú.
Bệnh hoạn nhớp hôi thối,
Nước ứ chảy, rỉ chảy,
Ðược kẻ ngu thích thú.
395. Sau khi nắm gương
pháp,
Ðạt được chánh tri kiến,
Ta quán sát thân này,
Trống rỗng cả trong ngoài.
Ðạt được chánh tri kiến,
Ta quán sát thân này,
Trống rỗng cả trong ngoài.
396. Ðây thế nào, kia
vậy,
Kia thế nào, đây vậy,
Dưới thế nào, trên vậy,
Trên thế nào, dưới vậy.
Kia thế nào, đây vậy,
Dưới thế nào, trên vậy,
Trên thế nào, dưới vậy.
397. Ngày thế nào, đêm
vậy,
Ðêm thế nào, ngày vậy,
Trước thế nào, sau vậy,
Sau thế nào, trước vậy.
Ðêm thế nào, ngày vậy,
Trước thế nào, sau vậy,
Sau thế nào, trước vậy.
398. Người vậy không ưa
thích,
Cả năm loại nhạc khí,
Khi đã được nhất tâm,
Chơn chánh thiền quán pháp.
Cả năm loại nhạc khí,
Khi đã được nhất tâm,
Chơn chánh thiền quán pháp.
Những kệ này là lời
tuyên bố chánh trí của ngài.
(CCXIV) Màlunkyaputta (Thera. 43)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở Sàvatthi, con một vị chuyên môn đánh giá cho vua Kosala, và mẹ là Màlunkyya, nên ngài được gọi là Màlunkyaputta (con bàMàlunkyà). Khi đến tuổi trưởng
thành, tánh ưa thích đời sống xuất gia, ngài trở thành một du sĩ ngoại đạo. Khi
nghe Thế Tôn thuyết pháp, ngài xin xuất gia trong Pháp và Luật của Thế Tôn, và
sau một thời gian, ngài chứng được sáu thắng trí. Khi ngài về thăm nhà vì lòng
từ mẫn đối với bà con, các bà con chào đón ngài rất niềm nở và muốn kéo ngài
trở về với đời sống gia đình thế tục, nói rằng với tài sản của ngài, ngài có
thể lập gia đình và làm các thiện sự. Nhưng ngài nói lên chí nguyện cuả ngài
như sau:
399. Có người sống phóng
dật,
Ái lớn như cây leo,
Sống trôi nổi luân chuyển,
Ðời này qua đời khác,
Như con khỉ trong rừng,
Thèm muốn các trái cây.
Ái lớn như cây leo,
Sống trôi nổi luân chuyển,
Ðời này qua đời khác,
Như con khỉ trong rừng,
Thèm muốn các trái cây.
400. Khát ái khốn nạn
này
Thấm độc cả thế giới,
Khi đã chinh phục ai,
Khiến sầu muộn tăng trưởng,
Chẳng khác giống cỏ rừng,
Lan tràn và lớn mạnh.
Thấm độc cả thế giới,
Khi đã chinh phục ai,
Khiến sầu muộn tăng trưởng,
Chẳng khác giống cỏ rừng,
Lan tràn và lớn mạnh.
401. Ai nhiếp phục được
ái,
Khốn nạn, khó chinh phục,
Sầu rơi khỏi vị ấy,
Như giọt nước trên sen.
Khốn nạn, khó chinh phục,
Sầu rơi khỏi vị ấy,
Như giọt nước trên sen.
402. Các ông đã đến đây,
Ta thuyết điều lành ấy,
Hãy đào rễ khát ái,
Như tìm rễ ngon ngọt,
Loại cỏ u-sì-ra,
Chớ để Ma, dòng nước,
Tàn phá ông cây lau.
Liên tục vậy mãi mãi.
Ta thuyết điều lành ấy,
Hãy đào rễ khát ái,
Như tìm rễ ngon ngọt,
Loại cỏ u-sì-ra,
Chớ để Ma, dòng nước,
Tàn phá ông cây lau.
Liên tục vậy mãi mãi.
403. Hãy hành lời Phật
dạy,
Chớ để Sát-na qua,
Sát-na qua, sầu khổ,
Thọ quả trong địa ngục,
Chớ để Sát-na qua,
Sát-na qua, sầu khổ,
Thọ quả trong địa ngục,
404. Phóng dật như bụi
bặm,
Bụi nhơ, do phóng dật,
Không phóng dật, minh trí,
Nhổ mũi tên khỏi ta.
Bụi nhơ, do phóng dật,
Không phóng dật, minh trí,
Nhổ mũi tên khỏi ta.
(CCXV) Sappadàsa (Thera. 44)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), con của vị cố vấn tế lễ của vua Suddhodhana, và được đặt tên là Sappadàsa.
Khi đức Phật viếng thăm bà con, ngài khởi lòng tin và xuất gia. Bị chi phối bởi
những tập tục xấu, những tánh tình tâm lý không tốt đẹp, ngài không sao được
thiền định và nhất tâm. Sự kiện này khiến ngài quá sầu não đến nỗi ngài gần tự
tử, nhưng bỗng ánh sáng nội tâm chói sáng lan rộng thình lình, ngài chứng quả
A-la-hán, nói lên chánh trí của mình, ngài nói:
405. Ðã được hăm lăm
năm,
Từ khi ta xuất gia,
Nhưng đến một búng tay,
Ta không đạt tâm tịnh.
Từ khi ta xuất gia,
Nhưng đến một búng tay,
Ta không đạt tâm tịnh.
406. Nhứt tâm không đạt
được,
Bị dục tham chi phối,
Khoa tay, ta than khóc,
Bỏ tịnh xá, ta đi.
Bị dục tham chi phối,
Khoa tay, ta than khóc,
Bỏ tịnh xá, ta đi.
407. Ta sẽ đem dao lại,
Sự sống ta, nghĩa gì?
Học tập bị tước bỏ,
Như ta, chết tốt hơn.
Sự sống ta, nghĩa gì?
Học tập bị tước bỏ,
Như ta, chết tốt hơn.
408. Rồi ta cầm con dao
Ta vào chỗ giường nằm,
Con dao được rút ra,
Ðể cắt cổ của ta.
Ta vào chỗ giường nằm,
Con dao được rút ra,
Ðể cắt cổ của ta.
409. Rồi ta tự tác ý,
Như lý, khởi tư duy,
Các hiểm nguy hiển lộ
Nhàm chán, ta an trú
Như lý, khởi tư duy,
Các hiểm nguy hiển lộ
Nhàm chán, ta an trú
410. Và tâm ta giải
thoát,
Thấy Pháp nhĩ là vậy,
Ba minh chứng đạt được,
Lời Phật dạy làm xong.
Thấy Pháp nhĩ là vậy,
Ba minh chứng đạt được,
Lời Phật dạy làm xong.
(CCXVI) Kàtiyàna (Thera. 45)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài được sanh ở Sàvatthi, con của một Bà-la-môn thuộc dòng họ Kosiya, nhưng được gọi là Kàtiyàna, theo gia đình của bà
mẹ. Thấy bạn của mình là Sàmannakàni trở thành một Trưởng lão, ngài cũng xuất gia.
Khi ngài học tập, ngài cương quyết đối trị nằm ngủ ban đêm. Trong khi đi qua
lại trên con đường kinh hành, ngài quá buồn ngủ nên té xuống. Bậc Ðạo Sư thấy
vậy, đi đến đứng truớc ngài và gọi: 'Này Kàtiyàna!'. Ngài liền đứng dậy,
đảnh lễ, và đứng một bên, bị dao động mạnh, rồi Thế Tôn thuyết pháp cho ngài
như sau:
411. Này Ka-tiya-na,
Hãy thức dậy, ngồi lên,
Chớ có ngủ quá nhiều,
Hãy tự mình thức tỉnh,
Này bà con phóng dật,
Kẻ thụ động biếng nhác
Chớ để cho thần chết,
Lường gạt, chiến thắng ông.
Hãy thức dậy, ngồi lên,
Chớ có ngủ quá nhiều,
Hãy tự mình thức tỉnh,
Này bà con phóng dật,
Kẻ thụ động biếng nhác
Chớ để cho thần chết,
Lường gạt, chiến thắng ông.
412. Như sóng tràn biển
lớn,
Cũng vậy sanh và già,
Tràn ngập chôn lấp ông,
Hãy tự làm cho ông,
Một hòn đảo an toàn,
Vì rằng không ai khác,
Phục vụ giúp đỡ ông,
Như là chỗ nương tựa.
Cũng vậy sanh và già,
Tràn ngập chôn lấp ông,
Hãy tự làm cho ông,
Một hòn đảo an toàn,
Vì rằng không ai khác,
Phục vụ giúp đỡ ông,
Như là chỗ nương tựa.
413. Ðạo Sư lập con
đường,
Ðường vượt qua trói buộc,
Vượt qua sự sợ hãi,
Của sanh và của già,
Trước đêm và sau đêm,
Hãy sống không phóng dật,
Chú tâm cố kiên trì,
Trong nỗ lực chuyên tâm.
Ðường vượt qua trói buộc,
Vượt qua sự sợ hãi,
Của sanh và của già,
Trước đêm và sau đêm,
Hãy sống không phóng dật,
Chú tâm cố kiên trì,
Trong nỗ lực chuyên tâm.
414. Từ bỏ triền phược
trước,
Mặc áo Tăng-già-lê,
Ðầu cạo trọc trơn láng,
Ăn đồ ăn khất thực,
Chớ có ưa chơi giỡn,
Chớ đam mê ngủ nghỉ,
Hãy nỗ lực thiền định,
Hỡi Ka-ti-ya-na!
Mặc áo Tăng-già-lê,
Ðầu cạo trọc trơn láng,
Ăn đồ ăn khất thực,
Chớ có ưa chơi giỡn,
Chớ đam mê ngủ nghỉ,
Hãy nỗ lực thiền định,
Hỡi Ka-ti-ya-na!
415. Hãy thiền tu, chiến
thắng,
Hỡi Ka-ti-ya-na!
Hãy thiện xảo con đường,
An ổn các khổ ách;
Hãy đạt cho kỳ được,
Sự thanh tịnh tối thượng.
Ông sẽ chứng Niết-bàn,
Như nước làm tắt lửa.
Hỡi Ka-ti-ya-na!
Hãy thiện xảo con đường,
An ổn các khổ ách;
Hãy đạt cho kỳ được,
Sự thanh tịnh tối thượng.
Ông sẽ chứng Niết-bàn,
Như nước làm tắt lửa.
416. Ánh sáng được tạo
ra,
Hào quang còn yếu ớt,
Chẳng khác như cây lau,
Gió thổi nằm rạp xuống,
Hỡi bà con Tu-đa,
Như vậy, chớ chấp thủ,
Hãy tẩn xuất Ác-ma,
Ly tham mọi cảm thọ,
Chờ đợi thời của ông!
Tại đây ông mát lạnh.
Hào quang còn yếu ớt,
Chẳng khác như cây lau,
Gió thổi nằm rạp xuống,
Hỡi bà con Tu-đa,
Như vậy, chớ chấp thủ,
Hãy tẩn xuất Ác-ma,
Ly tham mọi cảm thọ,
Chờ đợi thời của ông!
Tại đây ông mát lạnh.
(CCXII ) Migajàla (Thera. 45)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở Sàvatthi, con của nữ cư sĩ nổi tiếng Visàkhà, và hay đi đến tinh xá để nghe pháp. Cuối cùng, ngài xuất gia, và
sau một thời gian chứng quả A-la-hán, khi nói lên chánh trí của mình, ngài nói:
417. Khéo giảng bậc có
mắt,
Hào quang còn yếu ớt,
Mọi kiết sử vượt qua,
Mọi luân chuyển hoạt diệt.
Hào quang còn yếu ớt,
Mọi kiết sử vượt qua,
Mọi luân chuyển hoạt diệt.
418. Pháp hướng dẫn,
hướng thượng,
Làm khô héo ác căn,
Chặt đứt gốc nọc độc,
Diệt ác, đạt tịch tịnh.
Làm khô héo ác căn,
Chặt đứt gốc nọc độc,
Diệt ác, đạt tịch tịnh.
419. Phá vỡ gốc vô trí,
Chấm dứt nghiệp sanh hữu,
Trí kim cang đánh nát,
Mọi chấp trì của thức.
Chấm dứt nghiệp sanh hữu,
Trí kim cang đánh nát,
Mọi chấp trì của thức.
420. Cảm thọ được phơi
bày,
Chấp thủ được giải thoát,
Hữu như hố than hừng,
Ðược tùy quán bởi trí.
Chấp thủ được giải thoát,
Hữu như hố than hừng,
Ðược tùy quán bởi trí.
421. Vị lớn, khéo thâm
sâu,
Chận đứng già và chết,
Con đường Thánh tám ngành,
Tịnh chỉ khổ, vận tốt.
Chận đứng già và chết,
Con đường Thánh tám ngành,
Tịnh chỉ khổ, vận tốt.
422. Biết được nghiệp là
nghiệp,
Biết nghiệp quả là quả,
Như thực soi, quán chiếu,
Các pháp do duyên sanh,
Ðưa đến đại an ổn,
Tịch tịnh, cứu cánh thiện.
Biết nghiệp quả là quả,
Như thực soi, quán chiếu,
Các pháp do duyên sanh,
Ðưa đến đại an ổn,
Tịch tịnh, cứu cánh thiện.
(CCXVIII) Jenta (Thera. 45)
Trong thời đức Phật hiện
tại , ngài sanh ra làm con của vị cố vấn tế tự cho vua Kosalavà được đặt tên là Jenta. Khi lớn lên, ngài trở thành kiêu mạn với những
quyền lợi về sanh, tài sản, địa vị, khinh bỉ những gì đáng phải kính trọng và
cứng cỏi trong kiêu hãnh. Một hôm, ngài đến gần bậc Ðạo Sư đang thuyết pháp cho
một số đông, nghĩ rằng: 'Nếu Sa-môn Gotama nói với ta trước, ta sẽ
nói, ta không tự ý nói với Sa-mônGotama!'. Thế Tôn không nói với Jenta, và Jenta vì lòng kiêu mạn cũng không nói. Sau cùng ngài
nêu rõ lý do vì sao ngài đến và Thế Tôn nói với ngài như sau:
An trú triền kiêu mạn,
Thật sự là không tốt,
Hỡi này Bà-la-môn,
Nên an trú lợi ích.
Ðiều thiện ông tầm cầu,
Khi ông đến tại đây,
Chỉ trên đấy mà thôi,
Ông hãy nên an trú.
Thật sự là không tốt,
Hỡi này Bà-la-môn,
Nên an trú lợi ích.
Ðiều thiện ông tầm cầu,
Khi ông đến tại đây,
Chỉ trên đấy mà thôi,
Ông hãy nên an trú.
Jenta nghĩ rằng: 'Thế Tôn đã biết tư tưởng của ta, cảm
thấy xúc động mạnh và đảnh lễ chân Thế Tôn'. Rồi ngài thưa với bậc Ðạo Sư:
Với ai, không nên kiêu?
Với ai, cần cung kính?
Với ai, phải tôn trọng?
Cung kính ai là thiện?
Thế Tôn trả lời:
Với cha và với mẹ,
Với anh cả, với thầy,
Với các Bà-la-môn,
Với Sa-môn áo vàng,
Với những vị như vậy,
Nên cung kính tôn trọng,
Cung kính các vị ấy,
Là việc làm tốt lành.
Với các bậc La-hán,
Tịch tịnh và hữu học,
An tịnh, không cấu uế,
Mọi kiêu mạn chấm dứt,
Khi đạt đến mục tiêu,
Hãy tôn trọng vị ấy.
Với ai, cần cung kính?
Với ai, phải tôn trọng?
Cung kính ai là thiện?
Thế Tôn trả lời:
Với cha và với mẹ,
Với anh cả, với thầy,
Với các Bà-la-môn,
Với Sa-môn áo vàng,
Với những vị như vậy,
Nên cung kính tôn trọng,
Cung kính các vị ấy,
Là việc làm tốt lành.
Với các bậc La-hán,
Tịch tịnh và hữu học,
An tịnh, không cấu uế,
Mọi kiêu mạn chấm dứt,
Khi đạt đến mục tiêu,
Hãy tôn trọng vị ấy.
Với lời dạy này, Jenta chứng được quả Dự Lưu, xuất gia và sau một thời gian, chứng quả
A-la-hán. Nói lên sự thành công, ngài tuyên bố chánh trí của ngài:
423. Ta say đắm tự kiêu,
Với sanh chủng, tài sản,
Kể cả với quyền lực,
Ðịa vị và dung sắc,
Ta sống kiêu mạn vậy.
Tham dắm và mê say.
Với sanh chủng, tài sản,
Kể cả với quyền lực,
Ðịa vị và dung sắc,
Ta sống kiêu mạn vậy.
Tham dắm và mê say.
424. Ta quá sức kiêu
hãnh.
Xem không ai bằng ta,
Si mê, quá tự hào,
Kiêu căng và cống cao.
Xem không ai bằng ta,
Si mê, quá tự hào,
Kiêu căng và cống cao.
425. Mẹ cha và người
khác,
Ðược cung kính tôn trọng,
Ta không lễ một ai,
Kiêu hãnh, không lễ phép.
Ðược cung kính tôn trọng,
Ta không lễ một ai,
Kiêu hãnh, không lễ phép.
426. Thấy lãnh đạo đệ
nhất,
Tối ưu Ðiều Ngự Sư,
Như mặt trời sáng chói,
Cầm đầu chúng Tỷ-kheo.
Tối ưu Ðiều Ngự Sư,
Như mặt trời sáng chói,
Cầm đầu chúng Tỷ-kheo.
427. Gạt bỏ mạn, kiêu
hãnh,
Với tâm thật an lành,
Với đầu ta đảnh lễ,
Bậc tối thượng chúng sanh.
Với tâm thật an lành,
Với đầu ta đảnh lễ,
Bậc tối thượng chúng sanh.
428. Quá mạn, ty liệt
mạn,
Từ bỏ, nhổ tận gốc,
Ngã mạn được chặt đứt,
Mọi loại mạn tận diệt.
Từ bỏ, nhổ tận gốc,
Ngã mạn được chặt đứt,
Mọi loại mạn tận diệt.
(CCXIX) Sumana (Thera. 46)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh trong gia đình một cư sĩ, làm vị hộ trì cho Tôn giả Anuruddha. Từ trước, con cháu của người cư sĩ này chết trẻ.
Khi sắp đẻ đứa con, người cha nghĩ nếu là con trai thời sẽ cho xuất gia với vị
Trưởng lão. Sau mười tháng, đẻ được đứa con trai, vị cư sĩ này cho xuất gia khi
đứa trẻ lên bảy tuổi. Do căn tánh thuần phục, không bao lâu ngài chứng được sáu
thắng trí trong khi đang hầu hạ bậc Truởng lão. Cầm được cái bình để xách nước, Sumana với thần thông, đi đến hồAnotatta, một con xà vương ác độc,
phồng mang ngưỡng đầu lên không cho ngài lấy nước. Rồi Sumana hóa thành con chim Garuda (Kim xí điểu) nhiếp phục con rắn và mang nước
bay về vị Trưởng lão. Rồi bậc Ðạo Sư, ngồi tại vườn Jetavana, thấy ngài bay về, liền gọi Sàriputta cùng xem, và tán thán
ngài với bốn câu kệ. Sunmana để nêu lên chánh trí của mình cộng thêm những
bài kệ của mình như sau:
429. Khi người mới xuất
gia,
Từ sanh, mới bảy tuổi,
Với thần thông ta điều,
Con xà vương thần lực.
Từ sanh, mới bảy tuổi,
Với thần thông ta điều,
Con xà vương thần lực.
430. Từ hồ nước to lớn,
Tên A-no-tat-ta
Ta đem nước hồ về,
Cho bậc giáo thọ sư,
Thấy vậy bậc Ðạo Sư,
Nói về ta như sau:
Tên A-no-tat-ta
Ta đem nước hồ về,
Cho bậc giáo thọ sư,
Thấy vậy bậc Ðạo Sư,
Nói về ta như sau:
431. Này Sà-ri-put-ta!
Xem đứa trẻ này đến,
Tự bưng cầm ghè nước,
Nội tâm khéo định tĩnh.
Với nhiệm vụ khả ái,
Cử chỉ rất thuần thiện.
Xem đứa trẻ này đến,
Tự bưng cầm ghè nước,
Nội tâm khéo định tĩnh.
Với nhiệm vụ khả ái,
Cử chỉ rất thuần thiện.
432. Người đệ tử Sa-di,
Của Anuruddha,
Có thần thông uy lực,
Thuần thục và điêu luyện.
Của Anuruddha,
Có thần thông uy lực,
Thuần thục và điêu luyện.
433. Thuần lương nhờ
giáo dục,
Do vị đại thuần lương,
Thiện hạnh nhờ giáo dục,
Bởi bậc khéo thiện hạnh.
Nhờ Anuruddha,
Khéo huấn luyện điều phục,
Ðược học tập giảng dạy,
Làm xong việc phải làm.
Do vị đại thuần lương,
Thiện hạnh nhờ giáo dục,
Bởi bậc khéo thiện hạnh.
Nhờ Anuruddha,
Khéo huấn luyện điều phục,
Ðược học tập giảng dạy,
Làm xong việc phải làm.
434. Ðạt được tịnh tối
thắng,
Chứng đắc, không dao động,
Sa-di Sumana,
Muốn: 'Không ai biết ta'.
Chứng đắc, không dao động,
Sa-di Sumana,
Muốn: 'Không ai biết ta'.
(CCXX) Nhàlaka - Muni (Thera. 46)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), trong gia tộc Bà-la-môn, được giáo
dục trong văn chương Vệ-đà, ngài được biết là vị đã đậu cấp bựcNhàlaka (cấp bực tắm rửa). Trở thành một ẩn sĩ, ngài
sống trong một khu rừng cách xa Vương Xá khoảng ba do-tuần, sống với lúa hoang
và thờ lửa.
Ðức Thế Tôn, thấy được
điều kiện trở thành một vị A-la-hán chói sáng trong tâm ngài, như ánh sáng
trong một cái ghè. Thế Tôn đến tại am thất của ngài, ngài vui vẻ đón tiếp đức
Phật, thỉnh đức Phật dùng cơm ngài nấu và như vậy ba ngày trôi qua. Ngày thứ
tư, Thế Tôn nói: 'Ông hết sức yếu ớt, làm sao ông sống với đồ ăn như thế này?'.
Rồi đức Phật giảng về hạnh biết đủ và thuyết pháp cho ngài. Và từ quả Dự Lưu
ngài chứng quả A-la-hán. Thế Tôn xác chứng quả vị cuả ngài và ra đi, ngài vẫn ở
tại chỗ cũ, nhưng rồi bị đau vì tê liệt. Bậc Ðạo Sư lại đến thăm và hỏi ngài về
sức khỏe:
435. Bị bịnh gió chi phối,
Ông sống trong rừng sâu,
Chỗ khất thực hạn chế,
Thân gầy mòn ốm yếu.
Tỷ-kheo sẽ làm gì,
Với thân thể như vậy.
Ông sống trong rừng sâu,
Chỗ khất thực hạn chế,
Thân gầy mòn ốm yếu.
Tỷ-kheo sẽ làm gì,
Với thân thể như vậy.
436. Thân con được tràn
ngập,
Với hỷ lạc tỏa rộng,
Dầu có bị gầy ốm,
Con sẽ sống trong rừng.
Với hỷ lạc tỏa rộng,
Dầu có bị gầy ốm,
Con sẽ sống trong rừng.
437. Tu tập Bảy giác
chi,
Năm căn và Năm lực,
Ðầy đủ thiền tế nhị,
Con sống, không lậu hoặc.
Năm căn và Năm lực,
Ðầy đủ thiền tế nhị,
Con sống, không lậu hoặc.
438. Thoát khỏi các kết
sử,
Tâm tịnh, không uế nhiễm,
Thường hằng, khéo quán sát,
Con sống không lậu hoặc.
Tâm tịnh, không uế nhiễm,
Thường hằng, khéo quán sát,
Con sống không lậu hoặc.
439. Mọi lậu hoặc nội
ngoại,
Trước có mặt trong con,
Tất cả bị chặt đứt,
Thông dư, không khởi nữa.
Trước có mặt trong con,
Tất cả bị chặt đứt,
Thông dư, không khởi nữa.
440. Năm uẩn được liễu
tri,
Chúng đứng, rễ chặt đứt,
Khổ diệt đã đạt được,
Nay không còn tái sanh.
Chúng đứng, rễ chặt đứt,
Khổ diệt đã đạt được,
Nay không còn tái sanh.
(CCXXI) Brahmadatta (Thera. 46)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở Sàvatthi, con vua nước Kosala, tên làBrahmadatta,
ngài chứng kiến uy nghi của đức Phật nhân ngày lễ dâng cúng Jetavana,khởi lòng tin, xuất gia và sau một thời gian chứng sáu thắng trí
với lòng tin và hiểu biết về nghĩa, bởi lòng tin và hiểu biết về Pháp.
Một hôm ngài đi khất
thực, một Bà-la-môn nhiếc mắng ngài, ngài im lặng nghe và tìếp tục đi,
Bà-la-môn ấy lại chửi mắng ngài, và dân chúng phê bình sự im lặng của ngài;
ngài giảng dạy cho dân chúng như sau:
441. Từ đâu phẫn nộ
khởi,
Với người không phẫn nộ,
Với người được nhiếp phục,
Sống nếp sống thăng bằng.
Với vị trí giải thoát,
Phật an tịnh như vậy.
Với người không phẫn nộ,
Với người được nhiếp phục,
Sống nếp sống thăng bằng.
Với vị trí giải thoát,
Phật an tịnh như vậy.
442. Với ai bị chửi
mắng,
Lên tiếng chửi mắng lại,
Người ấy tệ ác hơn,
Người đã chửi mắng trước.
Với ai bị chửi mắng,
Nhưng không chửi mắng lại,
Người ấy được chiến thắng,
Trên cả hai mặt trận.
Lên tiếng chửi mắng lại,
Người ấy tệ ác hơn,
Người đã chửi mắng trước.
Với ai bị chửi mắng,
Nhưng không chửi mắng lại,
Người ấy được chiến thắng,
Trên cả hai mặt trận.
443. Sở hành của người
ấy,
Vừa lợi mình lợi người,
Biết người khác phẫn nộ,
Chánh niệm, tự lắng dịu.
Vừa lợi mình lợi người,
Biết người khác phẫn nộ,
Chánh niệm, tự lắng dịu.
444. Là thầy thuốc cả
hai,
Cho mình và cho người,
Quần chúng nghĩ là ngu,
Không khéo hiểu Chánh Pháp.
Cho mình và cho người,
Quần chúng nghĩ là ngu,
Không khéo hiểu Chánh Pháp.
Rồi Bà-la-môn chửi mắng
ấy nghe những lời này, cảm thấy ưu não và hoan hỷ rồi xin lỗi ngài. Ðược xuất gia
với sự hướng dẫn của ngài, được dạy đề tài quán từ bi, như vậy ngài dạy cho
phương pháp để đối trị phẫn nộ:
445. Nếu phẫn nộ nổi
lên,
Hãy nghĩ dụ cái cưa,
Nếu tham vị khởi lên,
Hãy nghĩ dụ thịt con.
Hãy nghĩ dụ cái cưa,
Nếu tham vị khởi lên,
Hãy nghĩ dụ thịt con.
446. Nếu tâm ngươi chạy
theo,
Theo dục, theo sanh hữu,
Hãy gấp nắm với niệm,
Như nắm con vật ác,
Ði vào trong ruộng lúa.
Theo dục, theo sanh hữu,
Hãy gấp nắm với niệm,
Như nắm con vật ác,
Ði vào trong ruộng lúa.
(CCXXII) Sirimanda (Thera. 47)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở Sunsumàragira trong một gia đình Bà-la-môn. Khi được nghe Thế
Tôn thuyết pháp ở rừng Bhesakalà, ngài khởi lòng tin và xuất gia. Một hôm, nhân
ngày lễ trai giới, trong khi giới bổn Pàtimokkhà đang được đọc, đến phần
cuối phần giới thiệu nói về một lỗi bị phạm được nhẹ đi nếu phát lộ sám hối,
ngài nghĩ đến lợi ích phát lộ sám hối các lỗi đã được giấu đi, và do vậy ngài
phấn khởi hoan hỷ nói lớn tiếng: 'Ôi, thật là hoàn toàn trong sạch, giới luật
của bậc Ðạo Sư!'. Rồi phát triển thiền quán, ngài chứng quả A-la-hán. Ôn lại
con đường đã trải qua, với tâm phấn khởi, ngài dạy các vị đồng Phạm hạnh:
447. Mưa rất là nặng hạt,
Trên tội được che giấu.
Mưa không có nặng nề,
Trên tội được phát lộ,
Ðâu có phát lộ tội,
Như vậy, mưa không nặng.
Trên tội được che giấu.
Mưa không có nặng nề,
Trên tội được phát lộ,
Ðâu có phát lộ tội,
Như vậy, mưa không nặng.
448. Ðời bị chết áp đảo,
Bị giải tỏa, bao vây,
Bị mũi tên ái đâm,
Thường bị dục huân tập.
Bị giải tỏa, bao vây,
Bị mũi tên ái đâm,
Thường bị dục huân tập.
449. Ðời bị chết ấp đảo,
Và bị già bao vây,
Thường bị hại, không yên,
Như cướp với gậy dao.
Và bị già bao vây,
Thường bị hại, không yên,
Như cướp với gậy dao.
450. Chúng đến như đống
lửa,
Cả ba, chết bệnh già,
Không sức nào địch nổi,
Không nhanh nào chạy thoát.
Cả ba, chết bệnh già,
Không sức nào địch nổi,
Không nhanh nào chạy thoát.
451. Chớ để ngày trống
rỗng,
Hãy làm ít hoặc nhiều,
Ðêm càng bị bỏ phí,
Mạng sống càng rút ngắn.
Hãy làm ít hoặc nhiều,
Ðêm càng bị bỏ phí,
Mạng sống càng rút ngắn.
452. Vậy hoặc đi hay
đứng,
Hoặc ngồi hay nằm xuống,
Ðêm cuối đi đến gần,
Ngươi không thời phóng dật.
Hoặc ngồi hay nằm xuống,
Ðêm cuối đi đến gần,
Ngươi không thời phóng dật.
(CCXXIII) Sabbhakàma (Thera. 47)
Trong thời đức Phật hiện
tại, sau khi đức Phật nhập diệt, ngài sanh ở Vesàli, thuộc gia đình quý tộc
và được đặt tên là Sabbhakàma. Khi đến tuổi trưởng thành, thuận theo chí
hướng xuất ly, ngài xuất gia dưới sự hướng dẫn của Tôn giả Sàriputta (Xá-lợi-phất). Trong khi đi học tập, ngài trở về Vesàli với bậc y chỉ sư của mình và về thăm gia đình. Vợ ngài lúc trước,
buồn khổ, gầy mòn, áo xiêm không săn sóc, nước mắt chạy quanh, chào ngài và
đứng một bên. Thấy vợ cứ như vậy, lòng thương hại khởi lên, và quên mất chí
hướng xuất trần, ngài để cho dục vọng nổi lên. Như con ngựa khéo luyện tập bị
roi đánh, ưu não khởi lên và ngài đi đến nghĩa địa để quán bất tịnh. Thiền định
được chứng đạt, thiền quán được triển khai, ngài chứng quả A-la-hán. Rồi nhạc
phụ của ngài dắt vợ cũ của ngài đến, trang điểm thật đẹp mắt, và với một số tùy
tùng đông đảo, đi đến tinh xá để gặp ngài và kéo ngài trở lui với đời sống gia
đình; nhưng ngài tuyên bố với mọi người là ngài đã từ bỏ các dục vọng như vậy,
với những bài kệ như sau:
453. Con vật hai chân
này,
Bất tịnh và hôi thối,
Ðầy các loại tử thi,
Từ đấy, nước rỉ chảy.
Bất tịnh và hôi thối,
Ðầy các loại tử thi,
Từ đấy, nước rỉ chảy.
454. Nai trốn, dùng bẫy
sập,
Với cá dùng câu móc,
Với khỉ, dùng hầm hố,
Phàm phu bị bắt vậy.
Với cá dùng câu móc,
Với khỉ, dùng hầm hố,
Phàm phu bị bắt vậy.
455. Sắc, tiếng, vị,
hương, xúc,
Khả ái và thích ý,
Năm dục trưởng dưỡng này,
Ðược tiếng trong nữ sắc.
Khả ái và thích ý,
Năm dục trưởng dưỡng này,
Ðược tiếng trong nữ sắc.
456. Phàm phu tâm say
đắm,
Chạy theo hưởng nữ sắc,
Tăng nghĩa địa hãi hùng,
Chất chứa sự tái sanh.
Chạy theo hưởng nữ sắc,
Tăng nghĩa địa hãi hùng,
Chất chứa sự tái sanh.
457. Ai tránh né nữ sắc,
Như chân tránh đầu rắn,
Chánh niệm, vượt qua được,
Kẻ đầu độc thế giới.
Như chân tránh đầu rắn,
Chánh niệm, vượt qua được,
Kẻ đầu độc thế giới.
458. Thấy nguy hiểm
trong dục,
An ổn trong viễn ly,
Thoát khỏi tất cả dục,
Ta đạt lậu hoặc tận.
An ổn trong viễn ly,
Thoát khỏi tất cả dục,
Ta đạt lậu hoặc tận.
0 Komentar