Như vầy
tôi nghe.
Một thời
Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), trong vườn ông
Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các
Tỷ-kheo." --"Bạch Thế Tôn," những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
Thế Tôn thuyết như sau:
-- Này
các Tỷ-kheo, chỉ ở đây là có Sa-môn thứ nhất; ở đây là có Sa-môn thứ hai; ở đây
là có Sa-môn thứ ba; ở đây là có Sa-môn thứ tư; các ngoại đạo khác không có
Sa-môn. Này các Tỷ-kheo, các Ông hãy chân chánh rống tiếng rống sư tử như vậy.
Này các
Tỷ-kheo, sự tình này xảy ra khi ở đây những Du sĩ ngoại đạo có thể nói:
"Chư Tôn giả có tin tưởng gì, có sức lực gì mà chư Tôn giả tuyên bố: 'Chỉ
ở đây là có Sa-môn thứ nhất; ở đây là có Sa-môn thứ hai; ở đây là có Sa-môn thứ
ba; ở đây là có Sa-môn thứ tư; các ngoại đạo khác không có Sa-môn'". Này
các Tỷ-kheo, nếu được các Du sĩ ngoại đạo nói như vậy, cần phải trả lời họ như
sau: "Chư Hiền, vì chúng tôi tự chánh kiến bốn pháp, được Thế Tôn tuyên bố
cho chúng tôi biết, bậc đã thấy, đã biết, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác nên
chúng tôi nói: 'Chỉ ở đây là có Sa-môn thứ nhất, ở đây là có Sa-môn thứ hai;
Sa-môn thứ ba; Sa-môn thứ tư'. Thế nào là bốn? Chư Hiền, chúng tôi có lòng tin
bậc Ðạo Sư, có lòng tin Pháp, có sự thành tựu viên mãn các Giới luật, và những
pháp hữu của chúng tôi, những người cư sĩ và những người xuất gia, được chúng
tôi thương, chúng tôi mến. Chư Hiền, vì chúng tôi tự chánh kiến bốn pháp, được
Thế Tôn tuyên bố cho chúng tôi biết, bậc đã thấy, đã biết, bậc A-la-hán, Chánh
Ðẳng Giác nên chúng tôi nói: 'Chỉ ở đây là Sa-môn... Sa-môn thứ tư'".
Này các
Tỷ-kheo, sự tình này xảy ra, khi ở đây, những Du sĩ ngoại đạo có thể nói:
"Chư Hiền, chúng tôi cũng có lòng tin bậc Ðạo Sư, vị ấy là Ðạo Sư của
chúng tôi. Chúng tôi có lòng tin Pháp, Pháp ấy là Pháp của chúng tôi, chúng tôi
thành tựu viên mãn các Giới luật, những Giới luật ấy là Giới luật của chúng
tôi. Và những pháp hữu của chúng tôi, những người cư sĩ và cả những người xuất
gia, được chúng tôi thương, được chúng tôi mến. Chư Hiền, như vậy có sự sai
biệt gì, có sự đặc thù gì, có sự khác biệt gì giữa quý vị và chúng tôi?".
Chư
Tỷ-kheo, nếu được các Du sĩ ngoại đạo nói như vậy, cần phải trả lời họ như sau:
"Chư Hiền, cứu cánh là một hay cứu cánh là đa diện?" Nếu trả lời đứng
đắn, các Du sĩ ngoại đạo phải trả lời: "Chư Hiền, cứu cánh là một, cứu
cánh không phải đa diện". --"Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có tham,
hay cho người không tham?" Nếu trả lời đứng đắn, các Du sĩ ngoại đạo phải
trả lời: "Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không tham, không phải cho người
có tham". --"Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có sân, hay cho người
không sân?" Nếu trả lời đứng đắn, các Du sĩ ngoại đạo phải trả lời:
"Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không sân, không phải cho người có
sân". --"Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có si hay cho người không
si? Nếu trả lời đứng đắn... phải trả lời: "Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người
không si, không phải cho người có si". --"Chư Hiền, cứu cánh ấy cho
người có ái, hay cho người không ái?" Nếu trả lời đứng đắn... phải trả
lời: "Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không ái, không phải cho người có
ái". --"Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có chấp thủ, hay cho người
không chấp thủ?" Nếu trả lời đứng đắn... phải trả lời: "Chư Hiền, cứu
cánh ấy cho người không chấp thủ, không phải cho người chấp thủ".
--"Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có trí, hay cho người không có
trí?" Nếu trả lời đứng đắn... phải trả lời: "Cứu cánh ấy cho người có
trí, không phải cho người không có trí". --"Chư Hiền, cứu cánh ấy cho
người thuận ứng, nghịch ứng hay cho người không thuận ứng, không nghịch
ứng?" Nếu trả lời đứng đắn... phải trả lời: "Chư Hiền, cứu cánh ấy
cho người không thuận ứng, không nghịch ứng, không phải cho người thuận ứng,
nghịch ứng". --"Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người ưa hý luận, thích hý
luận hay cho người không ưa hý luận, không thích hý luận?" Nếu trả lời
đứng đắn, các Du sĩ ngoại đạo cần phải trả lời: "Chư Hiền, cứu cánh ấy cho
người không ưa hý luận, không thích hý luận, không phải cho người ưa hý luận,
thích hý luận".
Chư
Tỷ-kheo, có hai loại tri kiến này: hữu kiến và phi hữu kiến. Chư Tỷ-kheo, những
Sa-môn hay Bà-la-môn nào chấp trước hữu kiến, thân thiết hữu kiến, cố chấp hữu
kiến; những vị ấy bị chướng ngại đối với phi hữu kiến. Chư Tỷ-kheo, những
Sa-môn hay Bà-la-môn nào chấp trước phi hữu kiến, thân thiết phi hữu kiến, cố
chấp phi hữu kiến; những vị ấy bị chướng ngại bởi hữu kiến.
Chư
Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào không như thật tuệ tri sự tập khởi và
sự đoạn diệt của hai loại kiến này, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của
chúng, những vị này là những vị có tham, có sân, có si, có ái, có chấp thủ,
không có trí, có thuận ứng, có nghịch ứng, có ưa hý luận, có thích hý luận;
những vị ấy không giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta
nói những vị ấy không giải thoát khỏi đau khổ.
Chư
Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào như thật tuệ tri sự tập khởi và sự đoạn
diệt của hai loại kiến này, vị ngọt, sự nguy hiểm, và sự xuất ly của chúng;
những vị này là những vị không tham, không sân, không si, không ái, không chấp
thủ, có trí, không có thuận ứng, không có nghịch ứng, không ưa hý luận, không
thích hý luận; những vị ấy giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu,
não. Ta nói những vị ấy giải thoát khỏi đau khổ.
Chư
Tỷ-kheo, có bốn chấp thủ. Thế nào là bốn? Dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã
luận thủ.
Chư
Tỷ-kheo, có những Sa-môn, Bà-la-môn tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ, nhưng
không chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ; họ hiển thị sự liễu tri về
dục thủ, nhưng không hiển thị sự liễu tri về kiến thủ, về giới cấm thủ, về ngã
luận thủ. Vì sao vậy? Những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy không như thật tuệ
tri ba sự. Do vậy, những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy tuy tự xưng liễu tri tất
cả thủ, nhưng không chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ. Họ hiển thị sự
liễu tri về dục thủ, nhưng không hiển thị sự liễu tri về kiến thủ, về giới cấm
thủ, về ngã luận thủ.
Chư
Tỷ-kheo, có những Sa-môn hay Bà-la-môn tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ, nhưng
không chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ. Họ hiển thị sự liễu tri về
dục thủ, sự liễu tri về kiến thủ nhưng không hiển thị sự liễu tri về giới cấm
thủ, sự liễu tri về ngã luận thủ. Vì sao vậy? Những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn
ấy không như thật tuệ tri hai sự. Do vậy, những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy
tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ, nhưng không chơn chánh hiển thị sự liễu tri
tất cả thủ. Họ hiển thị sự liễu tri về dục thủ, sự liễu tri về kiến thủ; nhưng
không hiển thị sự liễu tri về giới cấm thủ, sự liễu tri về ngã luận thủ.
Chư
Tỷ-kheo, có những Sa-môn, Bà-la-môn tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ, nhưng
không chơn chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ. Họ hiển thị sự liễu tri về
dục thủ, sự liễu tri về kiến thủ, sự liễu tri về giới cấm thủ, nhưng không hiển
thị sự liễu tri về ngã luận thủ. Vì sao vậy? Những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn
ấy không như thật tuệ tri một sự. Do vậy, những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy
tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ, nhưng không chân chánh hiển thị sự liễu tri
tất cả thủ. Họ hiển thị sự liễu tri về dục thủ, sự liễu tri về kiến thủ, sự
liễu tri về giới cấm thủ, nhưng không hiển thị sự liễu tri về ngã luận thủ.
Chư
Tỷ-kheo, trong Pháp và Luật như vậy, nếu có tịnh tín đối với Ðạo Sư, tịnh tín
ấy được xem là không hoàn toàn; nếu có tịnh tín đối với Pháp, tịnh tín ấy được
xem là không hoàn toàn; nếu có thành tựu viên mãn các Giới luật, sự thành tựu
ấy được xem là không hoàn toàn; nếu có sự thương mến đối với những pháp hữu, sự
thương mến ấy được xem là không hoàn toàn. Vì sao vậy? Chư Tỷ-kheo, sự tình là
như vậy, trong một Pháp và Luật không khéo thuyết giảng, không khéo hiển thị,
không có hướng thượng, không dẫn đến tịch tịnh, không được bậc Chánh Ðẳng Giác
hiển thị.
Và Như
Tỷ-kheo, bậc Như Lai, A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tự xưng liễu tri tất cả thủ,
chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ. Như Lai hiển thị sự liễu tri về dục
thủ, sự liễu tri về kiến thủ, sự liễu tri về giới cấm thủ, sự liễu tri về ngã
luận thủ.
Chư
Tỷ-kheo, trong Pháp và Luật như vậy, nếu có tịnh tín đối với bậc Ðạo Sư, tịnh
tín ấy được xem là hoàn toàn; nếu có tịnh tín đối với Pháp, tịnh tín ấy được
xem là hoàn toàn; nếu có thành tựu viên mãn các Giới luật, sự thành tựu ấy được
xem là hoàn toàn; nếu có sự thương mến đối với các pháp hữu, sự thương mến ấy
được xem là hoàn toàn. Vì sao vậy? Chư Tỷ-kheo, sự tình là như vậy, trong một
Pháp và Luật khéo thuyết giảng, khéo hiển thị, có hướng thượng, dẫn đến tịch
tịnh, được bậc Chánh Ðẳng Giác hiển thị.
Chư
Tỷ-kheo, bốn loại chấp thủ này, lấy gì làm duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì
làm chủng, lấy gì làm nhân? Bốn loại chấp thủ này lấy ái làm duyên, lấy ái làm
tập khởi, lấy ái làm chủng, lấy ái làm nhân. Chư Tỷ-kheo, ái này lấy gì làm
duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm chủng, lấy gì làm nhân? Chư Tỷ-kheo, ái
này lấy thọ làm duyên, lấy thọ làm tập khởi, lấy thọ làm chủng, lấy thọ làm
nhân. Chư Tỷ-kheo, thọ này lấy gì làm duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm
chủng, lấy gì làm nhân ? Chư Tỷ-kheo, thọ này lấy xúc làm duyên, lấy xúc làm
tập khởi, lấy xúc làm chủng, lấy xúc làm nhân. Chư Tỷ-kheo, xúc này lấy gì làm
duyên... lấy gì làm nhân? Chư Tỷ-kheo, xúc này lấy sáu nhập làm duyên... lấy
sáu nhập làm nhân. Chư Tỷ-kheo, sáu nhập này lấy gì làm duyên... lấy gì làm
nhân? Chư Tỷ-kheo, sáu nhập này lấy danh sắc làm duyên... lấy danh sắc làm
nhân. Chư Tỷ-kheo, danh sắc này lấy gì làm duyên... lấy gì làm nhân? Chư
Tỷ-kheo, danh sắc này lấy thức làm duyên... lấy thức làm nhân. Chư Tỷ-kheo,
thức này lấy gì làm duyên... lấy gì làm nhân? Chư Tỷ-kheo, thức này lấy hành
làm duyên... lấy hành làm nhân. Chư Tỷ-kheo, hành này lấy gì làm duyên... lấy
gì làm nhân? Chư Tỷ-kheo, hành này lấy vô minh làm duyên... lấy vô minh làm
nhân.
Và Chư
Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo đã đoạn trừ vô minh, đã làm minh sanh khởi, vị ấy do
vô minh được đoạn trừ, do minh sanh khởi, nên không chấp thủ dục thủ, không
chấp thủ kiến thủ, không chấp thủ giới cấm thủ, không chấp thủ ngã luận thủ.
Nhờ không chấp thủ nên không tháo động, nhờ không tháo động, nên tự thân chứng
được Niết-bàn; vị ấy tuệ tri: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc nên
làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
Thế Tôn
thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.
0 Komentar