Như
vầy tôi nghe:
Một
thời, Tôn giả Mahamoggallana sống giữa những người thuộc dòng họ Bhagga, tại
núi Sumsumaragira, rừng Bhesakala, vườn Lộc Uyển. Ở đây, Tôn giả Mahamoggallana
(Ðại Mục-kiền-liên) gọi các Tỷ-kheo:
--"Chư
Hiền Tỷ-kheo."
--"Thưa
Hiền giả."
Những
Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Mahamoggallana. Tôn giả Mahamoggallana nói như sau:
--
Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo thỉnh nguyện: "Mong rằng chư Tôn giả nói với tôi,
mong rằng tôi được chư Tôn giả nói!" Nhưng nếu vị ấy là một người khó nói,
đầy đủ những tánh khiến người ấy trở thành khó nói, khó kham nhẫn, không cung
kính đón nhận khi được giảng dạy thì các vị đồng phạm hạnh nghĩ rằng, Tỷ-kheo
ấy không đáng nói đến, nghĩ rằng Tỷ-kheo ấy không đáng được giáo huấn, nghĩ
rằng không nên đặt lòng tin vào người ấy.
Chư
Hiền, thế nào là những tánh khiến người ấy trở thành khó nói?
(1)
Chư Hiền, ở đây, vị Tỷ-kheo có ác dục, bị ác dục chi phối; chư Hiền, Tỷ-kheo có
ác dục, bị ác dục chi phối, như vậy là một tánh khiến trở thành khó nói.
(2)
Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo khen mình chê người; chư Hiền, Tỷ-kheo khen mình chê
người, như vậy là một tánh khiến trở thành khó nói.
(3)
Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phẫn nộ, bị phẫn nộ chi phối; chư Hiền, Tỷ-kheo phẫn
nộ, bị phẫn nộ chi phối, như vậy là một tánh khiến trở thành khó nói.
(4)
Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phẫn nộ, vì phẫn nộ làm nhân trở thành người có hiềm
hận; chư Hiền, Tỷ-kheo phẫn nộ, vì phẫn nộ làm nhân trở thành người có hiềm
hận, như vậy là... khó nói.
(5)
Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phẫn nộ, vì phẫn nộ làm nhân trở thành cố chấp; chư
Hiền, Tỷ-kheo phẫn nộ, vì phẫn nộ làm nhân trở thành cố chấp, như vậy là... khó
nói.
(6)
Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phẫn nộ, thốt ra những lời liên hệ đến phẫn nộ; chư
Hiền, Tỷ-kheo phẫn nộ... khó nói.
(7)
Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội trở lại chống đối vị đã buộc tội mình;
chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội... khó nói.
(8)
Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội trở lại chỉ trích vị đã buộc tội mình;
chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội... khó nói.
(9)
Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội trở lại chất vấn vị đã buộc tội mình;
chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội... khó nói.
(10)
Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội tránh né vấn đề với một vấn đề khác, trả
lời ra ngoài vấn đề, để lộ phẫn nộ, sân hận và bất mãn của mình; chư Hiền,
Tỷ-kheo bị buộc tội... khó nói.
(11)
Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội không giải thích thỏa mãn hành động của
mình cho vị buộc tội; chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội... khó nói.
(12)
Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo hư ngụy và não hại; chư Hiền, Tỷ-kheo hư ngụy và não
hại... khó nói.
(13)
Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo tật đố và xan tham; chư Hiền, Tỷ-kheo tật đố và xan
tham... khó nói.
(14)
Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo lừa đảo và lường gạt; chư Hiền, Tỷ-kheo lừa đảo và
lường gạt... khó nói.
(15)
Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo ngoan mê và quá mạn; chư Hiền, Tỷ-kheo ngoan mê và
quá mạn... khó nói.
(16)
Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo chấp trước thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành
xả; chư Hiền, Tỷ-kheo chấp trước thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả,
như vậy là một tánh trở thành khó nói.
Chư
Hiền, như vậy được gọi là những tánh khiến trở thành khó nói.
Chư
Hiền, nếu Tỷ-kheo không thỉnh nguyện: "Mong rằng chư Tôn giả nói với tôi,
mong rằng tôi được chư Tôn giả nói!"; Và nếu vị ấy là một người dễ nói,
đầy đủ những đức tánh khiến người ấy trở thành dễ nói, kham nhẫn, cung kính đón
nhận khi được nghe giảng dạy, thì các vị đồng phạm hạnh nghĩ rằng, Tỷ-kheo ấy
đáng được nói đến, nghĩ rằng Tỷ-kheo ấy đáng được giáo huấn, nghĩ rằng nên đặt
lòng tin vào người ấy.
Chư
Hiền, thế nào là những đức tánh khiến người ấy trở thành dễ nói?
(1)
Chư Hiền, ở đây Tỷ-kheo không có ác dục, không bị ác dục chi phối; chư Hiền,
Tỷ-kheo không có ác dục, không bị ác dục chi phối, như vậy là một đức tánh
khiến trở thành dễ nói.
(2)
Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo không khen mình chê người; chư Hiền, Tỷ-kheo không
khen mình chê người... dễ nói.
(3)
Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo không phẫn nộ, không bị phẫn nộ chi phối; chư Hiền,
Tỷ-kheo không phẫn nộ,... trở thành dễ nói.
(4)
Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo không phẫn nộ, không vì phẫn nộ làm nhân trở thành
người hiềm hận; chư Hiền, Tỷ-kheo không phẫn nộ... trở thành dễ nói.
(5)
Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo không phẫn nộ, không bị phẫn nộ làm nhân trở thành
cố chấp; chư Hiền, Tỷ-kheo không phẫn nộ... trở thành dễ nói.
(6)
Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo không phẫn nộ, không vì phẫn nộ thốt ra những lời
liên hệ đến phẫn nộ; chư Hiền, Tỷ-kheo không phẫn nộ... trở thành dễ nói.
(7)
Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội, không trở lại chống đối vị đã buộc tội
mình; chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội... trở thành dễ nói.
(8)
Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội không trở lại chỉ trích vị đã khiển
trách mình; chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội ... trở thành dễ nói.
(9)
Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội không trở lại chất vấn vị đã buộc tội
mình; chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội... trở thành dễ nói.
(10)
Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội, không tránh né vấn đề với một vấn đề
khác, trả lời ra ngoài vấn đề, để lộ phẫn nộ, sân hận và bất mãn của mình, chư
Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội... trở thành dễ nói.
(11)
Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội, giải thích thỏa mãn hành động của mình
cho vị buộc tội, chư Hiền, Tỷ-kheo bị buộc tội... trở thành dễ nói.
(12)
Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo không hư ngụy và não hại, chư Hiền, Tỷ-kheo không hư
ngụy và não hại... trở thành dễ nói.
(13)
Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo không tật đố và xan tham, chư Hiền, Tỷ-kheo không
tật đố và xan tham ... trở thành dễ nói.
(14)
Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo không khi cuống và lường gạt. Chư Hiền, Tỷ-kheo
không khi cuống và lường gạt... trở thành dễ nói.
(15)
Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo không ngoan mê và quá mạn, chư Hiền, Tỷ-kheo không
ngoan mê và quá mạn... trở thành dễ nói.
(16)
Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo không chấp trước thế tục, cố chấp tư kiến, tánh dễ
hành xả, chư Hiền, Tỷ-kheo không chấp trước thế tục, không cố chấp tư kiến,
tánh dễ hành xả, như vậy là một đức tánh trở thành dễ nói.
Chư
Hiền, như vậy được gọi là những đức tánh khiến trở thành dễ nói.
(1)
Chư Hiền, ở đây Tỷ-kheo cần phải tư lượng tự ngã với tự ngã như sau:
"Người này có ác dục, bị ác dục chi phối nên ta không ưa người ấy, không
thích người ấy. Và nếu ta có ác dục, bị ác dục chi phối, các người khác sẽ
không ưa ta, không thích ta". Chư Hiền, Tỷ-kheo khi biết vậy cần phải phát
tâm như sau: "Ta sẽ không có ác dục, sẽ không bị ác dục chi phối."
(2)
"Người này khen mình chê người, nên ta không ưa người ấy, không thích
người ấy. Và nếu ta khen mình chê người, các người khác sẽ không ưa ta, sẽ
không thích ta". Chư Hiền, Tỷ-kheo khi biết vậy, cần phải phát tâm như
sau: "Ta sẽ không khen mình chê người."
(3)
"Người này có phẫn nộ, bị phẫn nộ chi phối, nên ta không ưa người ấy... Ta
sẽ không phẫn nộ, không bị phẫn nộ chi phối";
(4)
"Người này phẫn nộ, vì phẫn nộ làm nhân trở thành người hiềm hận nên ta
không ưa người ấy... Ta sẽ không phẫn nộ, không vì phẫn nộ làm nhân trở thành
người hiềm hận";
(5)
"Người này phẫn nộ, vì phẫn nộ làm nhân trở thành cố chấp nên ta không ưa
người ấy... Ta sẽ không phẫn nộ, không vì phẫn nộ làm nhân trở thành cố
chấp";
(6)
"Người này phẫn nộ, thốt ra những lời liên hệ đến phẫn nộ nên Ta không ưa
người ấy... Ta sẽ không phẫn nộ, không thốt ra những lời liên hệ đến phẫn
nộ";
(7)
"Người này bị buộc tội, trở lại chống đối vị đã buộc tội mình, nên Ta
không ưa người ấy... Ta có bị buộc tội, sẽ không trở lại chống đối vị buộc tội
mình";
(8)
"Người này bị buộc tội trở lại chỉ trích vị đã khiển trách mình, nên Ta
không ưa người ấy... Ta có bị buộc tội, sẽ không trở lại chỉ trích vị buộc tội
mình";
(9)
"Người này bị buộc tội, trở lại chất vấn vị đã buộc tội mình, nên ta không
ưa người ấy... Ta có bị buộc tội, sẽ không trở lại chất vấn vị đã buộc tội
mình";
(10)
"Người này bị buộc tội, tránh né vấn đề với một vấn đề khác, trả lời ra
ngoài vấn đề, để lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn của mình, nên ta không ưa người
ấy... Ta bị buộc tội sẽ không tránh né vấn đề với một vấn đề khác, không trả
lời ra ngoài vấn đề, và không để lộ phẫn nộ, sân hận bất mãn của mình";
(11)
"Người này bị buộc tội, không giải thích thỏa mãn hành động của mình cho
vị buộc tội biết nên ta không ưa người ấy... Ta bị buộc tội, sẽ giải thích thỏa
mãn hành động của mình cho vị buộc tội biết";
(12)
"Người này hư ngụy và não hại nên Ta không ưa người ấy... Ta sẽ không hư
ngụy và não hại";
(13)
"Người này tật đố và xan tham nên ta không ưa người ấy... Ta sẽ không tật
đố và xan tham";
(14)
"Người này khi cuống và lường gạt nên ta không ưa người ấy... Ta sẽ không
khi cuống và lường gạt";
(15)
"Người này ngoan mê và quá mạn nên ta không ưa người ấy... Ta sẽ không
ngoan mê và quá mạn";
(16)
"Người này chấp trước thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả nên ta
không ưa người ấy, không thích người ấy. Và nếu ta chấp trước thế tục, cố chấp
tư kiến, tánh khó hành xả, các người khác sẽ không ưa ta, không thích ta".
Chư Hiền, Tỷ-kheo khi biết vậy, cần phải phát tâm như sau: "Ta sẽ không
chấp trước thế tục, không cố chấp tư kiến, tánh dễ hành xả".
Chư
Hiền, ở đây, Tỷ-kheo cần phải quán sát tự ngã với tự ngã như sau:
(1)
"Không biết ta có ác dục, có bị ác dục chi phối không?" Chư Hiền, nếu
Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: "Ta có ác dục và bị ác dục chi phối",
thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy cần phải tinh tấn đoạn trừ các ác, bất thiện pháp ấy.
Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: "Ta không có ác dục, không bị
ác dục chi phối", thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ,
ngày đêm tu học các thiện pháp.
(2)
Lại nữa, chư Hiền, Tỷ-kheo phải quán sát tự ngã với tự ngã như sau: "Không
biết ta có khen mình chê người hay không? ...Ta không khen mình chê người...
các thiện pháp.
(3)
Lại nữa... không biết ta có phẫn nộ, bị phẫn nộ chi phối không? ...Ta không có
phẫn nộ, không bị phẫn nộ chi phối... các thiện pháp.
(4)
Lại nữa... không biết ta có phẫn nộ, vì phẫn nộ làm nhân, trở thành có hiềm hận
không?... Ta không có phẫn nộ, không vì phẫn nộ làm nhân, trở thành người hiềm
hận... các thiện pháp.
(5)
Lại nữa... không biết ta có phẫn nộ, vì phẫn nộ làm nhân, trở thành người cố
chấp? ...Ta không có phẫn nộ, không vì phẫn nộ làm nhân, trở thành người cố
chấp... các thiện pháp.
(6)
Lại nữa,... không biết ta có phẫn nộ, thốt ra những lời liên hệ đến phẫn nộ?...
Ta không có phẫn nộ, không thốt ra những lời liên hệ đến phẫn nộ... các thiện
pháp.
(7)
Lại nữa... Ta bị buộc tội, không biết ta có trở lại chống đối vị đã buộc tội
ta...? Ta bị buộc tội, ta không trở lại chống vị đã buộc tội ta... các thiện
pháp.
(8)
Lại nữa... Ta bị buộc tội, không biết ta có trở lại chỉ trích vị đã buộc tội
ta...? Ta bị buộc tội, ta không trở lại chỉ trích vị đã buộc tội ta ... các
thiện pháp.
(9)
Lại nữa... Ta bị buộc tội, không biết ta có trở lại chất vấn vị đã buộc tội
ta?... Ta bị buộc tội, ta không trở lại chất vấn vị đã buộc tội ta ... các
thiện pháp.
(10)
Lại nữa... Ta bị buộc tội, không biết ta có tránh né vấn đề với một vấn đề
khác, trả lời ra ngoài vấn đề, để lộ phẫn nộ, sân hận, bất mãn của ta?... Ta bị
buộc tội, ta không tránh né vấn đề với một vấn đề khác, không trả lời ngoài vấn
đề, và ta không để lộ sự phẫn nộ, sân hận và bất mãn của ta... các thiện pháp.
(11)
Lại nữa... Ta bị buộc tội, không biết ta có giải thích thỏa mãn hành động của
ta cho vị buộc tội biết?... Ta bị buộc tội, Ta có giải thích thỏa mãn hành động
của ta cho vị buộc tội biết... các thiện pháp.
(12)
Lại nữa, không biết ta có hư ngụy và não hại?... Ta không có hư ngụy và não
hại... các thiện pháp.
(13)
Lại nữa, không biết ta có tật đố và xan tham?... Ta không có tật đố và xan
tham... các thiện pháp.
(14)
Lại nữa, không biết ta có khi cuống và lường gạt?... Ta không có khi cuống và
lường gạt... các thiện pháp.
(15)
Lại nữa... không biết ta có ngoan mê và quá mạn?... Ta không có ngoan mê và quá
mạn... các thiện pháp".
(16)
Lại nữa, chư Hiền, ở đây Tỷ-kheo cần phải quán sát tự ngã như sau: "Không
biết ta có chấp trước thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả không?"
Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và biết rằng: "Ta có chấp trước thế tục, cố
chấp tư kiến, tánh khó hành xả", thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy cần phải tinh
tấn đoạn trừ những ác, bất thiện pháp ấy. Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo quán sát và
biết rằng: "Ta không chấp trước thế tục, không cố chấp tư kiến, tánh dễ
hành xả", thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày
đêm tu học thiện pháp.
Chư
Hiền, nếu trong khi quán sát, Tỷ-kheo thấy rõ rằng tất cả các ác, bất thiện
pháp chưa được đoạn trừ trong nội tâm, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy cần phải tinh
tấn đoạn trừ các ác, bất thiện pháp ấy. Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo trong khi quán
sát thấy rõ rằng tất cả các ác, bất thiện pháp đã được đoạn trừ trong nội tâm,
thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học thiện
pháp.
Chư
Hiền, ví như một phụ nữ hay một đàn ông trẻ tuổi, trong tuổi thanh xuân, tánh
ưa trang điểm, tự quán sát mặt mày của mình trong một tấm kính sạch sẽ và trong
suốt, hay trong một bát nước trong sáng. Nếu người ấy thấy bụi bặm hay cấu uế
trên mặt mình, thì người ấy tinh tấn đoạn trừ bụi bặm hay cấu uế ấy. Nếu người
ấy không thấy bụi bặm hay cấu uế trên mặt mình, thì người ấy sẽ hoan hỷ nghĩ
rằng: "Thật sự ta được điều tốt đẹp; thật sự ta được thanh tịnh".
Cũng vậy chư Hiền, nếu trong khi quán sát, Tỷ-kheo thấy rõ rằng tất cả các ác, bất
thiện pháp chưa đoạn trừ ở nội tâm, thì chư Hiền, Tỷ-kheo ấy cần phải tinh tấn
đoạn trừ các ác, bất thiện pháp ấy. Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo trong khi quán sát
thấy rõ rằng các ác, bất thiện pháp đã đoạn trừ ở nội tâm, thì chư Hiền,
Tỷ-kheo ấy phải sống với tâm niệm hoan hỷ, ngày đêm tu học thiện pháp.
Tôn
giả Mahamoggallana thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời
dạy của Tôn giả Mahamoggallana.
0 Komentar