Chương III
-ooOoo-
Phẩm Ba Kệ
(CLXX) Anganika Bhàradvàja (Thera. 29)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh gần núi Hy-mã-lạp-sơn, trong thành phốUkkattha, trong gia
đình một Bà-la-môn phú cường và được đặt tên là AnganikaBhàradvàja. Khi ngài được học xong giáo điển và nghệ thuật
Vệ-đà, ngài hướng về giải thoát. Trong khi bộ hành chỗ này chỗ khác, ngài gặp
bậc Ðạo Sư khi bậc Ðạo Sư đang du hành ở vùng quê, và với tâm tư tín thành,
ngài nghe bậc Ðạo Sư thuyết giảng. Từ bỏ tà khổ hạnh, ngài xuất gia, tu tập
thiền quán, và sau một thời gian chứng được sáu thắng trí.
Sau khi sống tận hưởng
vị ngọt giải thoát, ngài với lòng thương đối với bà con, đến thăm và dạy họ về
quy y và giới luật. Rồi từ giã các bà con, ngài sống trong một ngôi rừng gần
làng Kundiya của dân tộc Kuru. Khi có việc đi đến Uggàyàman, một số Bà-la-môn quen biết đến hỏi: 'Thưa Tôn giả Bhàradvàja, do ngài thấy gì mà ngài từ bỏ giáo hội
Bà-la-môn, và chấp nhận giáo hội này?' Ngài nêu rõ, ngoài giáo hội đức Phật,
không có giới thanh tịnh, ngài nói:
219. Trong rừng ta thờ
lửa,
Truyền thống không chơn chánh,
Không biết đường thanh tịnh,
Theo khổ hạnh bất tử.
Truyền thống không chơn chánh,
Không biết đường thanh tịnh,
Theo khổ hạnh bất tử.
220. Với lạc, ta được
lạc,
Hãy xem pháp, tùy pháp,
Ba minh chứng đạt được,
Lời Phật dạy, làm xong.
Hãy xem pháp, tùy pháp,
Ba minh chứng đạt được,
Lời Phật dạy, làm xong.
221. Trước bà con Phạm
chí,
Nay ta chính Phạm chí,
Ba minh, ta quán đảnh,
An ổn ta đạt được,
Thông hiểu đúng Chánh pháp,
Thuần thục lời Phật dạy.
Nay ta chính Phạm chí,
Ba minh, ta quán đảnh,
An ổn ta đạt được,
Thông hiểu đúng Chánh pháp,
Thuần thục lời Phật dạy.
Khi các Bà-la-môn ấy
nghe ngài nói, các vị ấy chấp nhận và từ bỏ rất là phấn khởi.
(CLXXI) Paccaya (Thera. 29)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở thành Rohi trong một gia đình hoàng tộc, và được đặt tên là Paccaya. Thọ hưởng gia tài khi phụ thân mệnh chung, ngài tuyên bố tổ chức
một đàn bố thí rất lớn và một số đông người tụ họp. Trong cuộc tụ họp này, bậc
Ðạo Sư ngồi trên một ngai vàng trong một ngôi nhà trang hoàng châu báu. Ðức
Phật thuyết pháp, trong khi mọi người ngắm, chiêm ngưỡng ngài. Phần lớn dân
chúng hiểu lời đức Bổn Sư dạy, nhưng ngài Paccaya đi xa hơn. Thúc đẩy bởi
nghiệp duyên đời trước, ngài từ bỏ tài sản và xuất gia như trước kia ngài đã
phát nguyện dưới thời đức Phật Kassapa, nay ngài đã phát nguyện, khi đã vào am tranh
tu hành, nếu chưa giải thoát thời không ra khỏi am này và cuối cùng thiền quán
được phát triển, trí tuệ được thuần thục, ngài chứng quả A-la-hán. Ðể kỷ niệm
thành quả này, ngài nói lên quả chứng của ngài, ngang qua những bài kệ như sau:
222. Năm ngày ta xuất
gia,
Hữu học, ý chưa đạt,
Ta trú hạnh viễn ly,
Tâm phát nguyện như sau:
Hữu học, ý chưa đạt,
Ta trú hạnh viễn ly,
Tâm phát nguyện như sau:
223. Ta sẽ không ăn
uống,
Không ra ngoài tinh xá,
Ta sẽ không nằm xuống,
Không nằm một bên hông,
Nếu mũi tên tham ái,
Chưa rút nhổ lên được.
Không ra ngoài tinh xá,
Ta sẽ không nằm xuống,
Không nằm một bên hông,
Nếu mũi tên tham ái,
Chưa rút nhổ lên được.
224. Hạnh ta sống như
vậy,
Hãy nhìn ta tinh cần,
Ba minh ta đạt được,
Lời Phật dạy làm xong.
Hãy nhìn ta tinh cần,
Ba minh ta đạt được,
Lời Phật dạy làm xong.
(CLXXII) Bàkula (Thera. 29)
Ngài sanh ở Kosambi, trong một gia đình có chức vụ, trước khi bậc Ðạo Sư sanh ra, và
ngài được đem đi tắm ở sông Yamunà để được sức khỏe, và một con cá nuốt ngài trong
tay người vú. Con cá bị người câu cá bắt được và đem bán cho vợ một vị chức sắc
khác ở Ba-la-nại. Khi con cá bị mổ ra, đứa con nít nhờ phước nghiệp đời trước,
nên còn sống không bị thương tích. Vợ vị chức sắc thương ngài như con đẻ, và
khi bà nghe được câu chuyện của ngài, và hỏi về cha mẹ. Vua trong nước quyết
định cho ngài thuộc quyền sở hữu của hai gia đình, và do vậy ngài được tên là Bàkula (hai gia đình).
Sau một đời sống giàu
sang, ngài nghe đức Bổn Sư thuyết pháp, xuất gia khi tám mươi tuổi. Trong bảy
ngày, ngài chưa được giác ngộ, nhưng ngày thứ tám, ngài chứng được quả
A-la-hán, thông hiểu nghĩa, thông hiểu pháp.
Một hôm, khi ấn chứng vị
trí tu hành cho các vị đệ tử, bậc Ðạo Sư ấn chứng cho ngài là vị đệ tử có sức
khỏe đệ nhất. Về sau, khi sắp sửa mệnh chung ngài nói lên chánh trí của ngài
giữa hội chúng Tỷ-kheo như sau:
225. Với ai những công
việc
Cần phải làm từ trước,
Về sau, vị ấy mới
Có ý định muốn làm.
Vị ấy tự phá hoại
Căn cứ địa an lạc,
Về sau, chịu khổ đau
Trong nung nấu hối tiếc.
Cần phải làm từ trước,
Về sau, vị ấy mới
Có ý định muốn làm.
Vị ấy tự phá hoại
Căn cứ địa an lạc,
Về sau, chịu khổ đau
Trong nung nấu hối tiếc.
226. Hãy nói điều có
làm,
Không nói điều không làm,
Bậc Hiền trí rõ biết,
Người chỉ nói, không làm.
Không nói điều không làm,
Bậc Hiền trí rõ biết,
Người chỉ nói, không làm.
227. Niết-bàn nhiệm màu
lạc,
Bậc Chánh Giác thuyết giảng,
Không sầu muộn là tham,
Thật sự là an ổn,
Tại đấy, sự đau khổ,
Ðược đoạn diệt hoàn toàn.
Bậc Chánh Giác thuyết giảng,
Không sầu muộn là tham,
Thật sự là an ổn,
Tại đấy, sự đau khổ,
Ðược đoạn diệt hoàn toàn.
(CLXXIII) Dhaniya (Thera. 29)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá) trong một gia đình thợ làm đồ gốm,
được đặt tên là Dhaniya, và tiếp tục làm nghề của ông cha. Chính trong
nhà của ngài, bậc Ðạo Sư giảng cho Pakkusati kinh Dhàtuvibhangasutta. Dhaniya nghe tin Pukkasati (đã thành bậc A-la-hán)
mệnh chung đêm ấy. Ngài nghĩ: 'Lời Phật dạy thật là sức mạnh lãnh đạo, chỉ có
một đêm đã đủ giải thoát một người khỏi sự đau khổ tái sanh'. Rồi ngài xuất
gia. Tuy vậy ngài vẫn tiếp tục nghề làm ngói lợp nhà. Bị đức Phật quở vì đã là
am tranh bằng gạch, ngài quyết định sống giữa các Tỷ-kheo, và tại đấy chứng quả
A-la-hán.
Về sau, nhân dịp giáo
giới các Tỷ-kheo tu tập khổ hạnh và xem hạnh mình cao hơn các người khác, ngài
tuyên bố chánh trí ngài như sau:
228. Nếu muốn mong đợi
lạc
Trong đời sống Sa-môn,
Chớ khinh y chúng Tăng,
Chớ khinh Tăng ẩm thực.
Nếu muốn mong đợi lạc
Trong đời sống Sa-môn,
Hãy sử dụng trú xứ,
Như rắn và như chuột.
Trong đời sống Sa-môn,
Chớ khinh y chúng Tăng,
Chớ khinh Tăng ẩm thực.
Nếu muốn mong đợi lạc
Trong đời sống Sa-môn,
Hãy sử dụng trú xứ,
Như rắn và như chuột.
229. Nếu muốn mong đợi
lạc
Trong đời sống Sa-môn,
Hãy biết tự bằng lòng
Với bất cứ việc gì,
Và hãy cương quyết tu,
Tu tập hạnh nhất pháp.
Trong đời sống Sa-môn,
Hãy biết tự bằng lòng
Với bất cứ việc gì,
Và hãy cương quyết tu,
Tu tập hạnh nhất pháp.
(CLXXIV) Con Của Màtanga (Thera. 30)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở Kosala, con một điền chủ tên Màtanga, và được gọi là con của Màtanga. Ngài lớn lên trong
biếng nhác, và khi ngài bị quần chúng la rầy, ngài làm quen với các Tỷ-kheo,
nhận thấy các Tỷ-kheo sống thật hạnh phúc. Nhưng khi nghe bậc Ðạo Sư thuyết
pháp, ngài khởi lòng tin và xin xuất gia. Thấy các Tỷ-kheo sử dụng thần thông,
ngài muốn chứng đạt thần thông. Và thực hành các thiền quán, ngài chứng được
sáu thắng trí.
Từ đấy, ngài chỉ trích
biếng nhác, tán thành sự tinh cần của ngài với những bài kệ như sau:
230. Ôi quá lạnh, quá
nóng!
Ôi, đã quá trễ rồi!
Ðây là lời kêu than,
Như vậy bỏ việc làm,
Thời sát-na quý báu
Lặng lẽ vượt trôi qua.
Ôi, đã quá trễ rồi!
Ðây là lời kêu than,
Như vậy bỏ việc làm,
Thời sát-na quý báu
Lặng lẽ vượt trôi qua.
231. Ai nghĩ đến lạnh
nóng,
Không hơn loài cỏ rác,
Làm bổn phận con người,
Không hại đến an lạc.
Không hơn loài cỏ rác,
Làm bổn phận con người,
Không hại đến an lạc.
232. Cỏ dabba, ku-sa,
Loại cỏ gai đâm ngực,
Ta dùng ngực đẩy chúng,
Sống tăng trưởng viễn ly.
Loại cỏ gai đâm ngực,
Ta dùng ngực đẩy chúng,
Sống tăng trưởng viễn ly.
(CLXXV) Khujja Sobhita (Thera. 30)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở Pàtaliputta trong một gia đình Bà-la-môn và được gọi là Sobhita. Vì ngài hơi còm, ngài được gọi là Khujja Sobhita (còm lưng). Khi đến tuổi trưởng thành, đức Bổn
Sư vừa diệt độ, ngài được Tôn giả Ananda độ cho xuất gia và chứng
được sáu thắng trí.
Trong kỳ kiết tập thứ
nhất, ngài được bảo mời Tôn giả Ananda đến dự đại hội. Lúc ấy, các thiên nhân cử một
thiên nhân đứng ở cửa hang để chận đứng các hành vi thù nghịch của Ác ma, và
khuyên Sobhita tuyên bố sự có mặt của mình cho thiên nhân ấy,
với những bài kệ như sau:
233. Giữa các vị Sa-môn,
Sống Pàtaliputta,
Những vị luận thuyết giỏi,
Những vị có nghe nhiều,
Có một vị tuổi lớn
Ðứng ở tại cửa vào,
Tên là Sobhita,
Có tật, bị còm lưng.
Sống Pàtaliputta,
Những vị luận thuyết giỏi,
Những vị có nghe nhiều,
Có một vị tuổi lớn
Ðứng ở tại cửa vào,
Tên là Sobhita,
Có tật, bị còm lưng.
Rồi vị thiên nhân tuyên
bố cho chúng Tỷ-kheo biết sự có mặt của Khujja Sobhita:
234. Giữa các vị Sa-môn,
Sống Pataliputta,
Những vị luận thuyết giỏi,
Những vị có nghe nhiều,
Có một vị tuổi lớn,
Ðứng ở tại cửa vào,
Vị ấy đã đến đây,
Theo ngọn gió đưa đến.
Sống Pataliputta,
Những vị luận thuyết giỏi,
Những vị có nghe nhiều,
Có một vị tuổi lớn,
Ðứng ở tại cửa vào,
Vị ấy đã đến đây,
Theo ngọn gió đưa đến.
Rồi chúng Tăng cho phép,
vị Trưởng lão đến trước chúng Tăng và nói lên chánh trí của mình.
235. Vị ấy khéo chiến
đấu,
Vị ấy khéo tế tự,
Trên chiến trường chiến đấu,
Vị ấy đã chiến thắng,
Với Phạm hạnh tích lũy,
Vị ấy đạt an lạc.
Vị ấy khéo tế tự,
Trên chiến trường chiến đấu,
Vị ấy đã chiến thắng,
Với Phạm hạnh tích lũy,
Vị ấy đạt an lạc.
(CLXXVI) Vàrana (Thera. 30)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở Kosala, trong gia đình Bà-la-môn, được đặt tên là Vàrana. Khi đến tuổi trưởng thành, vị ấy nghe một vị Trưởng lão thuyết
pháp trong một ngôi rừng, và với lòng tin, xuất gia. Một ngày kia đi đến hầu hạ
đức Phật, ngài chứng kiến một cuộc ấu đả trong gia đình và có nhiều người bị
giết. Hốt hoảng, bị dao động, ngài đi gấp đến Thế Tôn và tường thuật sự việc.
Thế Tôn thấy sự tiến bộ trong tâm tư của ngài, nên nói lên bài kệ khích lệ
ngài:
236. Ai ở đời, giữa
người,
Làm hại chúng sanh khác,
Vị ấy tự hại mình
Ðời này và đời sau.
Làm hại chúng sanh khác,
Vị ấy tự hại mình
Ðời này và đời sau.
237. Ai với tâm từ bi,
Thương tưởng mọi hữu tình,
Một người làm như vậy,
Gặt phước đức thật nhiều.
Thương tưởng mọi hữu tình,
Một người làm như vậy,
Gặt phước đức thật nhiều.
238. Hãy học tập khéo
nói,
Hãy hầu hạ Sa-môn,
Sống một mình kín đáo,
Với tâm tư tịnh chỉ.
Hãy hầu hạ Sa-môn,
Sống một mình kín đáo,
Với tâm tư tịnh chỉ.
(CLXXVII) Passsika (Thera. 30)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn ở Kosala, thấy Thế Tôn thực hiện thần thông song hành,
khởi lòng tin, xuất gia. Ngài bị bệnh trong khi học tập đời sống một ẩn sĩ, bà
con săn sóc cho ngài và chữa ngài lành bệnh, khi được lành bệnh, ngài phấn khởi
nên tu học siêng năng hơn và chứng được sáu thắng trí. Ngài bay trên hư không,
đến thăm bà con và quy y, thọ giới cho họ. Một số bà con nhờ ngài quy y và thọ
giới, khi mạng chung và được sanh lên các cõi trời. Khi Passika hầu hạ bậc Ðạo Sư, bậc Ðạo Sư hỏi về sức khỏe bà
con của ngài, Passika trả lời như sau:
239. Ðầu chỉ một mình
ta,
Có lòng tin, sáng suốt,
Giữa các bà con ta,
Những người không lòng tin,
Thông hiểu được Chánh pháp,
Ðầy đủ những giới đức,
Vì lợi ích hạnh phúc,
Cho các bà con ta.
Có lòng tin, sáng suốt,
Giữa các bà con ta,
Những người không lòng tin,
Thông hiểu được Chánh pháp,
Ðầy đủ những giới đức,
Vì lợi ích hạnh phúc,
Cho các bà con ta.
240. Những bà con bị ta,
Vì thương họ trách móc,
Do bà con ái mộ,
Làm tốt đối Tỷ-kheo.
Vì thương họ trách móc,
Do bà con ái mộ,
Làm tốt đối Tỷ-kheo.
241. Khi họ bị mệnh
chung,
Họ được lạc chư Thiên,
Các anh và mẹ ta,
Hoan hỷ điều họ muốn.
Họ được lạc chư Thiên,
Các anh và mẹ ta,
Hoan hỷ điều họ muốn.
(CLXXVIII) Yasoja (Thera. 30)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh tại cửa thành ở Sàvatthi, trong một làng người đánh cá, con vị chủ hộ
năm trăm gia đình đánh cá và được gọi là Yasoja. Ðến tuổi trưởng thành,
một hôm ngài đánh cá với những người con các người đánh cá trên sôngAciravati,
quăng lưới, ngài bắt được con cá lớn có màu sắc vàng. Họ dâng con cá lên vua Pasenadi và vua nói chỉ có đức Phật mới biết nguyên nhân,
màu sắc của con cá. Ðức Phật dạy, tiền thân con cá là một ác Tỷ-kheo trong thời
đức Phật Ca-diếp, nay vẫn đang sống trong cõi địa ngục. Các chị của nó vẫn sống
trong địa ngục, Chỉ có anh nó là vị Trưởng lão, sống đời sống tốt đẹp, và Thế
Tôn thuyết pháp về kinh Kapila. Nghe xong, Yasoja cảm thấy xúc động và xin
xuất gia, và các bạn cũng xin xuất gia theo; họ đi đến tinh xá Jetavana (Kỳ Viên) để yết kiến đức Phật, nhưng khi đến họ
làm quá ồn ào nên bị Thế Tôn đuổi đi. Bị đuổi, và sống trên sông Vaggumudà, Yasoja như con người thuần thục, quyết tâm quyết chí tu
trì, không bao lâu chứng được sáu thắng trí. Rồi Thế Tôn cho gọi Yasoja, và ngài vì tu khổ hạnh đặc biệt, nên ốm yếu, xấu xí. Thế Tôn tán
thán hạnh tu khắc khổ của ngài với những bài kệ như sau:
242. Một người đen, gầy
mòn,
Yếu ốm đầy đường gân,
Tiết độ trong ăn uống,
Tâm tư không ưu não.
Yếu ốm đầy đường gân,
Tiết độ trong ăn uống,
Tâm tư không ưu não.
Yasoja được tán thán như vậy,
đề cao hạnh cô độc và dạy như sau:
243. Trong rừng núi rộng
lớn,
Bị muỗi ruồi đốt cắn,
Như con voi lâm trận,
Ta chánh niệm chịu đựng.
Bị muỗi ruồi đốt cắn,
Như con voi lâm trận,
Ta chánh niệm chịu đựng.
244. Sống một, như Phạm
thiên,
Sống hai, như chư Thiên,
Sống ba, như làng mạc,
Nhiều hơn, như ở chợ.
Sống hai, như chư Thiên,
Sống ba, như làng mạc,
Nhiều hơn, như ở chợ.
(CLXXIX) Satimattya (Thera. 31)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở nước Magadha (Ma-kiệt-đà) làm con một Bà-la-môn, ngài hội đủ
những điều kiện nhân duyên, xuất gia, sống với các Tỷ-kheo ở rừng, và trải qua
học hỏi tu hành, chứng được sáu thắng trí. Rồi ngài giảng dạy các Tỷ-kheo,
thuyết pháp cho nhiều tín đồ về quy y và các giới điều. Có một gia đình, đặc
biệt ngài giáo hóa và nuôi dưỡng lòng tin. Trong gia đình này, ngài đặc biệt
được chào đón, người con gái nhà này đẹp, và thường cung kính cúng dường ngài
ăn uống.
Một hôm, Màra muốn phá ngài và làm ngài mất uy tín, giả dạng ngài và đi đến nắm
tay cô con gái, nhưng cô con gái biết là không phải nắm tay của loài Người,
liền bỏ tay ra. Nhưng người nhà thấy được và không còn tin tưởng ở ngài. Ngài
không biết gì, cảm thấy có sự đổi khác trong thái độ của gia đình ấy. Biết rằng Màra đã ám hại, ngài nguyện sẽ làm tỏ rõ sự tình, người gia chủ nghe
ngài giải thích liền xin lỗi ngài và tự mình xin phục vụ cho ngài. Ngài nói lên
sự việc, trong những bài kệ sau đây:
245. Lòng tin trước ông
có,
Nay không còn nơi ông,
Của ông vẫn của ông,
Ta không có ác hạnh.
Nay không còn nơi ông,
Của ông vẫn của ông,
Ta không có ác hạnh.
246. Vô thường và dao
động,
Là lòng tin của ông,
Sự thấy là như vậy,
Là sự thấy của ta,
Có khi ông thương mến,
Rồi ông lại không ưa,
Vì sao bậc ẩn sĩ,
Chịu héo mòn ở đây?
Là lòng tin của ông,
Sự thấy là như vậy,
Là sự thấy của ta,
Có khi ông thương mến,
Rồi ông lại không ưa,
Vì sao bậc ẩn sĩ,
Chịu héo mòn ở đây?
247. Cơm nấu cho ẩn sĩ,
Ít ít từng gia đình,
Ta sẽ đi khất thực,
Ống chân ta còn mạnh.
Ít ít từng gia đình,
Ta sẽ đi khất thực,
Ống chân ta còn mạnh.
(CLXXX) Upàli (Thera. 31)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài được sanh trong gia đình một người cạo tóc tên làUpàli. Khi
đến tuổi trưởng thành, ngài xuất gia, theo gương của Anuruddha và năm vị con cháu hoàng tộc, khi đức Phật ở tại rừng Anupiyà. Khi ngài nhận một đề tài để thiền quán, ngài yêu cầu đức Phật đừng
đưa ngài đi sống ra ngoài khu rừng. Ðức Phật dạy: 'Nếu Thầy sống trong rừng,
Thầy chỉ phát triển được một vấn đề, nhưng nếu Thầy sống với Ta, Thầy sẽ trở
thành thuần thục cả về kinh học và thiền quán'. Ngài vâng theo lời bậc Ðạo Sư
khuyên tu thiền quán và sau một thời gian chứng quả A-la-hán.
Tuy vậy, bậc Ðạo Sư dạy
cho ngài cả Luật tạng. Về sau, khi Upàli được Thế Tôn khen vì Upàli đã phán quyết trong ba trường hợp về Ajjuka, về Tỷ-kheo Kurukacchaka vàKumàra-Kacapa, ngài được xem là vị hiểu
biết Luật tạng.
Trong một ngày trai
giới, khi ngài đang đọc giới bổn Pàtimokkha,
ngài giáo giới các Tỷ-kheo như sau:
248. Vì lòng tin ra đi,
Mới xuất gia, tân học,
Hãy sống với bạn lành,
Mạng thanh tịnh, không nhác.
Mới xuất gia, tân học,
Hãy sống với bạn lành,
Mạng thanh tịnh, không nhác.
249. Vì lòng tin, ra đi,
Mới xuất gia, tân học,
Tỷ-kheo trú giữa chúng,
Sáng suốt, học Luật tạng.
Mới xuất gia, tân học,
Tỷ-kheo trú giữa chúng,
Sáng suốt, học Luật tạng.
250. Vì lòng tin, ra đi,
Mới xuất gia, tân học,
Khéo biết việc nên làm,
Và việc không nên làm,
Hãy để vị ấy sống,
Không để cao tôn xưng.
Mới xuất gia, tân học,
Khéo biết việc nên làm,
Và việc không nên làm,
Hãy để vị ấy sống,
Không để cao tôn xưng.
(CLXXXI) Uttarapàla (Thera. 31)
Sanh trong thời đức Phật
hiện tại, ở Sàvatthi, trong một gia đình Bà-la-môn, ngài được đặt
tên là Uttarapàla. Ngài thấy Thế Tôn thực hiện thần thông song
hành, khởi lòng tin, xuất gia và chăm lo tu học. Một hôm, do nhớ nghĩ chuyện
này chuyện khác, dục vọng tấn công ngài, và sau một thời chiến đấu tư tưởng
mãnh liệt, ngài chận đứng các phiền não, và triển khai thiền quán, ngài chứng
được quả A-la-hán.
Suy tư đến chiến thắng,
ngài rống lên tiếng rống con sư tử:
251. Ta thật là hiền
thiện,
Suy tư mục đích tốt,
Bỏ năm dục trưởng dưỡng,
Là thế giới si mê.
Suy tư mục đích tốt,
Bỏ năm dục trưởng dưỡng,
Là thế giới si mê.
252. Sanh trong giới vức
ma,
Bị tên mạnh xung kích,
Nhưng ta giải thoát được,
Cạm bẫy của Ma vương.
Bị tên mạnh xung kích,
Nhưng ta giải thoát được,
Cạm bẫy của Ma vương.
253. Mọi dục, ta đoạn
tận,
Mọi sanh hữu, hủy hoại,
Ðường sanh tử chấm dứt,
Nay không còn tái sanh.
Mọi sanh hữu, hủy hoại,
Ðường sanh tử chấm dứt,
Nay không còn tái sanh.
(CLXXXII) Abhibhùta (Thera. 31)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn ở Vetthapura, đặt tên là Abhibhùta, và khi phụ thân mất, ngài thừa hưởng tài sản
đất đai. Khi đức Phật đến tại thành phố, trong dịp Thế Tôn du hành, Abhibhùta đến nghe Thế Tôn thuyết pháp, và mai sáng mời
Thế Tôn đến nhà. Thế Tôn cảm ơn và dạy cho ngài Chánh pháp với nhiều chi tiết.
Ngài khởi lòng tin, từ bỏ gia sản, xuất gia và chứng quả A-la-hán.
Trong khi thọ hưởng vị
ngọt giải thoát, các bà con, thân tín, quen biết đến than van với ngài và ngài
đã từ bỏ họ, không để lại một vị lãnh đạo. Và ngài thuyết pháp cho họ nói lên
lý do xuất gia của ngài:
254. Hãy nghe mọi bà
con,
Những ai đã đến đây,
Ta thuyết pháp cho ông,
Tái sanh là đau khổ.
Những ai đã đến đây,
Ta thuyết pháp cho ông,
Tái sanh là đau khổ.
255. Hãy tinh cần, ra
đi,
Chú tâm lời Phật dạy,
Ðánh bại quân lực ma,
Như voi, nhà cỏ lau.
Chú tâm lời Phật dạy,
Ðánh bại quân lực ma,
Như voi, nhà cỏ lau.
256. Ai trong Pháp Luật
này,
Sẽ sống không phóng dật,
Từ bỏ dòng tái sanh,
Sẽ chấm dứt khổ đau.
Sẽ sống không phóng dật,
Từ bỏ dòng tái sanh,
Sẽ chấm dứt khổ đau.
(CLXXXIII) Gotama (Thera. 32)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh trong dòng họ Thích-ca và chỉ được biết tên làGotama, ngài khởi lòng tin khi đức Phật thăm viếng bà
con, xuất gia, tu học thiền quán và chứng được sáu thắng trí. Khi ngài đang
hưởng lạc giải thoát, bà con ngài hỏi ngài vì sao lại từ bỏ bà con đi xuất gia,
ngài liền giải thích những khổ đau, ngài gặp khi phải sanh tử liên tục và hạnh
phúc Niết-bàn ngài đã chứng được . Ngài nói:
257. Ta tái sanh địa
ngục,
Liên tục đến ngạ quỷ,
Ta sống trải nhiều ngày,
Trong đau khổ bàng sanh.
Liên tục đến ngạ quỷ,
Ta sống trải nhiều ngày,
Trong đau khổ bàng sanh.
258. Và sống vui làm
Người,
Thỉnh thoảng sanh cõi Trời,
Trú Giới sắc, Vô sắc,
Phi tưởng, Phi phi tưởng.
Thỉnh thoảng sanh cõi Trời,
Trú Giới sắc, Vô sắc,
Phi tưởng, Phi phi tưởng.
259. Ta khéo biết sanh
hữu,
Không cốt tủy, duyên thành,
Dao động thường biến chuyển,
Tác thành tự ngã ta,
Ta đạt được tịnh tịch,
Chánh niệm tâm an trú.
Không cốt tủy, duyên thành,
Dao động thường biến chuyển,
Tác thành tự ngã ta,
Ta đạt được tịnh tịch,
Chánh niệm tâm an trú.
(CLXXXIV) Harita (Thera. 32)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình Bà-la-môn. Vì tự kiêu sanh
trong giai cấp cao, ngài quen gọi các người khác là hạ sanh. Khi khởi lòng tin
xuất gia, vì thói quen, ngài vẫn giữ tật xấu ấy. Nhưng một ngày kia, sau khi
nghe bậc Ðạo Sư thuyết giảng, ngài ôn lại tâm tư của mình và ngài thấy lo ngại
vì lòng tự kiêu của mình. Ðoạn tận kiêu mạn ấy, ngài phát triển thiền quán và
chứng quả A-la-hán. Sau đó sống trong an lạc giải thoát, ngài chứng minh chánh
trí của mình trong những bài kệ giảng dạy các Tỷ-kheo:
260. Với ai, những công
việc,
Cần phải làm từ trước,
Về sau, vị ấy mới
Có ý định muốn làm.
Vị ấy, tự phá hoại,
Căn cứ địa an lạc,
Về sau chịu khổ đau
Trong nung nấu hối tiếc.
Cần phải làm từ trước,
Về sau, vị ấy mới
Có ý định muốn làm.
Vị ấy, tự phá hoại,
Căn cứ địa an lạc,
Về sau chịu khổ đau
Trong nung nấu hối tiếc.
261. Hãy nói điều có làm,
Không nói điều không làm,
Bậc Hiền trí rõ biết,
Người chỉ nói, không làm.
262. Niết-bàn khéo an
lạc,
Bậc Chánh giác thuyết giảng,
Không sầu muộn, ly tham,
Thật sự, là an ổn,
Tại đấy, nỗi đau khổ,
Ðược đoạn diệt hoàn toàn.
Bậc Chánh giác thuyết giảng,
Không sầu muộn, ly tham,
Thật sự, là an ổn,
Tại đấy, nỗi đau khổ,
Ðược đoạn diệt hoàn toàn.
(CLXXXV) Vimala (Thera. 32)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài được sanh ở Ba-la-nại trong một gia đình Bà-la-môn. Ngài xuất gia
dưới sự hướng dẫn của Trưởng lão Amitta, và nhờ sự hướng dẫn này,
ngài phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán. Rồi ngài giảng dạy cho một
Tỷ-kheo là bạn của ngài như sau:
263. Hãy tránh xa bạn
ác,
Giao thiệp bậc thượng nhân,
Vâng theo lời khuyến giáo,
Hướng đến lạc bất động.
Giao thiệp bậc thượng nhân,
Vâng theo lời khuyến giáo,
Hướng đến lạc bất động.
264. Như leo trên ván
nhỏ,
Giữa biển lớn bị chìm,
(Xem kệ 147 - 148)
Giữa biển lớn bị chìm,
(Xem kệ 147 - 148)
265. Cũng vậy đến kẻ
nhác,
Người hạnh tốt cũng chìm,
Do vậy, hãy bỏ nó,
Kẻ làm biếng, làm nhác.
Người hạnh tốt cũng chìm,
Do vậy, hãy bỏ nó,
Kẻ làm biếng, làm nhác.
266. Hãy sống gần bậc
Thánh,
Bậc viễn ly tinh cần,
Thiền định, thường tinh tấn,
Bậc Hiền trí sáng suốt.
Bậc viễn ly tinh cần,
Thiền định, thường tinh tấn,
Bậc Hiền trí sáng suốt.
0 Komentar