Chương IV
-ooOoo-
Phẩm Bốn Kệ
(CLXXXVI) Nàgasamàla (Thera. 33)
Sanh trong thời đức Phật
hiện tại, trong gia đình hoàng tộc Thích-ca, ngài quán sát tánh vô thường của
sự vật và triển khai thiền quán, ngài chứng quả A-la-hán. Ngài chứng minh chánh
trí của ngài dựa trên kinh nghiệm riêng của ngài trong những bài kệ này:
267. Trang điểm, mặc áo
đẹp,
Ðeo vòng hoa, thơm nức,
Mùi thơm gỗ chiên đàn,
Giữa đám đông, đường lớn,
Một vũ nữ đang múa,
Múa lượn theo nhạc khí.
Ðeo vòng hoa, thơm nức,
Mùi thơm gỗ chiên đàn,
Giữa đám đông, đường lớn,
Một vũ nữ đang múa,
Múa lượn theo nhạc khí.
268. Ta vào thành, khất
thực,
Ði ngang, ta thấy nàng
Trang điểm, mặc áo đẹp,
Gieo bẫy mồi thần chết.
Ði ngang, ta thấy nàng
Trang điểm, mặc áo đẹp,
Gieo bẫy mồi thần chết.
269. Rồi ta tự tác ý,
Như lý khởi tư duy,
Các hiểm nguy hiển lộ,
Nhàm chán, ta an trú.
Như lý khởi tư duy,
Các hiểm nguy hiển lộ,
Nhàm chán, ta an trú.
270. Và tâm ta giải
thoát,
Thấy pháp nhĩ là vậy,
Ba minh chứng đạt được,
Lời Phật dạy làm xong.
Thấy pháp nhĩ là vậy,
Ba minh chứng đạt được,
Lời Phật dạy làm xong.
(CLXXXVII) Bhagu (Thera. 33)
Sanh trong thời đức Phật
hiện tại, trong một gia đình dòng họ Sakya (Thích Ca), ngài xuất
gia với Anuruddha và Kimbila, và sống gần làng Bàlakalona. Một ngày kia, khi ngài từ tinh xá ra ngoài để đối trị bịnh buồn
ngủ, ngài té khi ngài bước lên đường kinh hành. Xem đấy để tự khích lệ, ngài tự
chế ngự và phát triển thiền quán, ngài chứng quả A-la-hán. Từ đấy, sống thọ
hưởng an lạc giải thoát Niết-bàn. Thế Tôn đến, tán thán cô độc của ngài và hỏi:
'Này Tỷ-kheo, sao cho đến nay, Thầy vẫn còn tinh tấn?'. Ngài trả lời, với những
bài kệ như sau:
271. Bị buồn ngủ chi
phối,
Ta ra khỏi tinh xá,
Lại lên đường kinh hành,
Tại đấy té xuống đất.
Ta ra khỏi tinh xá,
Lại lên đường kinh hành,
Tại đấy té xuống đất.
272. Xoa bóp cả chân
tay,
Lại lên đường kinh hành,
Qua lại đường kinh hành,
Nội tâm ta định tỉnh.
Rồi ta tự tác ý,
Như lý khởi tư duy,
Các hiểm nguy hiển lộ,
Nhàm chán ta an trú.
Lại lên đường kinh hành,
Qua lại đường kinh hành,
Nội tâm ta định tỉnh.
Rồi ta tự tác ý,
Như lý khởi tư duy,
Các hiểm nguy hiển lộ,
Nhàm chán ta an trú.
273. Và tâm ta giải
thoát
Thấy pháp nhĩ là vậy,
Ba minh chứng đạt được,
Lời Phật dạy làm xong.
Thấy pháp nhĩ là vậy,
Ba minh chứng đạt được,
Lời Phật dạy làm xong.
(CLXXXVIII) Sabhiya (Thera. 33)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh trong gia đình con gái một hoàng tộc, người con gái này được cha
mẹ giao cho một vị du sĩ hướng dẫn để nàng có thể học giáo lý và nếp sống tu
hành. Sabhiya khi lớn lên cũng trở thành một du sĩ, học hỏi
nhiều kinh kệ tụng, trở thành một nhà lý luận sắc bén, không ai sánh nổi. Dựng
am bên cửa thành, ngài dạy học cho con cháu các hoàng tộc, ngài nghĩ ra hai
mươi câu hỏi để ngài hỏi các vị tu sĩ và Bà-la-môn. Trong khi Sabhiyasutta, có ghi là một Bà-la-môn, từ cõi Tịnh cư thiên, đã nghĩ ra các
câu hỏi ấy. Thế Tôn khi đi đến Vương Xá, tinh xá Trúc Lâm, đã trả lời các câu
hỏi và Sabhiya khởi lòng tin, xuất gia và chứng quả A-la-hán.
Khi ngài khuyên dạy các
Tỷ-kheo đã theo phe Devadatta, ngài nói lên những bài kệ như sau:
274. Người khác không rõ
biết,
Ta ở đây một thời,
Tại đây, bậc có trí,
Biết vậy sống tịnh chỉ.
Ta ở đây một thời,
Tại đây, bậc có trí,
Biết vậy sống tịnh chỉ.
275. Khi họ không rõ
biết,
Họ làm như bất tử;
Khi họ rõ biết pháp,
Giữa bệnh, họ không bệnh.
Họ làm như bất tử;
Khi họ rõ biết pháp,
Giữa bệnh, họ không bệnh.
276. Ai sở hành phóng
đãng,
Cấm giới bị uế nhiễm,
Phạm hạnh đáng nghi ngờ,
Vị ấy chứng quả lớn,
Cấm giới bị uế nhiễm,
Phạm hạnh đáng nghi ngờ,
Vị ấy chứng quả lớn,
277. Sống giữa đồng Phạm
hạnh,
Không được trọng, tôn kính,
Vị ấy xa Diệu pháp,
Như trời xa đất liền.
Không được trọng, tôn kính,
Vị ấy xa Diệu pháp,
Như trời xa đất liền.
(CLXXXIX) Nandaka (Thera. 33)
Trong thời Ðức Phật hiện
tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình có gia tộc, và được gọi là Nandaka. Ngài xuất gia, sau khi nghe Thế Tôn thuyết pháp, và phát triển
thiền quán, ngài chứng quả A-la-hán. Sau đó khi đang sống trong an lạc giải
thoát, ngài được bậc Ðạo Sư dạy thuyết pháp cho các Tỷ-kheo-ni và khiến cho năm
trăm vị chứng quả A-la-hán. Ðức Phật ấn chứng cho ngài là vị khuyến giáo Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo-ni đệ nhất.
Rồi một ngày kia, khi đi
khất thực ở Sàvatthi, một nữ nhân trước kia lập gia đình với ngài,
thấy ngài và cười lớn tiếng với một tâm bất chánh. Vị Trưởng lão thấy hành động
của nàng liền dạy cho nàng về thân thể bất tịnh, với những bài kệ sau:
278. Gớm thay, vật hôi
thối!
Ðầy sắc mùi hôi tanh,
Vật sở hữu của ma,
� chảy nhiều dòng nước,
Thân này có chín dòng,
Luôn luôn được tuôn chảy.
Ðầy sắc mùi hôi tanh,
Vật sở hữu của ma,
� chảy nhiều dòng nước,
Thân này có chín dòng,
Luôn luôn được tuôn chảy.
279. Chớ khinh miệt cổ
nhân!
Chớ xúc phạm Như Lai,
Họ không tham thiên giới,
Còn nói gì cõi người.
Chớ xúc phạm Như Lai,
Họ không tham thiên giới,
Còn nói gì cõi người.
280. Kẻ ngu, thiếu trí
tuệ,
Tà ý, si bao phủ,
Kẻ ấy đầy tham đắm,
Bị ma quăng dây trói.
Tà ý, si bao phủ,
Kẻ ấy đầy tham đắm,
Bị ma quăng dây trói.
281. Những ai đã thoát
ly,
Tham, sân và vô minh,
Ðây họ không tham đắm,
Dây cắt, không trói buộc.
Tham, sân và vô minh,
Ðây họ không tham đắm,
Dây cắt, không trói buộc.
(CXC) Jambuka (Thera. 34)
Trong thời Ðức Phật hiện
tại, ngài sanh trong một gia đình rất nghèo. Như trong đời trước, ngài dùng
phân làm đồ ăn, và rời bỏ gia đình, làm vị tu khổ hạnh. Thực hành nhiều khổ
hạnh, ăn từng hạt đậu một, được chấm trên đầu ngọn rơm. Ngài đã năm lăm tuổi
khi đức Phật thấy ngài căn cơ thuần thục, như ngọn đèn đặt trong cài ghè, đi
đến ngài, thuyết pháp và hóa độ cho ngài. Rồi Thế Tôn gọi: 'Hãy đến, này
Tỷ-kheo' và cho ngài xuất gia. Rồi Jambuka phát triển thiền quán và
Thế Tôn ấn chứng ngài chứng quả A-la-hán. Ðây chỉ là sơ lược, trong đoạn sớ
giải các câu kệ của Dhammapàda, câu chuyện được giải thích rộng rãi từ nơi
câu; 'Ăn từng hạt đậu một, với ngọn rơm chấm đậu. Khi đến giờ mệnh chung, ngài
nói lên rằng: dầu một lần sống theo tà hạnh, nhưng nếu dựa vào đức Phật tối
thượng, ngài cũng có thể chứng quả như các đệ tử khác. Ngài nói lên những bài
kệ:
282. Trải năm mươi lăm
năm,
Thân đầy những bụi bặm,
Ăn cơm tháng một lần,
Tóc râu ta nhổ sạch.
Thân đầy những bụi bặm,
Ăn cơm tháng một lần,
Tóc râu ta nhổ sạch.
283. Ta đứng chỉ một
chân,
Ta không dùng giường nằm,
Ta ăn phân phơi khô,
Ta không nhận lời mời.
Ta không dùng giường nằm,
Ta ăn phân phơi khô,
Ta không nhận lời mời.
284. Sở hành ta nhiều
vậy,
Dẫn ta đến ác thú,
Bị nước lớn cuốn trôi,
Cho đến khi quy Phật.
Dẫn ta đến ác thú,
Bị nước lớn cuốn trôi,
Cho đến khi quy Phật.
285. Hãy nhìn Phật ta
quy
Hãy nhìn Pháp, pháp nhĩ
Ba minh ta đạt được
Lời Phật dạy làm xong
Hãy nhìn Pháp, pháp nhĩ
Ba minh ta đạt được
Lời Phật dạy làm xong
(CXCI) Senaka (Thera. 34)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh trong một gia đình, con trai người chị của Trưởng lão Kassapa ở Uruvela, và được đặt tên là Senaka. Khi học về văn hóa Vệ-đà Bà-la-môn, ngài ở với gia đình. Trong
thời ấy dân chúng tổ chức hàng năm vào thángThaggumà (tháng ba) một lễ quán đảnh một bến nước, lễ ấy
được gọi là Gayà melà (hay ngày trai giới Gayà).
Thế Tôn vì lòng thương
tưởng đến những người có thể giáo hóa, ở lại gần bờ sông. Và khi quần chúng tụ
họp lại, Senaka cũng đến, nghe bậc Ðạo Sư thuyết giảng được cảm
hóa xuất gia và không bao lâu chứng quả A-la-hán. Sau đó, suy tuởng đến sự
thắng trận của mình, ngài cảm thấy hân hoan, và ứng khẩu nói lên những bài kệ
này
286. Thật tốt lành cho
ta,
Khi ở thành Gayà,
Trong tháng lễ mùa xuân,
Tháng tên Phagguna,
Ta thấy bậc Chánh Giác,
Thuyết Chánh pháp tối thượng.
Khi ở thành Gayà,
Trong tháng lễ mùa xuân,
Tháng tên Phagguna,
Ta thấy bậc Chánh Giác,
Thuyết Chánh pháp tối thượng.
287. Bậc có hào quang
lớn,
Là Ðạo Sư hội chúng,
Ðạt được vị tối thắng,
Bậc lãnh đạo nhiếp chúng,
Chiến thắng giới Trời, Người,
Bậc thấy khó cân lường.
Là Ðạo Sư hội chúng,
Ðạt được vị tối thắng,
Bậc lãnh đạo nhiếp chúng,
Chiến thắng giới Trời, Người,
Bậc thấy khó cân lường.
288. Ðại long tượng, đại
hùng,
Ðại quang minh, vô lậu,
Mọi lậu hoặc đoạn tận,
Ðạo Sư, không sợ hãi.
Ðại quang minh, vô lậu,
Mọi lậu hoặc đoạn tận,
Ðạo Sư, không sợ hãi.
289. Lâu nay ta uế
nhiễm,
Bị tà kiến trói buộc,
Nay chính Thế Tôn ấy,
Giải thoát Senaka,
Thoát khỏi mọi buộc ràng,
Ðược tự tại , giải thoát.
Bị tà kiến trói buộc,
Nay chính Thế Tôn ấy,
Giải thoát Senaka,
Thoát khỏi mọi buộc ràng,
Ðược tự tại , giải thoát.
(CXCII) Sambhùta (Thera. 34)
Trong thời Ðức Phật hiện
tại, ngài sanh trong một gia đình có giai cấp, và sau khi bậc Ðạo Sư tịch diệt,
ngài được Ananda giáo hóa, xuất gia và chứng quả A-la-hán. Ngài
sống trong an lạc giải thoát, cho đến khi một trăm năm sau khi đức Phật nhập
diệt, các Tỷ-kheo Vajjì đề xướng mười tà pháp bị Trưởng lão Niyasa và các Tỷ-kheo Kàlanndakachống lại và một kỳ kiết tập được tổ chức với
bảy trăm vị A-la-hán. Ngài Sambhùta, bị xúc động bởi hành động xuyên tạc Pháp và
Luật, nói lên những bài kệ này và tuyên bố chánh trí của ngài:
290. Ai khi phải từ từ
Lại lội qua gấp gấp,
Ai khi phải lội gấp,
Lại từ từ lội qua,
Kẻ ngu thiếu chánh lý,
Ði đến cảnh khổ đau.
Lại lội qua gấp gấp,
Ai khi phải lội gấp,
Lại từ từ lội qua,
Kẻ ngu thiếu chánh lý,
Ði đến cảnh khổ đau.
291. Lợi ích bị tổn
giảm,
Như trăng vào thời đen,
Gặp phải sự ô nhục,
Chống đối các bạn bè.
Như trăng vào thời đen,
Gặp phải sự ô nhục,
Chống đối các bạn bè.
292. Ai khi phải từ từ,
Lội qua rất từ từ,
Ai khi phải lội gấp,
Lội qua thật gấp gáp,
Kẻ trí có chánh lý,
Ði đến cảnh an lạc.
Lội qua rất từ từ,
Ai khi phải lội gấp,
Lội qua thật gấp gáp,
Kẻ trí có chánh lý,
Ði đến cảnh an lạc.
293. Lợi ích được viên
mãn,
Như trăng vào thời sáng,
Ðược danh tiếng vinh dự,
Không chống đối bạn bè.
Như trăng vào thời sáng,
Ðược danh tiếng vinh dự,
Không chống đối bạn bè.
(CXCIII) Ràhula (Thera. 35)
Ngài là con của đức Phật
và công chúa Yasodhàra, và được nuôi dưỡng với các hoàng tử khác.
Trường hợp ngài xuất gia đã được ghi trong tập Khandhaka. Nhờ những lời dạy trong nhiều bài kinh, trí tuệ ngài thuần thục
và phát triển thiền quán, ngài chứng quả A-la-hán. Suy tư đến sự thắng trận của
mình, ngài nói lên chánh trí:
294. Nhờ ta được đầy đủ,
Hai đức tánh tốt đẹp,
Ðược bạn có trí gọi,
'Ra-hu-la may mắn'
Ta là con đức Phật,
Ta lại được Pháp nhãn.
Hai đức tánh tốt đẹp,
Ðược bạn có trí gọi,
'Ra-hu-la may mắn'
Ta là con đức Phật,
Ta lại được Pháp nhãn.
295. Các lậu hoặc ta
đoạn,
Không còn có tái sanh,
Ta là bậc La-hán,
Ðáng được sự cúng dường.
Ba minh ta đạt được,
Thấy đuợc giới bất tử.
Không còn có tái sanh,
Ta là bậc La-hán,
Ðáng được sự cúng dường.
Ba minh ta đạt được,
Thấy đuợc giới bất tử.
296. Bị dục làm mù
quáng,
Bị lưới tà bao trùm,
Khát ái làm màn che,
Bao trùm che phủ kín.
Do phóng dật trói buộc,
Như cá mắc mắt lưới.
Bị lưới tà bao trùm,
Khát ái làm màn che,
Bao trùm che phủ kín.
Do phóng dật trói buộc,
Như cá mắc mắt lưới.
297. Ta vượt qua dục ấy,
Cắt đứt ma trói buộc,
Nhổ lên gốc khát ái,
Ta mát lạnh tịch tịnh.
Cắt đứt ma trói buộc,
Nhổ lên gốc khát ái,
Ta mát lạnh tịch tịnh.
(CXCIV) Candana (Thera. 35)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài tái sanh trong một gia đình giàu có và đặt tên làCandana, ngài
sống một đời sống gia đình cho đến khi ngài được nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp.
Và chứng quả Dự Lưu. Khi ngài sanh được một người con, ngài xuất gia, chọn lựa
một đề tài thiền quán và sống ở trong rừng. Ði đến Sàvatthi để yết kiến bậc Ðạo Sư, ngài ở trong một bãi tha
ma, vợ ngài nghe tin ngài đến, liền trang điểm, đem con theo, nghĩ rằng: 'Với
nhan sắc nàng có thể khiến ngài từ bỏ xuất gia'. Ngài thấy nàng từ xa đi đến
nghĩ cách để thoát khỏi bị nàng cám dỗ, phát triển thiền quán và chứng được sáu
thắng trí. Ngài thuyết giảng cho nàng, khiến nàng qui y và thọ các giới. Rồi
ngài trở lui ở chỗ cũ của ngài. Khi các Tỷ-kheo bạn hỏi ngài: 'Các căn của bạn
chói sáng, bạn đã chứng sự thực gì?'. Ngài nói lên quả chứng của mình, và với
những bài kệ này, chứng minh chánh trí của mình.
298. Với vàng che phủ
kín,
Chúng nữ tỳ vây quanh,
Mang theo đứa con thơ,
Người vợ đến với ta.
Chúng nữ tỳ vây quanh,
Mang theo đứa con thơ,
Người vợ đến với ta.
299. Thấy mẹ của con ta,
Từ xa đang đi đến,
Khéo trang điểm đẹp đẽ,
Như ma gieo bẫy mồi.
Từ xa đang đi đến,
Khéo trang điểm đẹp đẽ,
Như ma gieo bẫy mồi.
300. Rồi ta tự tác ý,
Như lý khởi tư duy,
Các hiểm nguy hiển lộ,
Nhàm chán, ta an trú.
Như lý khởi tư duy,
Các hiểm nguy hiển lộ,
Nhàm chán, ta an trú.
301. Và tâm ta giải
thoát,
Thấy pháp nhĩ là vậy,
Ba minh chứng đạt được,
Lời Phật dạy làm xong.
Thấy pháp nhĩ là vậy,
Ba minh chứng đạt được,
Lời Phật dạy làm xong.
(CXCV) Dhammika (Thera. 35)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn ở Kosala, tên làDhammika. Khi Jetavana (Kỳ Viên) được dâng cúng, ngài khởi lòng tin, và
xuất gia. Sống tại một tinh xá ở làng, ngài cảm thấy bất mãn và khó chịu đối
với các công việc các Tỷ-kheo đến tinh xá. Do vậy các Tỷ-kheo đều bỏ đi và ngài
làm chủ một mình một ngôi tinh xá. Một cư sĩ báo cáo sự việc lên bậc Ðạo Su,
bậc Ðạo Sư cho gọi ngài lên để giải thích. Theo lời các Tỷ-kheo yêu cầu, ngài
nói lên những bài kệ như sau:
302. Pháp che chở hộ
trì,
Người hành trì Chánh pháp,
Pháp đem lại an lạc,
Cho người khéo hành pháp,
Ðây là những lợi ích,
Khi pháp khéo hành trì,
Người hành trì Chánh pháp,
Không đi xuống ác thú.
Người hành trì Chánh pháp,
Pháp đem lại an lạc,
Cho người khéo hành pháp,
Ðây là những lợi ích,
Khi pháp khéo hành trì,
Người hành trì Chánh pháp,
Không đi xuống ác thú.
303. Cả hai pháp, phi
pháp,
Kết quả không giống nhau;
Phi pháp, dẫn địa ngục,
Pháp đưa đến cõi lành.
Kết quả không giống nhau;
Phi pháp, dẫn địa ngục,
Pháp đưa đến cõi lành.
304. Do vậy, đối Chánh
pháp,
Khởi ý muốn hành trì,
Tâm tư sanh hoan hỷ,
Khéo thiện lai như vậy.
Vững trú trên Chánh pháp,
Ðệ tử bậc Thiện Thệ,
Sáng suốt tiến bước lên,
Quy y bậc tối thượng.
Khởi ý muốn hành trì,
Tâm tư sanh hoan hỷ,
Khéo thiện lai như vậy.
Vững trú trên Chánh pháp,
Ðệ tử bậc Thiện Thệ,
Sáng suốt tiến bước lên,
Quy y bậc tối thượng.
305. Phá vỡ cội ung
nhọt,
Nhổ lên lưới ái triền,
Luân hồi được đoạn tận,
Không còn có sanh y,
Như trăng vào ngày rằm,
Trong đêm thanh trong sáng.
Nhổ lên lưới ái triền,
Luân hồi được đoạn tận,
Không còn có sanh y,
Như trăng vào ngày rằm,
Trong đêm thanh trong sáng.
Khi Thế Tôn dạy ba bài
kệ trên, Dhammika trên chỗ ngồi phát triển thiền quán và chứng quả
A-la-hán. Ðể nói lên quả chứng của mình cho bậc Ðạo Sư rõ, ngài nói lên bài kệ
cuối cùng để nói lên chánh trí của ngài.
(CXCVI) Sabbaka (Thera. 35)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở Sàvatthi trong một gia đình Bà-la-môn, ngài nghe Thế Tôn
thuyết pháp, khởi lòng tin và xuất gia. Lựa chọn một đề tài để thiền quán, ngài
đi đến tinh xá Lonagiri, trên bờ sông Ajakaranì và tại đấy, sau một thời
gian chứng quả A-la-hán. Ði đến Sàvatthi để yết kiến bậc Ðạo Sư, ngài ở lại một thời gian
và được bà con đón tiếp. Sau khi khuyên các bà con quy y và giữ giới, ngài muốn
trở về chỗ cũ. Các bà con yêu cầu ngài ở lại để được bà con cúng dường, nhưng
ngài nói cho họ rõ vì sao ngài đến đây, và sự ưa thích đời sống độc cư. Ngài
nói lên bài kệ tán thán trú xứ của ngài:
306. Khi ta thấy con cò,
Trương đôi cánh trắng tinh,
Sợ hãi đám mây đen,
Tìm chỗ kín ẩn nấp;
Khi ấy chính con sông,
Ajakaranì,
Ðem hoan hỷ cho ta.
Trương đôi cánh trắng tinh,
Sợ hãi đám mây đen,
Tìm chỗ kín ẩn nấp;
Khi ấy chính con sông,
Ajakaranì,
Ðem hoan hỷ cho ta.
307. Khi ta thấy con cò,
Trương đôi cánh trắng sạch,
Sợ hãi đám mây đen,
Tìm hang để ẩn nấp,
Nhưng tìm không có thấy.
Khi ấy chính con sông,
Ajakaranì,
Ðem hoan hỷ cho ta.
Trương đôi cánh trắng sạch,
Sợ hãi đám mây đen,
Tìm hang để ẩn nấp,
Nhưng tìm không có thấy.
Khi ấy chính con sông,
Ajakaranì,
Ðem hoan hỷ cho ta.
308. Ai lại không thích
thú,
Khi thấy ở tại đây,
Trên cả hai dãy bờ,
Có hàng cây Jambu,
Làm chói sáng bờ sông,
Sau lưng cái hang lớn.
Khi thấy ở tại đây,
Trên cả hai dãy bờ,
Có hàng cây Jambu,
Làm chói sáng bờ sông,
Sau lưng cái hang lớn.
309. Hãy nghe những con
nhái,
Khéo thoát những đàn rắn,
Kêu lên niềm hoan hỷ,
Với tiếng kêu nhẹ nhàng:
Nay không phải là thời,
Buông thả với suối rừng,
Thật an ổn con sông
Ajakaranì,
Thoải mái và yên lành,
Thật an vui thích thú!
Khéo thoát những đàn rắn,
Kêu lên niềm hoan hỷ,
Với tiếng kêu nhẹ nhàng:
Nay không phải là thời,
Buông thả với suối rừng,
Thật an ổn con sông
Ajakaranì,
Thoải mái và yên lành,
Thật an vui thích thú!
Rồi các bà con thuận để
ngài đi. Vì ngài thích sống nhàn tịnh, đây trở thành lời tuyên bố chánh trí của
ngài.
(CXVII) Mudita (Thera 36)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh trong một gia đình thường dân và được đặt tên làMudita.
Khi ngài đến tuổi trưởng thành , dòng họ ngài vì một vài nguyên nhân, bị vua
chống đối Mudita, quá sợ vua nên bỏ chạy, đi vào rừng và sống
gần trú xứ của một Trưởng lão đã chứng quả A-la-hán. Vị này thấy ngài quá sợ
hãi, bảo ngài chớ có sợ. Ngài hỏi cần phải bao nhiêu thời gian mới khỏi tai
nạn, vị A-la-hán nói cần phải bảy hay tám tháng, ngài nói ngài không thể đợi
lâu như thế nên xin xuất gia. Vị Trưởng lão cho phép ngài được xuất gia. Ngài
xuất gia, học đạo, khởi lòng tin, không còn sợ hãi nữa, và tu tập thiền quán.
Chưa chứng được quả A-la-hán, ngài nguyện không rời khỏi tinh xá cho đến khi
chứng quả và cuối cùng ngài đã thành công. Sau đó, ngài sống trong an lạc giải
thoát, các Tỷ-kheo đồng Phạm hạnh hỏi ngài làm sao ngài thành đạt được chí
nguyện, ngài nói lên kinh nghiệm của ngài trong những bài kệ như sau:
310. Ðể cứu mạng sống
ta,
Ta xuất gia tu hành,
Ta được thọ đại giới,
Nhờ vậy được lòng tin,
Ta kiên trì tinh tấn,
Hăng hái ta tiến bước.
Ta xuất gia tu hành,
Ta được thọ đại giới,
Nhờ vậy được lòng tin,
Ta kiên trì tinh tấn,
Hăng hái ta tiến bước.
311. Dầu thân này hủy
hoại,
Từng miếng thịt tiêu mòn,
Ðầu khớp xương hai gối,
Ống chân làm ta ngã.
Từng miếng thịt tiêu mòn,
Ðầu khớp xương hai gối,
Ống chân làm ta ngã.
312. Ta sẽ không ăn
uống,
Không ra ngoài tinh xá,
Ta sẽ không nằm xuống,
Không nằm một bên hông,
Nếu mũi tên tham ái,
Chưa được rút nhổ lên.
Không ra ngoài tinh xá,
Ta sẽ không nằm xuống,
Không nằm một bên hông,
Nếu mũi tên tham ái,
Chưa được rút nhổ lên.
313. Hạnh ta sống như
vậy,;
Hãy nhìn ta tinh cần,
Ba minh ta đạt được,
Lời Phật dạy làm xong.
Hãy nhìn ta tinh cần,
Ba minh ta đạt được,
Lời Phật dạy làm xong.
0 Komentar