PHẨM KUSANÀLI
121.
CHUYỆN THẦN CÂY CỎ KUSA (Tiền thân Kusanàli)
Hãy để
cho mọi người ...,
Câu
chuyện này khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một người bạn chân thật của ông Cấp
Cô Ðộc. Các thân hữu, bạn bè quen biết, các thân tộc của ông Cấp Cô Ðộc ngăn chận
ông:
- Thưa
Ðại trưởng giả, người này không ngang bằng, không hơn Trưởng giả về thọ sanh,
dòng họ, tài sản, ngũ cốc. Trưởng giả chớ chơi thân với người ấy.
Cấp Cô
Ðộc trả lời:
- Tình
bạn thân chớ nên dựa vào sự so sánh thấp hơn, bằng nhau hay cao hơn.
Trưởng
giả không nghe lời can ngăn, và đi về làng mà Trưởng giả làm thôn trưởng, mời
người ấy làm quản lý gia sản của mình. Mọi việc xảy ra như trong chuyện Tiền
thân Kàlakanni (số 83). Nhưng trong trường hợp này, khi Trưởng giả tường thuật
sự việc xảy đến cho nhà mình lên bậc Ðạo Sư, Ngài nói:
- Này
gia chủ, một người bạn chân thật không bao giờ nhỏ hơn. Ở đây, sự đo lường tình
bạn nằm ở khả năng bảo vệ tình bạn. Một người bạn chân thật bằng mình hay kém
hơn mình phải được xem là cao hơn. Tất cả người bạn ấy sẽ giải quyết gánh nặng,
sự khó khăn đã dành cho mình. Nay chính nhờ người bạn chân thật của mình mà gia
chủ đã cứu được tài sản của mình. Thuở trước, bạn bè chân thật đã cứu được cung
điện của một thần cây.
Nói vậy
xong, theo lời yêu cầu của vị ấy, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ
*
Thuở
xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh làm vị thần một khóm
cỏ lau Kusa trong công viên của vua. Trong công viên ấy gần nơi tấm đá vua
thường ngồi, có một cây mơ ước, thân cây cao thẳng, cành lá sum suê, rất được
vua ưa thích. Tại đấy sanh ra một thần cây, trước kia là một ông vua có uy
quyền lớn. Bồ-tát là bạn thân với thần cây ấy.
Lúc
bấy giờ, vua sống trong lâu đài được một cột trụ chống đỡ, nhưng cây cột ấy bị
lung lay. Tình trạng ấy được báo lên vua. Vua cho gọi thợ mộc và bảo:
-
Cột trụ độc nhất chống đỡ lâu đài của trẫm bị lún, hãy lấy một cây cột khác, có
lõi cứng rắn thay vào.
Tốp
thợ mộc vâng theo lời vua, đi tìm một cây thích hợp, nhưng chưa tìm được. Họ đi
vào công viên, thấy cây ước mơ liền đến yết kiến vua. Khi vua hỏi có tìm được
cây nào thích hợp không, họ thưa:
-
Tâu Ðại vương, chúng tôi đã thấy, nhưng không dám đốn cây ấy.
Ðược
vua hỏi vì sao, họ thưa:
-
Chúng tôi không tìm thấy một cây nào khác nên đã đi vào công viên. Tại đấy trừ
cây điềm lành của vua, chúng tôi không tìm thấy cây nào khác. Nhưng chúng tôi
không dám đốn cây điềm lành ấy.
-
Hãy đốn cây ấy và làm trụ cột cho lâu đài của trẫm. Trẫm sẽ trồng một cây điềm
lành khác.
Các
người ấy vâng lời, đem theo đồ cúng thần, đi đến công viên, dâng lễ vật cúng
cho cây, trình thần cây biết ngày mai sẽ đốn cây, rồi đi về. Nữ thần cây biết
được sự việc này suy nghĩ: "Ngày mai, nhà ở của ta bị hủy hoại, rồi ôm các
con, ta sẽ đi đâu bây giờ?
Nữ
thần cây không tìm thấy chỗ cần đi, phải cõng con trên lưng rồi khóc. Các thần
rừng, bạn bè thân thích của nữ thần cây ấy, tới hỏi nguyên do. Sau khi nghe sự
việc, thấy mình không có phương tiện gì để chận tay các người thợ mộc lại, liền
ôm nữ thần cây ấy và bắt đầu khóc. Lúc bấy giờ Bồ-tát đi đến thăm nữ thần cây,
biết được sự việc liền nói:
-
Chớ lo nghĩ, ta sẽ không để cho chặt cây. Ngày mai, khi thợ mộc đến, ta sẽ có
cách đối phó.
Ngày
hôm sau khi tốp thợ mộc đến, Bồ-tát hóa làm con cắc kè đến trước thợ mộc, chui
vào giữa rễ của cây điềm lành, làm cho cây ấy như trống rỗng, cắc kè leo lên
chính giữa cây, chui ra khỏi đầu thân cây rồi nằm xuống, lắc đầu qua lại. Người
tổ trưởng thợ mộc thấy vậy, lấy tay đập vào thân cây và nói:
-
Cây này trống rỗng, không có lõi. Bữa qua, không nhìn kỹ, chúng ta đã làm lễ
cúng dâng.
Rồi
anh ta bỏ đi, đầy khinh bỉ đối với cây to lớn mà không chắc ấy. Như vậy, nữ
thần cây nhờ Bồ-tát, vẫn làm chủ chỗ ở của mình. Và nhiều thần cây thân hữu
quen biết tụ họp để chúc mừng nàng. Nữ thần cây hài lòng với vị thần đã cho
nàng trú xứ, giữa các vị thần ấy, nàng tán thán công đức của Bồ-tát:
-
Thưa chư thần, chúng ta có phước đức, có quyền lực lớn, nhưng với trí tuệ chậm
chạp, không biết phương tiện này. Còn vị thần khiêm tốn của cây cỏ lau, với trí
thông minh của mình, đã cho chúng ta làm chủ ngôi nhà của chúng ta. Thật vậy,
chúng ta cần phải làm bạn với các vị bằng ta, hơn ta, và thua ta. Tất cả các
vị, tùy theo sức mạnh của mình, có thể các bạn thoát khỏi đau khổ, và an trú
trong hạnh phúc.
Sau
khi tán thán tình bạn, nữ thần cây nói bài kệ này:
Hãy để cho tất cả
Bằng, hơn hay thua ta,
Làm hết sức của mình,
Trong thời hoạn nạn đến
Như ta được giúp đỡ
Nhờ thần cây cỏ lau!
Bằng, hơn hay thua ta,
Làm hết sức của mình,
Trong thời hoạn nạn đến
Như ta được giúp đỡ
Nhờ thần cây cỏ lau!
Do
vậy, những ai muốn giải thoát khỏi đau khổ, chớ phân biệt bạn bằng ta hay hơn
ta, hãy làm bạn với những bậc có trí dù địa vị ra sao.
Như
vậy, nữ thần cây thuyết pháp cho chư thần với bài kệ này. Nàng sống cho đến
trọn đời, và sau cùng với vị thần của cây cỏ lau, mạng chung rồi đi theo nghiệp
của mình.
*
Sau khi
nói lên pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân như sau:
- Thời
ấy, nữ thần cây là Ànanda, còn thần cây cỏ lau là Ta vậy.
-ooOoo-
122.
CHUYỆN KẺ NGU (Tiền thân Dummedha)
Kẻ ngu
được danh xưng ...,
Câu
chuyện này, khi ở Trúc lâm, bậc Ðạo Sư kể về Ðề-bà-đạt-đa. Trong Chánh pháp
đường, các Tỷ-kheo nói về ác đức của Ðề-bà-đạt-đa:
- Này
các Hiền giả, khi Ðề-bà-đạt-đa nhìn lên tự thân chói sáng tối thượng của Như
Lai với gương mặt sáng như trăng rằm, thân vẹn toàn ba mươi hai tướng tốt và
tám mươi vẻ đẹp của bậc Ðại nhân sáng tỏa rộng một tầm, với hào quang chói sáng
của đức Phật, phóng ra chiếu từng đôi vòng, từng cặp một. Ðề-bà-đạt-đa không
hoan hỷ và khởi lòng ganh ghét. Ðề-bà-đạt-đa không chịu nổi những lời tán thán
đức Phật đầy đủ Giới, Ðịnh, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến và càng ganh
ghét hơn.
Bậc Ðại
Sư đến và hỏi:
- Này
các Tỷ-kheo, nay các ông ngồi họp ở đây và nói lên vấn đề gì?
Khi
được biết vấn đề trên, bậc Ðạo Sư nói:
- Này
các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay khi nghe lời tán thán về ta, Ðề-bà-đạt-đa mới
sanh lòng ganh ghét. Lúc trước, Ðề-bà-đạt-đa cũng đã như vậy rồi.
Nói vậy
xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.
*
Thuở
xưa, khi vua Ma-kiệt-đà trị vì ở thành Vương Xá, Bồ-tát sanh ra làm con voi
trắng, đầy đủ dung sắc tuyệt hảo. Vì đầy đủ các tướng như vậy, nhà vua phong nó
lên địa vị vương tượng. Trong một ngày lễ, thành phố được trang hoàng toàn bộ
như thành phố chư Thiên, vua ngự lên vương tượng được trang điểm đẹp đẽ, đi
diễn hành khắp thành phố với uy lực của bậc Ðại vương. Quần chúng, đứng chỗ này
chỗ kia, thấy thân hình dung sắc tuyệt đẹp của vương tượng, liền tán thán:
-
Ôi dung sắc! Ôi cử chỉ! Ôi dáng đi uyển chuyển làm sao! Ôi các tướng được thành
tựu, một con voi toàn trắng như vậy xứng đáng thuộc về vua Chuyển luân.
Nhà
vua nghe lời tán thán vương tượng, không thể chịu đựng nổi, khởi tâm ganh ghét
và suy nghĩ: "Hôm nay ta sẽ quăng nó xuống vực thẳm của núi và chấm dứt
mạng sống của nó". Nghĩ vậy, vua cho gọi người nài đến và hỏi:
-
Con voi này được người huấn luyện như thế nào?
-
Thưa Ðại vương, nó được khéo huấn luyện!
-
Nó không được khéo huấn luyện, nó được huấn luyện dở.
-
Thưa Ðại vương, nó được khéo huấn luyện!
-
Nếu nó được khéo huấn luyện, ngươi có thể cho nó leo lên đỉnh núi Vepulle
không?
-
Thưa được, tâu Ðại vương.
-
Vậy hãy đi lên.
Sau
khi tự mình xuống voi, vua bảo người nài ngồi trên lưng voi leo lên đỉnh núi
Vepulla. Rồi vua được các đại thần vây quanh cùng trèo lên đỉnh núi, bảo con
voi đứng bên bờ vực thẳm và nói:
-
Ngươi nói con voi này được ngươi khéo huấn luyện, vậy hãy bảo nó đứng ba chân.
Người nài ngồi trên lưng voi và nói:
-
Này bạn, hãy đứng lên ba chân.
Và
với cái gậy thúc, người ấy làm dấu cho con voi. Rồi vua nói:
-
Hãy làm cho nó đứng với hai chân trước.
Bậc
Ðại Sĩ giơ hai chân sau lên, và đứng hai chân trước. Vua truyền:
-
Hãy đứng với bàn chân sau.
Con
voi giơ hai chân trước lên và đứng với hai chân sau. Vua truyền:
-
Hãy đứng với một chân.
Con
voi giơ cả ba chân lên và đứng một chân!
Biết
rằng con voi không thể ngã xuống, vua nói:
-
Nếu được, hãy bảo nó đứng giữa hư không.
Người
nài voi suy nghĩ: "Khắp cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ) không có con voi nào được
huấn luyện khéo như con voi này, không nghi ngờ gì nữa, ông vua muốn làm con
voi rơi xuống vực thẳm và giết nó".
Vì
vậy người nài nói thầm vào tai con voi:
-
Này bạn thân, vua muốn bạn rơi xuống vực thẳm và giết bạn. Nó không xứng đáng
với bạn. Nếu bạn có sức mạnh bay lên hư không và cho tôi ngồi trên lưng, hãy
bay trên hư không về Ba-la-nại.
Bậc
Ðại sĩ đầy đủ thần lực vô úy, ngay lúc ấy, đứng trên hư không. Người nài thưa:
-
Thưa Ðại vương, con voi này đầy đủ thần lực vô úy, không tương xứng với một
người ngu si yếu kém như Ðại vương. Con voi chỉ xứng đáng với một vị vua đầy đủ
công đức và hiền trí. Nếu những người có công đức yếu kém như Ðại vương làm chủ
con voi như thế này, họ sẽ không biết được đức tánh của nó. Vì vậy họ sẽ mất
con voi ấy và hủy diệt mọi danh vọng còn lại.
Nói
như vậy xong, ngồi trên lưng voi, người nài đọc bài kệ:
Kẻ ngu được danh xưng,
Tự mình gây nguy hiểm,
Ðem hại đến cho mình,
Ðem hại cho người khác.
Tự mình gây nguy hiểm,
Ðem hại đến cho mình,
Ðem hại cho người khác.
Sau
khi thuyết pháp khiển trách vua, người nài nói:
-
Nay Ðại vương hãy đứng ở đây, xin từ biệt.
Người
nài và voi cùng bay lên hư không về Ba-la-nại, và đứng trên hư không giữa sân
chầu của cung vua. Toàn thành náo động cả lên, mọi người đều la to:
-
Con voi quý đã đến với vua chúng ta ngang qua hư không và đang đứng trên sân
chầu vua.
Họ
mau chóng trình lên vua hay. Vua liền đi khỏi cung điện và nói:
-
Nếu các quý vị đến vì lợi ích cho chúng tôi, thì hãy hạ xuống đất.
Con
voi liền đứng xuống đất. Người nài leo xuống, đảnh lễ vua và khi được hỏi từ
đâu đến, ông ta trả lời:
-
Từ Vương Xá đến.
Và
ông ta tường thuật tất cả sự việc. Vua nói:
-
Các bạn thân, các bạn đến đây thật là một việc đẹp ý vừa lòng.
Nhà
vua hân hoan, truyền lệnh trang hoàng thành phố, đặt con voi vào địa vị vương
tượng, chia toàn quốc thành ba phần. Một phần cho con voi, một phần cho người
nài, và một phần vua giữ lại cho mình. Từ đó, toàn cõi Diêm-phù-đề đều nằm vào
trong tay vua. Vua trở thành đại đế nước Diêm-phù-đề, chuyên tâm làm các công
đức như bố thí v.v... rồi đi theo nghiệp của mình.
*
Thuyết
pháp thoại này xong, bậc Ðại Sư nhận diện Tiền thân:
- Thời
ấy vua nước Ma-kiệt-đà là Ðề-bà-đạt-đa, vua Ba-la-nại là Xá-lợi-phất, người nài
voi là Ànanda, và con voi là Ta vậy.
-ooOoo-
123.
CHUYỆN CÁI CÁN CÀY (Tiền thân Nangalisa)
Kẻ ngu
nói hạn chế ...,
Câu
chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về Trưởng lão Làludàyi (Udàyi khờ
khạo). Theo truyền thuyết, khi nói, Trưởng lão ấy không biết cái gì thích ứng,
cái gì không thích ứng: Trong trường hợp này, nên nói cái này, trong trường hợp
này, không nên nói cái này. Nếu chúc lễ hội điềm lành, Trưởng lão nói lên điềm
gở. Ngang qua các đường đi, tại các ngã đường dân chúng đứng, nếu là lễ tang,
Trưởng lão nói lời tùy hỷ điềm vui. Một hôm, tại Chánh pháp đường, các Tỷ-kheo
khởi lên câu chuyện:
- Này
các Hiền giả, Làludàyi không biết cái gì thích ứng, cái gì không thích ứng.
Bậc Ðạo
Sư đến và hỏi:
- Này
các Tỷ-kheo, nay các ông ngồi tụ họp đang bàn luận vấn đề gì?
Khi
biết đề tài câu chuyện, bậc Ðạo Sư nói:
- Này
các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Làludàyi nói lời đần độn, không biết cái gì nên
nói, cái gì không nên nói. Thuở trước, vị ấy cũng như vậy rồi. Vị ấy luôn luôn
ngu đần.
Nói vậy
xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.
*
Thuở
trước, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia
đình Bà-la-môn giàu có. Ðến tuổi trưởng thành Bồ-tát đi học ở Takkasilà, trở
thành một vị Sư trưởng có danh tiếng nhiều phương ở Ba-la-nại và Bồ-tát dạy
nghề cho năm trăm thanh niên Bà-la-môn.
Lúc
bấy giờ, trong các thanh niên Bà-la-môn ấy, có một thanh niên đần độn hay nói
lời ngớ ngẩn, vì bản tánh đần độn nên không học nghề được. Thanh niên ấy hầu hạ
Bồ-tát, làm mọi công việc như người nô lệ. Một hôm, vào buổi chiều, sau khi ăn
xong, Bồ-tát đang nằm nghỉ trên giường, thanh niên ấy đến xoa bóp tay chân và
lưng ngài. Khi anh ta làm xong định đi, thì Bồ-tát nói:
-
Này con thân, chêm cao chân cái giường lên.
Thanh
niên ấy chêm được một chân giường lên cao, còn chân kia không tìm được đồ chêm
giường, anh ta dùng bắp vế của mình làm đồ chêm giường và trải qua một đêm như
vậy. Vào buổi sáng thức dậy, Bồ-tát thấy vậy liền hỏi:
-
Này con thân, con ngồi làm gì đây?
-
Thưa Sư trưởng, con không tìm thấy đồ chêm giường nên dùng bắp vế thay vào và
ngồi ở đây.
Bồ-tát
cảm thấy xúc động, suy nghĩ: "Nó là người thị giả rất chí thành của ta,
nhưng so với các thanh niên Bà-la-môn, nó là đứa đần độn, không thể học được
nghề, vậy ta hãy giúp cho nó trở thành người có trí". Rồi Bồ-tát suy nghĩ:
"Nay có phương tiện này, ta sẽ đưa thanh niên Bà-la-môn này đi nhặt củi và
lá. Khi nó về, ta sẽ hỏi: Hôm nay con đã thấy gì làm gì? Chắc nó sẽ trả lời:
Hôm nay con thấy cái này, làm cái này; rồi ta sẽ hỏi: Ðiều con thấy, con làm,
giống cái gì? Nó sẽ dùng ví dụ, tìm lý do để nói: Con thấy như thế này ... Ðiều
ấy khiến nó nói ví dụ và lý do mới hoài. Với phương tiện này ta có thể làm cho
nó trở thành người có trí". Nghĩ vậy, Bồ-tát kêu anh ta lại và nói:
-
Này con thân, bắt đầu từ hôm nay, con hãy đi lượm củi và lá, và tại chỗ con đi,
con thấy cái gì, ăn cái gì, uống cái gì, nhai cái gì, lúc về con hãy báo cáo
cho ta biết.
Anh
ta vâng theo lời dạy. Một hôm anh ta đi vào rừng để lượm củi và lá cùng với các
thanh niên Bà-la-môn khác, anh ta thấy một con rắn. Khi về anh ta báo cáo lại:
-
Thưa Sư trưởng, con có thấy con rắn.
-
Này con thân, con rắn giống cái gì?
-
Nó giống cán cày.
Bồ-tát
nói:
-
Tốt lắm, này con thân, các ví dụ con trình bày rất hợp lý, con rắn thật giống
như cái cán cày.
Rồi
Bồ-tát suy nghĩ: "Các ví dụ do thanh niên này trình bày rất hợp lý. Ta có
thể làm cho người này thành người có trí".
Lại
một ngày khác, thanh niên Bà-la-môn này thấy con voi trong rừng, và đi về thưa:
-
Thưa Sư trưởng, con có thấy con voi.
-
Này con thân, con voi giống cái gì?
-
Nó giống như cái cán cày.
Bồ-tát
suy nghĩ: "Cái vòi voi giống như cán cày. Cái ngà voi cũng vậy. Người này
phân tích một cách ngu si, không thể nói như vậy". Nghĩ vậy Bồ-tát giữ im
lặng.
Rồi
một hôm được mời đi ăn mía, anh ta về thưa:
-
Thưa Sư trưởng, hôm nay con được ăn mía.
-
Cây mía giống cái gì?
-
Thưa, giống cái cán cày. Anh ta nói.
Vị
Sư trưởng suy nghĩ "Nó nói cũng có một phần đúng", nên giữ im lặng.
Lại nữa, một hôm được mời cùng một số thanh niên ăn đường cục với sữa đông và
uống sữa, khi về anh ta thưa:
-
Thưa Sư trưởng, hôm nay chúng con được ăn sữa đông và uống sữa.
Khi
được hỏi về sữa đông và sữa giống cái gì, anh ta trả lời:
-
Thưa, giống cái cán cày.
Vị
Sư trưởng suy nghĩ: "Thanh niên Bà-la-môn này khi nói: con rắn giống cái
cán cày, vậy là khéo. Khi nó nói: con voi giống như cái cán cày, vì liên hệ đến
cái vòi, là nói một cách gượng ép. Khi nó nói cây mía giống như cái cán cày,
vậy cũng là nói hơi gượng ép. Còn sữa đông và sữa luôn luôn màu trắng, lấy theo
hình dáng đồ vật chúng được đặt vào, vậy cái ví dụ nó nói hoàn toàn không thể
chấp nhận. Ta không thể dạy cho kẻ ngớ ngẩn này học được.
Nghĩ
xong, Bồ-tát nói lên bài kệ:
Kẻ ngu nói hạn chế,
Tại chỗ không hạn chế,
Nó không biết sữa đông,
Cũng không biết cán cày,
Nó nghĩ là sữa đông,
Giống như cái cán cày.
Tại chỗ không hạn chế,
Nó không biết sữa đông,
Cũng không biết cán cày,
Nó nghĩ là sữa đông,
Giống như cái cán cày.
*
Sau khi
nghe pháp thoại này, bậc Ðạo sư nhận diện Tiền thân như sau:
- Thời
ấy, thanh niên ngớ ngẩn là Làludàyi, và Sư trưởng có danh nhiều phương là Ta
vậy.
-ooOoo-
124.
CHUYỆN TRÁI XOÀI (Tiền thân Amba)
Này
người hãy tinh tấn ...
Câu
chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một Bà-la-môn làm đầy đủ các
nhiệm vụ. Theo truyền thuyết, con trai một thương gia ở Xá Vệ hiến dâng tâm trí
cho Chánh pháp và xuất gia làm đầy đủ các nhiệm vụ. Vị ấy làm tốt các bổn phận
đối với Sư trưởng, đối vối Giáo thọ, các nhiệm vụ về đồ ăn uống, nhà họp
Bố-tát, nhà tắm v.v... hoàn toàn đầy đủ trong mười bốn nhiệm vụ quan trọng và
tám mươi nhiệm vụ nhỏ. Vị ấy thường hay quét tinh xá, quét phòng riêng, hành
lang, con đường đưa đến tinh xá, đem nước cho những người khát. Dân chúng hoan
hỷ vì sự vẹn toàn nhiệm vụ của vị này nên đã cúng dường năm trăm phần ăn hàng
ngày cho chúng Tăng và đem lại lợi dưỡng danh vọng lớn cho tinh xá. Nhờ vị này,
nhiều người được thoải mái lạc trú trong tinh xá.
Rồi một
hôm, các Tỷ-kheo họp ở Chánh pháp đường, bắt đầu câu chuyện:
- Thưa
các Hiền giả, Tỷ-kheo tên ấy, thành tựu các nhiệm vụ của mình, đã tạo nên lợi
dưỡng danh vọng lớn. Chỉ nhờ một mình người ấy, nhiều người đã đạt được lạc
trú.
Thế Tôn
đến và hỏi các Tỷ-kheo đang ngồi nói vấn đề gì, và khi được biết vấn đề ấy, bậc
Ðạo Sư nói:
- Này
các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Tỷ-kheo này làm đầy đủ nhiệm vụ. Thuở xưa, chỉ
nhờ một mình người ấy, năm trăm ẩn sĩ đi hái trái cây đã được cung cấp các trái
cây do người ấy đem lại.
Nói vậy
xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.
*
Thuở
xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình
Bà-la-môn ở phương bắc, và khi đến tuổi trưởng thành, ngài xuất gia làm vị ẩn
sĩ được vây quanh với năm trăm ẩn sĩ sống dưới chân núi.
Thời
ấy, ở núi Hy-mã (Tuyết Sơn), một nạn hạn hán khắc nghiệt đã xảy ra, chỗ này chỗ
kia nước uống bị thiếu hụt, các loài thú không có nước uống cảm thấy khổ cực.
Một vị trong số những người tu khổ hạnh ấy, thấy các loài thú đau khổ vì khát
nước, đã đốn một cây làm thành cái máng, chắt chiu tất cả nước uống đựng đầy
cái máng và cho chúng uống nước.
Các
loài thú tập hợp rất nhiều, và trong khi cho chúng uống nước, người tu khổ hạnh
không có thì giờ để đi hái trái. Dầu không có thức ăn, vị ấy vẫn cho chúng uống
nước. Ðàn thú suy nghĩ: "Vị này vì cho chúng ta uống nước, không có thì
giờ để hái quả. Vì không có thức ăn, vị ấy trở thành mỏi mệt. Vậy chúng ta hãy
giao ước với nhau như sau: Bắt đầu từ hôm nay, những ai đến uống nước, hãy tùy
theo sức mình, hái các loại trái cây và đem lại cúng dường vị tu khổ
hạnh".
Từ
đó về sau, mỗi con mỗi thứ, hái các loại trái ngọt như xoài, đào, mít v.v...
đem đến cho vị tu khổ hạnh đựng đầy hai trăm năm mươi cỗ xe. Như vậy, năm trăm
vị khổ hạnh ăn uống đầy đủ, và có đồ dư để dành nữa. Thấy vậy, Bồ-tát nói:
-
Như vậy chỉ nhờ một người làm đầy đủ nhiệm vụ nên được cung cấp trái cây v.v...
đủ số lượng cho các vị tu khổ hạnh khác. Thật vậy, chúng ta cần phải luôn tinh
tấn làm thiện sự.
Nói
vậy xong, Bồ-tát đọc bài kệ:
Này, người hãy tinh tấn,
Bậc hiền trí không nản,
Xem quả của tinh tấn,
Xoài được ăn thỏa thích.
Bậc hiền trí không nản,
Xem quả của tinh tấn,
Xoài được ăn thỏa thích.
*
Sau khi
kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:
- Lúc
bấy giờ, vị tu khổ hạnh làm đầy đủ nhiệm vụ là Tỷ-kheo, và bậc Ðạo Sư hội chúng
là Ta vậy.
-ooOoo-
125.
CHUYỆN NGƯỜI NÔ LỆ KATÀHAKA (Tiền thân Katàhaka)
Nó nói
nhiều, đại ngôn ...,
Câu
chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một Tỷ-kheo nói khoác lác. (Chuyện
này giống như chuyện đã kể trước).
*
Thuở
xưa, khi vua Barhmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát là một nhà triệu phú giàu
có và bà vợ triệu phú sanh một con trai. Cũng trong ngày ấy, một người nữ tỳ
sanh một con trai. Hai trẻ ấy lớn lên cùng tuổi với nhau. Khi con trai vị triệu
phú học viết, con trai người nô tỳ mang tấm gỗ cũng xin học viết luôn với cậu
chủ. Rồi nó học hai hay ba công nghệ, lớn lên nó trở thành một thanh niên ăn
nói giỏi, đẹp trai và được đặt tên là Katàhaka.
Khi
làm quản lý cho các kho trong nhà triệu phú, anh ta suy nghĩ: "Những người
này sẽ không bắt ta làm quản lý các kho suốt đời được. Nếu thấy ta có lỗi gì,
họ sẽ đánh ta, trói ta, đóng dấu vào ta, cho ta đồ ăn của bọn nô lệ. Tại biên
địa, có người triệu phú là bạn của triệu phú này, ta sẽ viết thư, nhân danh
người triệu phú cầm đi đến đấy, và nói: Ta là con của triệu phú, lừa dối vị
triệu phú biên địa để lấy con gái của ông ta, hưởng hạnh phúc và sống an lạc
suốt đời".
Nghĩ
vậy, anh ta lấy giấy và viết thư như sau: "Tôi gửi người con trai của tôi
tên là Katàhaka đến với bạn. Thật là xứng đáng nếu hai gia đình chúng ta kết
làm sui gia với nhau: Con của tôi lấy con của bạn. Do vậy, hãy gả con gái của
bạn cho con trai của chúng tôi, cho nó sống tại đấy, và khi nào có cơ hội tôi
sẽ đến". Viết xong, anh ta đóng triện của người triệu phú, đem theo nhiều
tiền bạc, áo quần, hương thơm v.v.... đưa đến biên địa, đảnh lễ vị triệu phú và
đứng chờ. Người triệu phú hỏi:
-
Này con thân, con từ đâu lại?
Anh
ta đáp:
-
Từ Ba-la-nại.
-
Con là ai?
-
Là con vị triệu phú Ba-la-nại.
-
Vì mục đích gì, con đến đây?
Lúc
bấy giờ Katàhaka đưa bức thư và nói:
-
Ông xem bức thư này rồi sẽ rõ.
Người
triệu phú đọc thư xong rồi nói:
-
Nay mới thật là ta sống cuộc đời mới.
Ông
hoan hỷ gả con gái và xây dựng cho anh ta. Ðược tôn quí như vậy, Katàhaka trở
thành kiêu ngạo. Ðối với các món ăn như cháo, đồ ăn cứng ... và các loại vải
hương được đem lại, anh ta chỉ trích như sau:
-
Chúng nấu cháo như thế này, nấu đồ ăn cứng như thế này. Ôi! Thật là những người
ở biên địa.
Anh
ta chỉ trích những người thợ dệt vải, và những người thợ khác:
-
Với bản chất của người sống ở biên địa, những người này không biết dệt y. Chúng
không biết chọn hương, không biết bó hoa.
Khi
thấy vắng người nô lệ, Bồ-tát hỏi:
-
Ta không thấy mặt Katàhaka, nó đi đâu? Hãy cho đi tìm nó khắp nơi.
Một
trong những người đi tìm kiếm đến tại chỗ ấy, thấy Katàhaka, nhận diện được anh
ta, nhưng không để lộ tông tích của mình, và đi về trình với Bồ-tát. Bồ-tát
nghe tin như vậy, liền nói:
-
Nó làm một việc không phải, ta sẽ đi đem nó trở về.
Sau
khi xin phép vua, ngài ra đi với một số tùy tùng lớn. Khắp nơi, mọi người đều
biết vị triệu phú đi ra biên địa. Katàhaka nghe tin Bồ-tát đến liền suy nghĩ:
"Không có lý do gì khác để vị triệu phú đến. Chính vì ta. Nếu ta chạy
trốn, thì sau không thể trở về được". Anh ta nghĩ ra phương kế. "Ta
hãy đi đón ông chủ, làm bổn phận một người nô lệ, và làm vui lòng ông chủ của
ta". Bắt đầu từ đấy, giữa hội chúng, anh ta nói như sau:
-
Những kẻ ngu khác, vì ngu si, không biết các công đức của cha mẹ, khi cha mẹ
ăn, họ không hầu hạ, lại ngồi ăn với cha mẹ. Còn chúng tôi, khi cha mẹ ăn,
chúng tôi đem lại bát, ống nhổ, chén đĩa, quạt và nước uống. Như vậy, chúng tôi
hết lòng hầu hạ cha mẹ. Cho đến khi cha mẹ đi đại tiểu tiện, chúng tôi cũng đem
lại bình nước.
Tất
cả mọi bổn phận phải làm của người nô lệ đối với chủ, Katàhaka đều trình bày
rõ. Sau khi đã dạy cho đám tùy tùng như vậy, Katàhaka thưa với ông cha vợ:
-
Thưa cha thân: con nghe tin cha của con sắp đến thăm cha. Cha hãy sửa soạn các
món ăn loại cứng và loại mềm. Còn con đem theo quà tặng, con sẽ đi đón cha con.
Nhạc
phụ chấp thuận:
-
Tốt lắm, này con.
Katàhaka
đem theo nhiều quà tặng đi với một số gia nhân, đảnh lễ Bồ-tát, và dâng quà
tặng. Bồ-tát nhận quà tặng, đối xử với anh ta rất thân tình. Khi đến giờ ăn
sáng, ngài cho dựng trại, đi vào chỗ kín để giải quyết mọi bức bách của thân.
Katàhaka ngăn ngừa tùy tùng của mình, lại tự cầm bình nước, đi đến gần Bồ-tát,
và sau khi lo hầu hạ xong, anh ta quỳ xuống chân Bồ-tát và thưa:
-
Thưa ông chủ, ông chủ cần tài sản bao nhiêu con xin dâng đủ, xin chớ làm cho
danh giá con mất đi.
Bồ-tát
bằng lòng với bổn phận đầy đủ của nó và nói:
-
Chớ sợ hãi, không có gì nguy hiểm đến với ngươi từ lời nói của ta cả.
Bồ-tát
an ủi anh ta, rồi đi vào thành phố biên địa và được tiếp đón long trọng. Còn
Katàhaka luôn luôn làm bổn phận của người nô lệ. Một thời, khi Bồ-tát ngồi
thoải mái, người triệu phú biên địa thưa với ngài:
-
Thưa đại triệu phú, khi nhận được thư của ngài, tôi đã gả con gái của tôi cho
con trai ngài.
Bồ-tát
dùng lời thân ái thích hợp nói về Katàhaka, khiến cho người triệu phú hết sức
hân hoan. Nhưng từ đấy trở đi, Bồ-tát không thể ngó vào mặt của Katàhaka!
Một
hôm, Bồ-tát cho gọi cô con gái của vị triệu phú và nói:
-
Này con thân, hãy tìm và bắt giúp chấy trên đầu ta.
Cô
con gái đến bắt giúp. Bồ-tát nói lời thân ái với người con gái đang đứng và
hỏi:
-
Con ta đối với con, khi vui khi buồn, xử sự có tốt đẹp chăng? Hai con sống có
hoan hỷ, hòa hợp với nhau không?
-
Thưa cha thân, anh con không có lỗi gì khác. Chỉ có tật hay chê bai đồ ăn thôi.
-
Này con thân, nó luôn luôn có tánh xấu ấy. Nhưng cha sẽ chỉ cho con một cách để
làm cho chồng con câm miệng. Con hãy học thuộc cách ta chỉ để trong giờ ăn, khi
nào con ta mở miệng chê bai, con hãy đứng trước mặt chồng con và nói lên cách
ta đã chỉ.
Nói
vậy xong, Bồ-tát dạy cho cô học thuộc lòng bài kệ và ở lại đó vài ngày, rồi đi
trở về Ba-la-nại. Katàhaka mang theo nhiều đồ ăn loại cứng và mềm, đi tiễn đưa
ông chủ một chặng đường, cúng dường nhiều tài sản, đảnh lễ rồi trở về.
Từ
khi Bồ-tát đi về, Katàhaka lại càng sanh lòng kiêu mạn. Một hôm, khi con gái vị
triệu phú đem lại một món ăn rất ngon, mang muỗng đến và mời chồng ăn, Katàhaka
bắt đầu chỉ trích món ăn. Cô liền đọc lên bài kệ mà Bồ-tát đã dạy:
Nó nói nhiều, đại ngôn,
Khi đến xứ sở lạ,
Vị ấy sẽ trở lui,
Và phá hoại tất cả,
Vậy Ka-tà-ha-ka,
Hãy ăn món này gấp!
Khi đến xứ sở lạ,
Vị ấy sẽ trở lui,
Và phá hoại tất cả,
Vậy Ka-tà-ha-ka,
Hãy ăn món này gấp!
Katàhaka
suy nghĩ: "Ôi thôi! Chắc vị triệu phú đã nói cho nàng biết tên ta và kể
lại toàn bộ câu chuyện rồi!"
Từ
đó trở đi, anh ta không dám chê bai món ăn, cũng không dám kiêu mạn và với ý hạ
mình, anh ta ăn các món được đem đến. Rồi về sau, khi từ trần, anh ta đi theo
nghiệp của mình.
*
Sau khi
kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:
- Thời
ấy, Katàhaka là Tỷ-kheo nói đại ngôn, còn vị triệu phú Ba-la-nại là Ta vậy.
-ooOoo-
126.
CHUYỆN TƯỚNG CỦA KIẾM (Tiền thân Asilakkhana)
Cùng
đồng một sự việc ...,
Câu
chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một Bà-la-môn giỏi đoán
tướng của kiếm tại cung vua Kosala. Nghe nói vị này khi được người thợ của vua
đem kiếm lại, chỉ ngửi cây kiếm cũng có thể nói lên tướng của cây kiếm. Khi
được lợi dưỡng từ tay của người nào, vị này nói cây kiếm của họ có tướng tốt,
điềm lành. Khi không được lợi dưỡng từ tay của người khác, vị này chê trách cây
kiếm của họ có tướng xấu.
Thế rồi
có một người thợ làm cây kiếm xong, bỏ nó vào trong bao với bột tiêu mịn rồi
đem cây kiếm dâng vua. Vua cho gọi người Bà-la-môn và bảo thử cây kiếm. Khi vị
Bà-la-môn rút cây kiếm ra và ngửi, bột tiêu vào lỗ mũi khiến vị này muốn hắt
hơi. Khi vị ấy hắt hơi, lỗ mũi va chạm vào lưỡi kiếm và bị cắt đứt làm hai. Câu
chuyện lỗ mũi của vị ấy bị đứt được chúng Tỷ-kheo biết đến. Một hôm, các
Tỷ-kheo tại Chánh pháp đường bắt đầu câu chuyện:
- Này
các Hiền giả, người giỏi đoán tướng kiếm của vua, trong khi đoán tướng cây
kiếm, đã bị chặt đứt lỗ mũi.
Bậc Ðạo
Sư đến và hỏi:
- Này
các Tỷ-kheo, các ông đang ngồi họp và bàn vấn đề gì?
Khi
được nghe vấn đề ấy, bậc Ðạo Sư nói:
- Này
các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Bà-la-môn ấy ngửi cây kiếm và bị chặt đứt mũi.
Thuở xưa, vị ấy cũng đã bị như vậy rồi.
Nói
xong bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.
*
Thuở
xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, có người Bà-la-môn giỏi đoán tướng
của kiếm. (Tất cả giống như câu chuyện hiện tại). Vua truyền gọi những người
giải phẫu, bảo họ gắn một cái mũi giả vào mũi vị ấy và cho vị ấy làm việc lại.
Vua Ba-la-nại không có con trai, chỉ có con gái và một người cháu trai, vì thế
vua nuôi dưỡng cả hai bên cạnh vua cho đến lớn. Vì họ lớn lên gần nhau, họ sanh
tâm luyến ái nhau. Vua cho gọi các vị đại thần và nói:
-
Cháu trai của ta sẽ làm vua đất nước này. Sau khi gả con gái, ta làm lễ quán
đảnh cho nó.
Sau
khi nói vậy, vua lại suy nghĩ: "Cháu ta là con cháu ta rồi. Hãy cưới cho
nó một công chúa của vị vua khác, rồi làm lễ quán đảnh. Ta sẽ gả con gái ta cho
một vị vua khác. Như vậy con cháu của ta sẽ đông hơn và chúng ta sẽ làm chủ cả
hai vương quốc". Sau khi bàn bạc với các vị đại thần, vua nghĩ cần phải
phân ly hai người ấy, nên đã cho cháu trai sống một nơi, và cho con gái sống
một chỗ khác. Bấy giờ cả hai được mười sáu tuổi, và hết sức luyến ái nhau.
Hoàng tử suy nghĩ: "Dùng phương tiện gì ta có thể bắt cóc con gái của cậu
ta khỏi cung vua?". Rồi chàng nghĩ ra một phương kế, bảo mời một bà thầy
bói, và cho bà một gói một ngàn đồng tiền vàng. Baø hỏi:
-
Tôi phải làm gì?
-
Bà làm cách nào cho tôi được nàng. Bà hãy bày cho một mưu kế, nhờ vậy tôi đem được
công chúa ra khỏi nhà.
-
Thưa, ngài được. Tôi sẽ đi đến hầu đức vua và nói như sau: - Thưa Ðại vương,
công chúa bị ma quỷ ám ảnh, đợi khi nào ma quỷ bỏ đi không để ý, vào ngày ấy,
tôi sẽ chở công chúa lên xe, đem theo nhiều người tay cầm vũ khí, với một số
tùy tùng đông đúc đưa đến nghĩa địa, tại đây, trong một vòng tròn có bùa phép,
sau khi đặt một người chết nằm trên giường phía dưới, tôi sẽ đặt công chúa nằm
phía trên ấy, và với một trăm lẻ tám bình nước thơm, tôi sẽ làm cho ma quỷ rời
công chúa". Nói vậy xong, tôi sẽ đưa công chúa đến nghĩa địa. Trong ngày
chúng tôi đi đến, xin ngài đi đến sớm một chút, cầm theo một ít bột tiêu với
một số tùy tùng của ngài mang vũ khí cầm tay vây quanh leo lên xe. Khi đến
nghĩa địa, ngài hãy cho đậu xe vào một phía cổng, rồi đưa những người có vũ khí
vào trong rừng nghĩa địa. Còn ngài tự mình đi đến chỗ có vòng tròn bùa phép và
nằm trên ấy, che phủ lại như người chết. Rồi tôi đến chỗ ấy, trải một chỗ nằm
nhỏ trên ngài, và bảo công chúa nằm lên. Khi ấy, ngài sẽ bỏ hột tiêu vào lỗ mũi
hắt hơi ba lần. Khi ngài hắt hơi, chúng tôi sẽ bỏ công chúa lại và chạy trốn.
Khi ấy ngài đến, hãy an ủi công chúa rồi đem công chúa về nhà.
Hoàng
tử chấp thuận, cho đó là một mưu chước tuyệt điệu.
Baø
thầy bói đi đến trình vua vấn đề ấy và vua chấp thuận. Rồi bà nói chuyện riêng
với công chúa và nàng cũng chấp nhận. Ngày ra đi, bà tin cho hoàng tử biết, và
đi đến nghĩa địa cùng với một đoàn tùy tùng đông đúc. Với mục đích làm cho họ
sợ hãi, bà bảo các người bảo vệ:
-
Khi ta đặt công chúa lên giường, người chết ở giường dưới hắt hơi và từ chiếc
giường dưới đi ra, nó thấy ai trước sẽ bắt người ấy. Hãy hết sức coi chừng.
Hoàng
tử đã đến trước, và nằm trên chỗ đã dặn. Bà thầy bói đỡ công chúa đi đến chỗ
vòng tròn có bùa phép, dặn công chúa chớ sợ hãi, và đặt nàng trên giường. Trong
lúc ấy, hoàng tử bỏ bột tiêu vào lỗ mũi và hắt hơi. Khi hoàng tử vừa mới hắt
hơi, bà thầy bói bỏ công chúa lại, hét một tiếng rất lớn rồi chạy trước hơn ai
hết. Khi bà ta chạy, không một người nào dám đứng lại, tất cả đều quăng bỏ vũ
khí mang theo và chạy thoát thân.
Hoàng
tử làm tất cả mọi việc như đã bàn từ trước và đem công chúa đi về trú xứ của
mình, còn bà già đi về trình vua mọi việc đã xảy ra. Nhà vua suy nghĩ: "Từ
trước, ta đã có dụng ý dành công chúa cho nó rồi. Chúng như bơ chín bỏ trong
cháo sữa".
Sau
một thời gian, vua cho cháu trai trị vì vương quốc và đặt công chúa lên làm
hoàng hậu. Người cháu vua, sống hòa hợp với công chúa và trị nước đúng pháp.
Người đại thần giỏi đoán tướng kiếm vẫn hầu cận vua mới. Một hôm, vị đại thần
này hầu vua đứng giữa trời nắng, keo dán mũi giả của vị ấy chảy ra và cái mũi
giả rơi xuống đất. Vị đại thần xấu hổ đứng dậy cúi mặt xuống. Vua cười và nói:
-
Này Sư trưởng, chớ để ý. Nhảy mũi là tốt đối với người này, là xấu đối với người
kia. Khanh vì nhảy mũi nên bị đứt mũi. Còn ta nhờ nhảy mũi đã được vợ và được
cả vương quốc.
Nói
xong vua đọc bài kệ này:
Cũng đồng một sự việc,
Với người này là tốt,
Với người kia là xấu,
Không tốt cho tất cả,
Cũng không xấu tất cả.
Với người này là tốt,
Với người kia là xấu,
Không tốt cho tất cả,
Cũng không xấu tất cả.
Như
vậy với bài kệ này, vua kể sự việc cũ, và trọn đời làm công đức như bố thí
v.v... rồi đi theo nghiệp của mình.
*
Với bài
thuyết pháp này, bậc Ðại Sư nêu rõ không có vấn đề hoàn toàn thiện hay hoàn
toàn ác như thế gian nghĩ. Rồi bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:
- Lúc
bấy giờ, vị đại thần giỏi đoán tướng kiếm là vị giỏi đoán tướng kiếm ngày nay,
còn Ta là người cháu vua được vương vị.
-ooOoo-
127.
CHUYỆN NGƯỜI NÔ LỆ KALANDUKA (Tiền thân Kalanduka)
Dòng
họ, trú xứ anh ...,
Câu
chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một Tỷ-kheo nói khoác. Ở đây,
cả hai chuyện (hiện tại và quá khứ đều giống chuyện Tiền thân Katàhaka số 125).
*
Ở
đây, người nô lệ của triệu phú Ba-la-nại tên là Kalanduka. Sau khi chạy trốn và
lấy con gái người triệu phú biên địa, anh ta sống tại đấy với một đoàn tùy tùng
đông đảo. Vị triệu phú Ba-la-nại thấy vắng anh ta không biết anh ta đi đâu, bèn
sai con vẹt quí của mình đi tìm Kalanduka. Con vẹt bay chỗ này, chỗ kia và đến
tận thị trấn ấy.
Lúc
bấy giờ, Kalanduka muốn đi chơi dưới nước, đã đem theo nhiều vòng hoa, hương
thơm, thuốc xoa, cùng nhiều đồ ăn loại cứng và loại mềm, đến con sông, leo lên
thuyền với con gái người triệu phú và chơi giỡn trong nước. Tại địa phương ấy,
khi đang chơi trên sông, các gia chủ thường uống sữa trộn với một loại thuốc cay,
để khi ngâm mình trong một thời gian khỏi bị cảm lạnh. Nhưng khi Kalanduka này
uống một ngụm sữa, lại súc miệng và nhổ sữa ra. Khi nhổ sữa ra anh ta không nhổ
trong nước, lại nhổ trên đầu người con gái vị triệu phú. Con vẹt đi đến bờ
sông, đậu trên cành cây sung, nhìn xuống và nhận diện được Kalanduka, thấy anh
ta nhổ trên đầu con gái triệu phú liền nói:
-
Này nô lệ Kalanduka, hãy nhớ thọ sanh và vị trí của anh. Chớ ngậm bụm sữa, súc
miệng rồi nhổ trên đầu con gái nhà triệu phú có tín ngưỡng, có đức hạnh và đầy
đủ thọ sanh. Hãy biết lượng khả năng của mình.
Nói
xong con chim vẹt đọc bài kệ:
Dòng họ, trú xứ anh,
Tuy là chim ở rừng,
Ta hiểu được sự thật,
Sẽ khiến người bắt anh,
Hỡi Ka-lan-du-ka,
Hãy uống sữa đi thôi!
Tuy là chim ở rừng,
Ta hiểu được sự thật,
Sẽ khiến người bắt anh,
Hỡi Ka-lan-du-ka,
Hãy uống sữa đi thôi!
Kalanduka
nhận ra con vẹt, sợ nó sẽ tố cáo mình liền nói:
-
Này ông chủ, hãy đến đây, ông chủ đến hồi nào?
Con
vẹt nghĩ: "Ðây không phải vì lợi ích cho ta. Nó nói vậy nhưng trong tâm nó
chỉ muốn vặn cổ giết ta thôi". Biết vậy, vẹt nói:
-
Ta không cần gì anh.
Nó
liền bay lên, đến Ba-la-nại, kể lại cho vị triệu phú sự việc như đã nhìn thấy.
Vị triệu phú nói:
-
Ðồ lừa đảo đã làm một việc không phải.
Và
ông cho người đem anh ta về Ba-la-nại, bắt anh ta sống làm người nô lệ như cũ.
*
Sau khi
nói lên pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:
- Lúc
bấy giờ, Kalanduka là Tỷ-kheo này, còn vị triệu phú Ba-la-nại là Ta vậy.
-ooOoo-
128.
CHUYỆN CON MÈO (Tiền thân Bilàra)
Ai yêu
cờ Chánh pháp ...,
Câu
chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một Tỷ-kheo lừa đảo. Khi tánh
lừa đảo của Tỷ-kheo này được trình lên bậc Ðạo Sư, Ngài nói:
- Này
các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay nó là như vậy. Xưa kia nó cũng lừa đảo như vậy
rồi.
Nói
xong, bậc Ðạo Sư kể lại câu chuyện quá khứ.
*
Thuở
xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra làm con chuột,
thông minh sáng suốt, với thân hình to lớn, giống như heo con, được vây quanh
với vài trăm con chuột, sống ở trong rừng. Có con chó rừng lang thang chỗ này
chỗ kia, thấy đàn chuột liền suy nghĩ: "Ta hãy lừa dối đàn chuột này và ăn
thịt chúng". Nghĩ vậy, nó liền đến không xa hang các con chuột ấy, đứng
lên một chân, mặt hướng về mặt trời và hứng gió, ngửi gió, hít gió vào.
Bồ-tát
đi tìm đồ ăn thấy con chó rừng, suy nghĩ: "Ðây là một sinh vật có giới
hạnh", bèn đi đến gần nó và hỏi:
-
Thưa Tôn giả, Tôn giả tên gì?
-
Ta tên là Dhammika (Chánh pháp).
-
Sao Tôn giả không đứng lên bốn chân, mà chỉ đứng một chân thôi?
-
Nếu tôi đứng bốn chân, thì trái đất không thể chở nổi. Do vậy tôi chỉ đứng một
chân.
-
Vì sao Tôn giả đứng, lại há miệng?
-
Tôi không ăn gì khác, tôi chỉ ăn gió mà thôi.
-
Tại sao Tôn giả đứng và hướng mặt phía mặt trời?
-
Tôi đảnh lễ mặt trời.
Bồ-tát
nghe nó nói như vậy, suy nghĩ: "Ðây là một sinh vật có giới hạnh". Từ
đó về sau, buổi sáng và buổi chiều, Bồ-tát cùng với đàn chuột, đi tới hầu con
chó rừng. Khi đàn chuột hầu xong, trên đường đi về, con chó rừng bắt con chuột
sau cùng ăn thịt, nuốt nó xong, chùi miệng rồi đứng như cũ.
Dần
dần, đàn chuột ít đi. Các con chuột khác suy nghĩ: "Lúc trước, cái hang
này không thể chứa chúng ta. Chúng ta đứng không có kẽ hở, nay lỏng lẻo. Như
vậy, cái hang chứa không đầy. Vì sao lại như thế này?" Chúng trình sự việc
lên Bồ-tát biết. Bồ-tát suy nghĩ: "Do lý do gì các con chuột dần dần ít
đi?". Nghi ngờ con chó rừng, Bồ-tát lại nghĩ "Ta sẽ thử nó xem".
Khi đến hầu con chó rừng. Bồ-tát để đàn chuột đi trước, còn mình đi sau cùng.
Con chó rừng nhảy lên chúa chuột. Bồ-tát thấy nó nhẩy đến vồ mình, liền quay
thân mình và nói:
-
Tôn giả chó rừng, như vậy là sở hành giới cấm của ngươi không đúng Chánh pháp.
Với mục đích làm hại những kẻ khác, nhà ngươi hành trì phi pháp bêu xấu ngọn cờ
Chánh pháp".
Rồi
Bồ-tát đọc bài kệ:
Ai yêu cờ Chánh pháp,
Bí mật làm điều ác,
Dụng ý để lường gạt
Các loài sinh vật khác,
Giới cấm kẻ như vậy
Ðược gọi hạnh con mèo.
Bí mật làm điều ác,
Dụng ý để lường gạt
Các loài sinh vật khác,
Giới cấm kẻ như vậy
Ðược gọi hạnh con mèo.
Chúa
đàn chuột nói như vậy xong nhảy vào cắn cổ họng dưới hàm con chó rừng làm đứt
cuống họng, và chấm dứt đời sống của nó. Cả đàn chuột trở lui, ăn thịt con chó
rừng với tiếng kêu mum mum rồi bỏ đi. Nghe nói, những con đến trước có được
thịt ăn, những con đến sau không có được gì. Từ đấy về sau đàn chuột sống an ổn
không sợ hãi.
*
Sau khi
kể lại pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:
- Thời
ấy con chó rừng là Tỷ-kheo lừa đảo, còn chuột chúa là Ta vậy
-ooOoo-
129.
CHUYỆN KẺ THỜ LỬA (Tiền thân Aggika)
Cáo
chỏm trên đầu này ...,
Câu
chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một người lừa đảo.
*
Thuở
xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát làm chúa đàn chuột, sống ở
trong rừng. Bấy giờ lửa bùng lên, có con chó rừng không thể chạy trốn được,
đứng gục đầu vào một thân cây, để cho lửa cháy lông toàn thân của nó. Trên đỉnh
đầu, tại chỗ gục vào cây, một nắm tóc còn lại, giống như cái chỏm.
Một
hôm nó đang uống nước tại một vũng nước trên tảng đá, nó nhìn bóng mình thấy
cái chỏm và nghĩ: "Nay ta có tiền để mua đồ rồi". Nó đi lang thang
trong rừng, thấy cái hang có đàn chuột và nghĩ: "Ta sẽ lừa dối, và ăn những
con chuột này". Như trước đã nói, nó đứng không xa cái hang chuột bao
nhiêu. Vua loài chuột, trong khi đi tìm đồ ăn, thấy con chó rừng, tưởng rằng nó
có giới hạnh liền đi đến gần và hỏi:
-
Ngài tên gì?
-Ta
tên là Bhàradvàja, kẻ thờ lửa.
-
Sao ngài đến đây?
-
Vì muốn bảo vệ các bạn.
-
Làm thế nào ngài bảo vệ chúng tôi?
-
Tôi biết đếm với ngón tay. Buổi sáng, khi các bạn đi ra để tìm đồ ăn, tôi sẽ
đếm bao nhiêu con. Khi các bạn về, tôi sẽ đếm bao nhiêu con về. Như vậy, nhờ
đếm buổi sáng và buổi chiều tôi sẽ bảo vệ các bạn.
-
Này cậu thân, vậy hãy bảo vệ chúng tôi.
Con
chó rừng chấp nhận. Khi đến giờ ra đi, con chó rừng đếm một hai ba, khi đến giờ
về con chó rừng cũng đếm như vậy. Nó bắt con đi sau cùng và ăn thịt. Mọi chuyện
xảy ra như câu chuyện trước. Ở đây, con chuột chúa quay trở lui, đứng lại và
nói:
-
Này Tôn giả thờ lửa Bhàradvàja, đây không phải là cái chỏm trên đầu do thiện
pháp của ông tạo nên mà chính do nhân duyên cái bụng (tham ăn) ông tạo nên.
Rồi
chuột chúa đọc bài kệ này:
Cái chỏm trên đầu này
Không do công đức tạo,
Cái chỏm trên đầu này
Do duyên cái bụng tạo,
Ðếm ngón tay làm gì?
Vừa rồi, kẻ thờ lửa!
Không do công đức tạo,
Cái chỏm trên đầu này
Do duyên cái bụng tạo,
Ðếm ngón tay làm gì?
Vừa rồi, kẻ thờ lửa!
*
Khi bậc
Ðạo Sư nói pháp thoại này xong, Ngài nhận diện Tiền thân:
- Lúc
bấy giờ con chó rừng là Tỷ-kheo này, còn chúa đàn chuột là Ta vậy.
-ooOoo-
130.
CHUYỆN NỮ BÀ-LA-MÔN KOSIYA (Tiền thân Kosiya)
Hãy ăn
như đã nói...,
Câu
chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một người đàn bà ở Xá-Vệ. Nghe nói,
nàng là vợ một Bà-la-môn cư sĩ có lòng tin. Nhưng nàng hành ác giới, theo ác
pháp, ban đêm hành tà hạnh, còn ban ngày không làm công việc gì, cứ giả bộ đau
ốm nằm rên. Người Bà-la-môn hỏi nàng:
- Hiền
thê đau làm sao?
Nàng
trả lời:
- Tôi
bị gió hành.
- Hiền
thê muốn gì?
- Muốn
ăn đồ béo, bánh ngọt, các món ăn đặc biệt như cháo, món ăn có dầu v.v...
Nàng
muốn gì người Bà-la-môn đều đem lại cho nàng, và ông ta làm tất cả mọi công
việc như một người nô lệ. Khi vị Bà-la-môn có mặt ở nhà, thì nàng nằm nghỉ. Khi
vị Bà-la-môn đi ra ngoài, nàng sống với các tình nhân.
Vị
Bà-la-môn suy nghĩ: "Gió hành hạ thân vợ ta không có triệu chứng chấm
dứt". Nghĩ vậy, vị Bà-la-môn đem hương, vòng hoa đi đến Kỳ Viên, đảnh lễ
bậc Ðạo Sư rồi ngồi xuống một bên. Bậc Ðạo Sư hỏi:
- Này
Bà-la-môn, sao mấy lúc này không thấy mặt ông?
Vị
Bà-la-môn thưa:
- Bạch
Thế Tôn, nữ Bà-la-môn vợ con bị gió hành hạ. Con phải tìm bơ chín, dầu v.v...
và các món ăn đặc biệt cho vợ con. Nay thân nàng béo tốt, và màu da nàng sáng
tươi. Nhưng bệnh vì gió không có triệu chứng chấm dứt. Vì con săn sóc vợ con
nên không có cơ hội đến đây.
Bậc Ðạo
Sư biết được ác hạnh của nữ Bà-la-môn, liền hỏi:
- Này
Bà-la-môn, do tự ngã chất chứa nhiều đời, ông không nhớ lời của các bậc hiền
trí đã nói với ông thời xưa. Cần phải làm những thuốc này, thuốc này đối với
chứng bệnh của người đàn bà nằm như vậy.
Nói vậy
xong, theo yêu cầu của vị Bà-la-môn, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.
*
Thuở
xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát là một vị Bà-la-môn sanh
ra trong một gia đình rất cao quý, đi học tất cả tài nghệ ở Takkasilà và trở
thành một bậc Sư trưởng có danh tiếng nhiều phương. Các thanh niên hoàng tộc và
các thanh niên Bà-la-môn ở tại kinh đô phần lớn đến học nghề từ Bồ-tát.
Một
Bà-la-môn ở tỉnh thành học ba tập Vệ-đà và mười tám học minh với Bồ-tát; vị ấy
được đặt vào chức vụ địa chủ ở Ba-la-nại, hằng ngày hai lần đi đến Bồ-tát. Vợ
vị ấy là nữ Bà-la-môn có ác giới, theo ác hạnh. (Tất cả câu chuyện giống như
câu chuyện hiện tại). Khi Bồ-tát hỏi và được nghe: "Do nhân duyên này ...
con không có cơ hội nghe thuyết giảng", Bồ-tát biết nữ gia chủ này lừa đảo
vị Bà-la-môn, bèn nghĩ: "Ta sẽ nói một phương thuốc thích hợp với chứng
bệnh của nữ Bà-la-môn". Vì vậy, Bồ-tát nói với vị Bà-la-môn ấy:
-
Này cư sĩ thân, bắt đầu từ hôm nay, chớ cho nữ Bà-la-môn bơ chín, sữa, các vị
ngọt v.v... Hãy lấy năm loại trái cây và phân bò, bỏ chúng vào trong một cái
nồi bằng đồng mới, khiến chúng thấm nhiễm mùi của đồng, rồi cầm sợi dây thừng
hay cây roi mây và nói: "Ðây là món thích hợp với bệnh của bà, hãy uống
thuốc này hoặc đứng dậy làm các công việc cho xứng với các món bà ăn". Sau
đó, hãy đọc lên bài kệ này. Nếu vợ ông không chịu ăn uống, hãy lấy dây thừng
hay cây roi mây đánh bà ta vài cái, hoặc nắm tóc kéo đi, hoặc lấy cùi chỏ đánh
nhẹ, thế nào bà ta cũng dậy và làm công việc.
Người
Bà-la-môn nói:
-
Lành thay!
Và
như đã được nghe nói, khi về nhà, vị ấy làm món thuốc và nói với bà vợ:
-
Này hiền thê, hãy uống thuốc này!
-
Ai nói làm thuốc này?
-
Bậc Sư trưởng, hiền thê ạ.
-
Hãy đem đi, tôi không uống đâu.
Thanh
niên Bà-la-môn nói:
-
Ngươi không thích uống sao?
Vị
ấy cầm sợi dây và nói:
-
Hoặc là uống thuốc này thích hợp với bệnh của ngươi, hoặc là làm công việc cho
xứng đáng với món ăn được cung cấp.
Rồi
vị ấy đọc bài kệ:
Hãy ăn như đã nói,
hãy nói như đã ăn,
Ngươi không làm cả hai,
Cả nói và cả ăn,
Hỡi này Ko-si-ya.
hãy nói như đã ăn,
Ngươi không làm cả hai,
Cả nói và cả ăn,
Hỡi này Ko-si-ya.
Nghe
vậy, nữ Bà-la-môn Ksiya sợ hãi, vì biết có sự can thiệp của vị Sư trưởng.
"Ta không thể lừa đảo được nữa". Sau đó, nàng liền ngồi dậy làm các
công việc. Vì lòng kính trọng bậc Ðạo Sư, nàng từ bỏ ác hạnh và trở thành có
giới đức.
*
Khi
nghe chuyện xong, nữ Bà-la-môn nhận thấy đức Phật đã hiểu ác hạnh của mình, bèn
sợ hãi và không dám phạm tội nữa.
Sau khi
kể câu chuyện này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:
- Người
chồng và người vợ thời ấy là người chồng và người vợ hiện tại, còn vị Sư trưởng
là Ta vậy.
-ooOoo-
0 Komentar