PHẨM ASAMPADÀNA
131.
CHUYỆN KẺ VONG ÂN (Tiền thân Asampadàna)
Nếu
người này người kia ...
Câu
chuyện này, khi ở tại Trúc Lâm, bậc Đạo sư kể về Đề-bà-đạt-đa. Lúc bấy giờ, các
Tỳ kheo tại Chánh pháp đường, khởi lên câu chuyện :
- Thưa
các Hiền giả, Đề-bà-đạt-đa không biết ơn, không biết công đức của Như Lai.
Bậc Đạo
Sư đi đến và hỏi :
- Này
các Tỷ kheo, nay các ông ngồi họp ở đây bàn vấn đề gì ?
Khi
được nghe vấn đề ấy, bấc Đạo Sư nói :
- Này
các Tỷ kheo, không phải chỉ nay Đề-bà-đạt-đa mới vô ơn. Trong quá khứ, kẻ ấy
cũng đã vô ơn như vậy rồi.
Nói
xong bậc Đạo Sư kể câu chuyện quá khứ.
*
Thuở
xưa, trong nước Ma-kiệt-đà ở Vương Xá, khi một vị vua Ma-kiệt-đà đang trị vì,
Bồ-tát là một vị triệu phú có gia sản trị giá tám trăm triệu, tên là Sankha.
Tại Ba-la-nại, một triệu phú tên là Piliya cũng có gia sản trị giá tám trăm
triệu. Hai vị ấy là bạn thân với nhau. Trong thời ấy, vì một lý do nào đó,
triệu phú Piliya gặp đại nạn và tất cả gia sản đều bị mất sạch. Trở thành nghèo
túng, không nơi nương tựa, Piliya đoán biết triệu phú Sankha là chỗ có thể nhờ
cậy được liền đem vợ ra khỏi Ba-la-nại, đi bộ đến Vương Xá tận trú xứ của triệu
phú Sankha. Khi triệu phú Sankha thấy Piliya, liền ra đón và nói:
-
Ồ bạn thân của tôi đã đến.
-
Và ông đối xử với bạn rất kính trọng. Sau khi để cho bạn ở vài ngày, một hôm
ông hỏi:
-
Này bạn, bạn đến có mục đích gì?
-
Này bạn, đại nạn đã xảy đến cho tôi. Tất cả tài sản đều mất sạch. Hãy giúp đỡ
tôi!
-
Lành thay này bạn, chớ sợ hãi.
Sankha
mở kho bạc, cho bạn bốn trăm triệu đồng tiền vàng, rồi chia tất cả gia sản còn
lại của mình, kể cả vật nổi, vật chìm, động sản, bất động sản, thành hai phần
và cho bạn một nửa. Piliya đem tài sản ấy đi về Ba-la-nại và sống tại đấy.
Sau
một thời gian, một tai nạn tương tự đến với triệu phú Sankha. Ông tìm chỗ để
nương tựa và suy nghĩ: "Ta đã giúp đỡ rất nhiều cho bạn ta. Ta cho bạn nửa
gia sản. Thấy ta, bạn sẽ không từ chối. Ta hãy đi đến bạn của ta". Nghĩ
vậy, hai vợ chồng ông đi đến Ba-la-nại, rồi Sankha nói với vợ:
-
Này hiền thê, thật không thích hợp nếu bà đi bộ với tôi giữa đường xa thế này.
Bà hãy đi đến sau. Tối nay tôi sẽ cho xe đến với một người tùy tùng để đưa bà
vào thành cho đúng phép, hãy chờ tại đây.
Sau
đó, Sankha để người vợ ở trong một nhà trọ, tự mình đi vào thành, đến nhà triệu
phú và báo tin cho biết:
-
Bạn của ngài tên là triệu phú Sankha đã từ Vương Xá đến.
Khi
thấy Sankha, Piliya từ ghế đứng dậy, không đón mừng thân mật, chỉ hỏi:
-
Bạn đến đây có mục đích gì?
-
Tôi đến để thăm bạn.
-
Hiện nay bạn ở đâu?
-
Cho đến nay, tôi chưa có chỗ ở. Tôi để vợ tôi tại nhà trọ và đến đây.
-
Ở đây, không có chỗ ở cho bạn. Hãy lấy một ít gạo, nấu tại một chỗ nào đó, ăn
xong rồi đi. Ðừng để tôi thấy mặt bạn nữa.
Rồi
ông sai một người nô lệ:
-
Hãy cho bạn ta một lon gạo có nhiều trấu và gói vào một góc vải.
Người
ta nghe rằng ngày trước đó nó đã có được gạo đỏ tốt chở đầy một ngàn cỗ xe và
sau khi cho sàng gạo, đã chất đầy kho. Tên Piliya ngày trước đã được bạn cho
bốn trăm triệu đồng tài sản và đi về không biết ơn, nay tên đại cướp chỉ cho
bạn ân nhân một lon gạo nhiều trấu! Theo lệnh chủ, người nô lệ đong một lon gạo
trấu trong một cái giỏ rồi đi đến Bồ-tát. Bồ-tát suy nghĩ: "Con người phi
nhân nghĩa này, được ta cho bốn trăm triệu đồng, nay chỉ cho ta một lon gạo
trấu, không biết ta có nên nhận hay không?". Rồi Bồ-tát suy nghĩ:
"Người bạn ác vô ơn này đã phá vỡ tình bạn với ta, khi ta gặp nạn. Nếu ta
không nhận lon gạo trấu quá ít, ta sẽ phá vỡ tình bạn. Kẻ mù loà ngu si không
nhận vật cho ít ỏi, sẽ phá hoại tình bạn. Nhưng ta, nhờ chế ngự được cơn giận
vì lon gạo trấu do nó cho, sẽ duy trì được tình bạn".
Do
vậy Sankha cột vào vạt áo lon gạo được cho và từ lâu đài bước xuống đi đến nhà
trọ. Vợ Sankha hỏi:
-
Này ông, ông nhận được gì?
-
Này hiền thê, triệu phú Piliya, bạn của chúng ta, đã cho một lon gạo trấu và
đuổi chúng ta đi.
Bà
vợ nói:
-
Vì sao ông lại nhận ? Và nào có xứng đáng gì với bốn trăm triệu đồng tài sản?
Rồi
bà vợ khóc, Bồ-tát nói:
-
Này hiền thê, chớ khóc. Vì sợ phá vỡ tình bạn nên ta nhận để duy trì tình bạn.
Sao bà lại sầu muộn?
Nói
xong Bồ-tát đọc bài kệ này:
Nếu người này người kia
Không có cho chút gì.
Với kẻ ngu si, tình bạn
Ði đến chỗ tối đen
Do vậy ta vẫn nhận
Lượng được nửa phần trấu.
Ta không để tình bạn
Vì ta bị hủy diệt,
Ta muốn tình bạn này
Mãi mãi được trường cửu.
Không có cho chút gì.
Với kẻ ngu si, tình bạn
Ði đến chỗ tối đen
Do vậy ta vẫn nhận
Lượng được nửa phần trấu.
Ta không để tình bạn
Vì ta bị hủy diệt,
Ta muốn tình bạn này
Mãi mãi được trường cửu.
Tuy
nghe nói vậy, bà vợ triệu phú vẫn khóc. Trong lúc ấy, một người nô lệ do triệu
phú Sankha đã cho triệu phú Piliya, đi ngang qua cửa trọ, nghe tiếng khóc của
bà triệu phú, liền đi vào nhà trọ. Thấy ông bà chủ của mình, anh ta đảnh lễ
dưới chân họ, khóc than và hỏi:
-
Thưa ông bà chủ, ông chủ đến đây có việc gì?
Triệu
phú kể lại tất cả sự việc. Người nô lệ nói:
-
Thưa ông bà chủ, hãy để sự việc như vậy. Chớ lo nghĩ.
Sau
khi an ủi cả hai người, anh ta đưa họ về nhà mình dùng nước thơm để hai người
tắm rửa, mời họ ăn cơm và tin cho các người nô lệ khác biết:
-
Ông chủ bà chủ cũ của các bạn đã đến.
Và
anh ta bảo họ đến thăm. Một vài ngày sau, anh ta họp toàn thể nô lệ cùng đi đến
sân chầu vua, tạo ra tiếng vang lớn. Vua cho gọi họ vào và hỏi có việc gì. Họ
trình lên vua hết tất cả sự việc. Vua nghe lời của họ xong, liền cho mời hai vợ
chồng triệu phú đến và hỏi triệu phú Sankha:
-
Có đúng sự thật chăng, này đại triệu phú, khanh đã cho triệu phú Piliya bốn
trăm triệu đồng tiền vàng?
-
Thưa Ðại vương, khi bạn tôi đi đến Vương Xá, và đặt lòng tin vào tôi, tôi không
cho toàn thể tài sản của tôi, nhưng tôi chia tất cả động sản và bất động sản
của tôi thành hai phần đồng đều và cho bạn tôi một nửa.
Vua
hỏi triệu phú Piliya:
-
Có đúng sự thật chăng?
Piliya
trả lời:
-
Thưa Ðại vương, đúng sự thật.
-
Còn khi bạn của ngươi đến đặt lòng tin vào ngươi, ngươi có lòng cung kính tôn
trọng bạn ngươi không?
Piliya
im lặng.
-
Có phải ngươi bảo đổ một lon gạo trấu vào một góc áo và cho bạn của ngươi
chăng?
Nghe
nói vậy Piliya vẫn giữ im lặng. Sau đó, nhà vua hỏi ý kiến các đình thần nên xử
trí thế nào. Cuối cùng, khi quyết định xong, vua ra lệnh:
-
Hãy đi lấy tất cả tài sản trong nhà của triệu phú Piliya giao cho triệu phú
Sankha.
Bồ-tát
thưa:
-
Tâu Ðại vương, tôi không muốn gia sản của người khác, tôi chỉ xin nhận tài sản
trước đây tôi đã cho.
Nhà
vua giao gia sản theo yêu cầu của Bồ-tát. Sau khi nhận lại gia sản mình đã cho,
Bồ-tát cùng với đoàn nô lệ vây quanh đi về Vương Xá, gầy dựng cơ nghiệp, và
trọn đời làm các công đức như bố thí v.v..., rồi đi theo nghiệp của mình.
*
Sau khi
kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:
- Lúc
bấy giờ, triệu phú Piliya là Ðề-bà-đạt-đa, còn triệu phú Sankha là Ta vậy.
-ooOoo-
132-
CHUYỆN NGŨ DỤC LẠC (Tiền thân Pancagaru)
Nghe
theo lời khuyên tốt ...,
Câu
chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về sự cám dỗ của các cô gái của Ma
vương (Màra) tại cây bàng Ajapàla của Người chăn dê.
Bậc Ðạo
Sư đọc bài kinh bắt đầu với những lời này:
Rực rỡ sáng, chúng đến,
Ái, bất lạc và tham,
Ngay tại đấy, Ðạo Sư
Thổi chúng bay tán loạn,
Chẳng khác bay tán loạn,
Chẳng khác gì bông rơi,
Tan tác trước gió thổi!
Ái, bất lạc và tham,
Ngay tại đấy, Ðạo Sư
Thổi chúng bay tán loạn,
Chẳng khác bay tán loạn,
Chẳng khác gì bông rơi,
Tan tác trước gió thổi!
Sau khi
Thế Tôn đọc xong bài kinh, các Tỷ-kheo họp tại Chánh pháp đường, bắt đầu câu
chuyện:
- Thưa
các Hiền giả, trong khi các con gái của Màra tự tạo ra hàng trăm thiên sắc đi
đến với mục đích, cám dỗ, bậc Chánh đẳng giác vẫn không thèm mở mắt để nhìn.
Ôi, Phật lực thật là vi diệu!
Bậc Ðạo
Sư đi đến và hỏi:
- Này
các Tỷ-kheo, các ông ngồi họp ở đây và bàn vấn đề gì?
Khi
nghe vấn đề ấy, bậc Ðạo Sư nói:
- Này
các Tỷ-kheo, thật không có gì vi diệu nếu Ta không nhìn các con gái của Màra,
khi Ta đã chứng được Toàn Giác và đoạn tận tất cả các lậu hoặc. Trong thời quá
khứ, khi Ta đang tìm đạo Bồ-đề, khi đang còn các kiết sử, Ta đã cương quyết
không nhìn các thiên sắc hóa hiện đến như vậy và do sự chế ngự ấy, Ta đã đạt
được đại vương quốc.
Nói vậy
xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.
*
Thuở
xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát là em trai út của một gia
đình có một trăm anh em. Tất cả câu chuyện mạo hiểm của ngài cần được diễn tả
đầy đủ ở đây cũng như ở Tiền thân Telapatta (số 96). Lúc bấy giờ dân chúng trú
ở thành Takkasilà dâng vương quốc cho Bồ-tát đang ở nhà trọ ngoài thành. và sau
khi ngài được làm lễ quán đảnh phong vương, dân chúng trang hoàng thành phố như
thành phố chư Thiên và trang hoàng cung điện của vua như cung điện của Thiên
chủ Indra (tức là Sakka hay Ðế Thích).
Khi
ấy Bồ-tát vào thành, đi ngang qua hành lang lớn trong cung vua, ngự lên vương
tọa làm bằng châu báu vi diệu, dưới một lọng trắng được giương cao, và ngồi
xuống với vẻ đẹp siêu phàm của vị Thiên chủ.
Các
đại thần, Bà-la-môn, gia chủ v.v... các hoàng tử trong vương tộc, tất cả đều
trang sức lộng lẫy, đứng bao vây xung quanh. Trong khi ấy mười sáu ngàn vũ nữ,
đẹp như các Thiên nữ, rất giỏi về đàn múa, hát, đầy đủ sắc đẹp tuyệt trần, biểu
diễn các điệu múa, các bài hát và các loại đàn, cho đến khi toàn cung điện vang
dội tiếng hát, tiếng đàn, giống như lòng đại dương vang dội tiếng sấm sét.
Bồ-tát ngồi nhìn cảnh huy hoàng lộng lẫy của mình, và suy nghĩ: "Nếu ta
nhìn thiên sắc huyễn hóa của các nữ Dạ-xoa ấy, thì ta đã mệnh chung rồi. Nhờ ta
không nhìn chúng, nên mới có cảnh huy hoàng lộng lẫy này. Nhờ nghe theo lời
khuyên của các vị Ðộc Giác Phật, nên ta mới đạt được kết quả này". Sau khi
suy nghĩ như vậy, ngài nói lên lời cảm hứng với bài kệ:
Nghe theo lời khuyên tốt,
Kiên trì, không lay động,
Tiếp tục con đường,
Không có gì sợ hãi.
Ta không muốn đi vào
Chỗ cám dỗ Dạ-xoa,
Nên ta được an toàn,
Khỏi sự sợ hãi lớn.
Kiên trì, không lay động,
Tiếp tục con đường,
Không có gì sợ hãi.
Ta không muốn đi vào
Chỗ cám dỗ Dạ-xoa,
Nên ta được an toàn,
Khỏi sự sợ hãi lớn.
Như
vậy, bậc Ðại Sĩ thuyết pháp với bài kệ này, rồi ngài trị vì quốc độ đúng pháp,
và trọn đời làm các công đức như bố thí v.v... cho đến khi mạng chung, ngài đi
theo nghiệp của mình.
*
Sau khi
kể pháp thoại này xong, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:
- Lúc
bấy giờ, Ta là hoàng tử đi đến Takkasilà và đạt được vương quốc.
-ooOoo-
133.
CHUYỆN LỬA CHÁY (Tiền thân Ghatàsana)
Tại chỗ
được an ổn ...,
Câu
chuyện này, khi tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một vị Tỷ-kheo. Tỷ-kheo này lấy
một đề tài thiền quán từ bậc Ðạo Sư, đi đến biên địa an cư mùa mưa tại một trú
xứ trong rừng gần một ngôi làng nhỏ. Trong tháng đầu, khi đi vào làng khất
thực, cái chòi lá bị cháy, bị mệt mỏi vì không có chỗ trú ẩn, Tỷ-kheo nói cho
các vị hộ trì biết, họ đáp:
- Thưa
Tôn giả, hãy yên tâm. Chúng tôi sẽ làm chòi lá lại cho Tôn giả.
Ban đầu
họ đến nói vậy, nhưng ba tháng đã trôi qua, họ vẫn chưa làm. Vì không có trú xứ
thích hợp, Tỷ-kheo ấy không đạt được kết quả đề tài thiền quán. Ngay cả một tia
ánh sáng cũng không khởi lên cho vị ấy.
Khi an
cư mùa mưa xong, vị ấy đi đến Kỳ Viên đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên.
Bậc Ðạo Sư tiếp đón Tỷ-kheo ấy thân mật và hỏi:
- Này
Tỷ-kheo, đề tài thiền quán của ông có thích hợp không?
Tỷ-kheo
ấy trình lên Thế Tôn biết về trú xứ của mình. Bậc Ðạo Sư nói:
- Thuở
xưa, này các Tỷ-kheo, ngay các loài bàng sanh cũng đã biết được trú xứ của
mình, khi thích hợp thì chúng sống, khi không thích hợp thì chúng từ bỏ trú xứ
ấy đi đến chỗ khác trước khi trú xứ an lạc của chúng trở thành nguy hiểm. Và
nếu loại bàng sanh cũng đã biết như vậy, vì sao ông lại không biết trú xứ thích
hợp hay không thích hợp cho mình?
Nói vậy
xong, theo lời yêu cầu, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.
*
Thuở
xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh làm con chim. Khi đến
tuổi trưởng thành, đạt được dung sắc tối thượng, làm vua các loài chim, ở lại
trong rừng, sống với đàn chim tùy tùng, nương tựa một cây lớn. Cây ấy có nhiều
lá sum suê, với các cành lá vươn ra trên một hồ nước, và nhiều con chim sống
trên các cành cây làm cho phân rơi trong nước.
Bấy
giờ có con rắn chúa tên Canada sống trong hồ nước ấy. Nó suy nghĩ: "Những
con chim này làm rơi phân trong hồ nước của ta. Vậy ta hãy làm cho lửa từ trong
nước cháy lên thiêu rụi cây và đuổi chúng đi". Trong cơn nóng giận, con
rắn chúa đợi ban đêm trong khi tất cả đàn chim đang nằm ngủ. đầu tiên nó làm
cho nước hồ sôi; kế đó làm cho khói bốc lên và phun cao hơn cây thốt nốt.
Bồ-tát thấy lửa từ nước phun lên, liền gọi bầy chim:
-
Này các bạn chim, nước thường hay dập tắt lửa. Nay chính nước đốt cháy. Chúng
ta không thể ở đây được. Chúng ta sẽ đi tìm chỗ khác.
Nói
xong, Bồ-tát đọc bài kệ:
Nơi chốn được an ổn,
Tại đấy, rắn nổi lên,
Chính ở giữa lòng nước,
Lửa từ đấy cháy lên,
Nay không nên trú ở
Tại cây mọc trên đất,
Hãy bay tản các phương,
Hồ này rất đáng sợ.
Tại đấy, rắn nổi lên,
Chính ở giữa lòng nước,
Lửa từ đấy cháy lên,
Nay không nên trú ở
Tại cây mọc trên đất,
Hãy bay tản các phương,
Hồ này rất đáng sợ.
Sau
đó, Bồ-tát đem các con chim nghe theo mình bay đi tìm chỗ khác. Còn những con
chim không nghe lời Bồ-tát vẫn ở lại, đều bị thiêu cháy.
*
Sau khi
kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư giảng Bốn sự thật. Cuối bài giảng ấy, vị Tỷ-kheo
chứng đắc quả A-la-hán và Ngài nhận diện tiền thân:
- Lúc
bấy giờ mấy con chim nghe theo lời Bồ-tát là hội chúng của Ðức Phật, còn vua
loài chim là Ta vậy.
-ooOoo-
134.
CHUYỆN THIỀN QUÁN (Tiền thân Thànasodhana)
Những
ai còn có tưởng ...,
Câu
chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về lời giải thích rộng rãi của vị
Tướng quân Chánh pháp Xá-lợi-phất (Sariputta), tại cửa thành Sankassa liên hệ
đến một vấn đề do bậc Ðại Sư thuyết giảng vắn tắt. Câu chuyện quá khứ được kể
như sau:
*
Thuở
xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát mệnh chung ở trong rừng đã
nói:
-
Phi tưởng phi phi tưởng.
Các
vị tu khổ hạnh không tin lời giải thích của vị đệ tử đầu tay về lời dạy của vị
Ðạo Sư. Vì vậy Bồ-tát từ cõi trời Quang âm trở về, và đứng trên hư không đọc
lên bài kệ này:
Những ai còn có tưởng,
Chúng cũng đi ác thú;
Những ai không có tưởng,
Chúng cũng đi ác thú,
Hãy từ bỏ cả hai,
Ðạt được lạc thiền chứng,
Không còn các uế nhiễm.
Chúng cũng đi ác thú;
Những ai không có tưởng,
Chúng cũng đi ác thú,
Hãy từ bỏ cả hai,
Ðạt được lạc thiền chứng,
Không còn các uế nhiễm.
Như
vậy Bồ-tát thuyết pháp, tán thán vị đệ tử của ngài và đi lên cõi Phạm Thiên.
Khi ấy, các vị tu hành khổ hạnh còn lại đã tin vị đệ tử đầu tay.
*
Sau khi
kể pháp thoại, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:
- Lúc
bấy giờ vị đệ tử đầu tiên là Xá-lợi-phất, còn vị đại Phạm Thiên là Ta vậy.
-ooOoo-
135.
CHUYỆN NGUYỆT QUANG (Tiền thân Candàbha)
Nguyệt
quang và nhật quang ...,
Câu
chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về lời giải thích một vấn đề của
trưởng lão Xá-lợi-phất tại cửa thành Sankassa.
*
Thuở
trước, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát vào lúc mệnh chung ở
trong rừng, đã trả lời các câu hỏi của các đệ tử với các chữ: "ánh sáng
của mặt trăng, ánh sáng của mặt trời", nói xong, ngài sanh lên Quang âm
thiên.
Bấy
giờ vị đệ tử đầu tay giải thích lời của bậc Ðạo Sư, các vị khổ hạnh không tin
tưởng vị ấy. Cho nên sau đó, Bồ-tát từ Quang âm thiên xuất hiện xuống, đứng
trên hư không và đọc lên bài kệ:
Nguyệt quang và nhật quang,
Ai tu với trí tuệ
Với thiền không tầm này,
Ðược sanh Quang âm thiên.
Ai tu với trí tuệ
Với thiền không tầm này,
Ðược sanh Quang âm thiên.
Như
vậy, Bồ-tát dạy cho các vị tu khổ hạnh hiểu và tán thán đức hạnh của vị đệ tử
đầu tay, rồi trở lại cõi Phạm Thiên.
*
Sau khi
kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:
- Lúc
bấy giờ, vị đệ tử đầu tay là Xá-lợi-phất, còn đại Phạm Thiên là Ta vậy.
-ooOoo-
136.
CHUYỆN THIÊN NGA VÀNG (Tiền thân Suvannahamsa)
Ðược
gì, hãy biết là đủ ...,
Câu
chuyện này, khi trú ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về Tỷ-kheo-ni Thhullanandà (Nandà
Mập). Một nam cư sĩ ở Xá Vệ muốn cúng dường tỏi cho chúng Tỷ-kheo-ni bảo người
giữ ruộng:
- Khi
nào các Tỷ-kheo-ni đến, hãy cho mỗi Tỷ-kheo-ni hai hay ba nhánh tỏi.
Từ khi
ấy trở đi, các Tỷ-kheo-ni thường đi đến nhà người ấy, hay ra đồng ruộng để lấy
tỏi, Một hôm, vào một ngày lễ, trong nhà người ấy tỏi không còn nữa. Tỷ-kheo-ni
Thullanandà đến nhà người ấy với một số tùy tùng và hỏi:
- Thưa
ông có tỏi không?
- Thưa
ni sư, tôi không có. Tỏi đem về đủ dùng hết rồi. Ni sư hãy đi ra ngoài đồng.
Nghe
nói vậy, Thullanandà đi ra ngoài đồng, không chế ngự được lòng tham, đã mang
tỏi về quá nhiều. Ngưòi giữ ruộng tức giận:
- Vì
sao các Tỷ-kheo-ni không biết vừa đủ, đem tỏi đi quá nhiều vậy?
Nghe
nói vậy, các Tỷ-kheo-ni thiểu dục cũng bực bội phiền muộn; và các Tỷ-kheo ở nhà
nghe các Tỷ-kheo-ni ấy nói cũng bực bội và phiền muộn không kém. Sự phiền muộn
của chư Ni được các Tỷ-kheo trình lên Thế Tôn rõ. Thế Tôn phê bình Tỷ-kheo-ni
Thullanandà và nói:
- Này
các Tỷ-kheo, một người có lòng dục lớn xử sự không thân ái, không làm vừa ý
ngay cả mẹ sanh ra mình, không gây được lòng tin đối với những người chưa tin,
không thể làm tăng trưởng lòng tin của những người đã có lòng tin; không tạo
nên các lợi dưỡng chưa được tạo nên. Và đối với lợi dưỡng đã có rồi, cũng không
thể duy trì được. Còn người ít dục có thể làm khởi lên lòng tin ở người chưa có
lòng tin, có thể làm tăng trưởng lòng tin với những người đã có lòng tin, tạo
nên các lợi dưỡng chưa được tạo nên, và đối với lợi dưỡng đã có rồi vẫn có thể
duy trì được.
Với
phương pháp ấy, bậc Ðạo Sư thuyết giáo thích hợp cho các Tỷ-kheo ấy và nói:
- Này
các Tỷ-kheo không phải chỉ nay Thullanada mới có tham dục lớn, trong quá khứ
Thullanandà cũng đã có lòng dục lớn như vậy rồi.
Nói vậy
xong, bậc Ðạo Sư kể chuyện quá khứ.
*
Thuở
xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình
Bà-la-môn. Khi đến tuổi trưởng thành, họ cưới cho Bồ-tát một người vợ từ một
gia đình ngang hàng. Với người vợ ấy, Bồ-tát có được ba con gái đều tên là
Nandà. Khi Bồ-tát mệnh chung, vợ và các con gái phải đi đến ở với các gia đình
khác.
Bồ-tát
tái sanh làm con ngỗng trời vàng có trí nhớ được các đời trước. Khi con ngỗng
trời vàng đến tuổi trưởng thành, thấy thân thể to lớn của mình, với lông vàng
che thân, với sắc đẹp tuyệt trần, nó hướng tâm tìm hiểu: "Ta từ đâu mạng
chung mà đến đây?"
Biết
được mình từ loài người đến, Bồ-tát hiểu: "Nay nữ Bà-la-môn và các con gái
ta ở đâu?". Ðược biết họ đang làm thuê cho người khác và sống một cách khó
khăn, Bồ-tát suy nghĩ: "Trong các lông bằng vàng trên thân ta hiện nay,
nếu ta cho họ một cái lông bằng vàng của ta, thì với lông vàng ấy, vợ và các
con gái ta sẽ sống hạnh phúc". Vì vậy, Bồ-tát đi đến chỗ họ ở và đậu trên
cây xà ngang chính. Nữ Bà-la-môn và các con gái thấy Bồ-tát, liền hỏi:
-
Thưa ngài, ngài từ đâu đến?
Bồ-tát
trả lời:
-
Ta là cha các con. Ta mệnh chung được sanh làm con ngỗng trời vàng. Ta đến để
thăm các con. Bắt đầu từ nay các con không còn phải làm thuê cho người khác và
sống một cách khổ sở như vậy nữa. Ta sẽ cho các con mỗi lần một cái lông vàng
của ta. Các con bán lông ấy và sống hạnh phúc.
Nói
xong, Bồ-tát cho họ một cái lông vàng và bay đi. Từ đó với cách thức này,
Bồ-tát tiếp tục đi đến và mỗi lần cho họ một cái lông vàng. Và các nữ Bà-la-môn
được sống sung túc và hạnh phúc. Một hôm, nữ Bà-la-môn nói với các con gái:
-
Này các con, tâm của loài súc sanh khó mà tin được. Một ngày nào đó, cha các
con có thể không đến đây, vậy khi nào cha các con đến, chúng ta hãy nhổ tất cả
lông vàng và lấy các lông ấy để dành.
Các
cô gái không chịu, liền nói:
-
Làm như vậy cha chúng con sẽ đau đớn.
Tuy
vậy nữ Bà-la-môn, vì lòng ham muốn quá lớn, một hôm, thấy con ngỗng trời vàng
đến, bà kêu con ngỗng đến gần bà, với hai tay bắt giữ ngỗng và nhổ tất cả lông.
Nhưng các lông của Bồ-tát có đặc điểm là nếu bị nhổ lên bằng sức mạnh ngoài ý
muốn của mình, thì chúng trở thành như lông con cò thường. Bấy giờ Bồ-tát xòe
hai cánh ra, nhưng không có thể bay được. Nữ Bà-la-môn quăng Bồ-tát vào một cái
thùng lớn và cho Bồ-tát ăn ở đấy. Theo thời gian, các lông của Bồ-tát được mọc
lên, nhưng chúng toàn màu trắng. Với cánh được mọc lại, Bồ-tát về chỗ ở của
mình, và không bao giờ trở lại nữa.
*
Sau khi
kể câu chuyện quá khứ này, bậc Ðạo Sư lại nói:
- Này
các Tỷ-kheo, Thullanandà không phải nay mới có ham muốn lớn. Thuở trước nàng
cũng có ham muốn lớn rồi. Lòng ham muốn lớn của nàng lúc ấy làm cho nàng mất
vàng, cũng như lòng ham muốn lớn của nàng hôm nay làm cho nàng mất tỏi. Cũng
như Thullanandà, chính vì nàng, chúng Tỷ-kheo còn lại không được tỏi. Do vậy,
nếu được nhiều, phải biết lượng vừa đủ; nếu được ít, phải bằng lòng với đồ nhận
được. Chớ mong mỏi nhiều hơn.
Rồi bậc
Ðạo Sư đọc bài kệ:
Ðược gì, hãy biết đủ,
Quá tham là ác pháp,
Do bắt chúa ngỗng trời,
Bao nhiêu vàng tiêu hết.
Quá tham là ác pháp,
Do bắt chúa ngỗng trời,
Bao nhiêu vàng tiêu hết.
Nói
xong, bậc Ðạo Sư dùng nhiều phương tiện chỉ trích rồi đặt ra học giới:
"Tỷ-kheo-ni nào ăn tỏi, phải bị tội đọa địa ngục".
Nói
xong pháp thoại, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:
- Lúc
bấy giờ, nữ Bà-la-môn là Thullanandà, ba người con gái ấy là ba chị em của
nàng, và con ngỗng trời vàng là Ta vậy. (Câu chuyện này được nói đến trong Luật
tạng, tập IV).
-ooOoo-
137.
CHUYỆN CON MÈO (Tiền thân Babbu)
Tại
chỗ, cho một mèo...,
Câu
chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một học giới liên hệ đến mẹ của
Kànà. Ở Xá-vệ có một nữ cư sĩ, được biết qua người con gái, tên là Kànàmata (mẹ
của Kànà). Nữ cư sĩ này đã chứng quả Dự lưu, một Thánh đệ tử. Bà gả con gái cho
một người đàn ông đồng giai cấp thọ sanh tại một ngôi làng khác. Vì một vài
công việc, Kànà đi đến nhà mẹ. Chồng của Kànà, sau một vài ngày, sai một người
đưa tin rằng chàng muốn Kànà hãy về. Kànà nghe lời đưa tin, hỏi mẹ:
- Thưa
mẹ, con có nên đi về ngay không?
Bà mẹ
nói:
- Con ở
đây lâu như vậy, sao con có thể về tay không?
Rồi bà
mẹ bắt đầu làm bánh. Lúc bấy giờ, một Tỷ-kheo khất thực đi đến nhà nữ cư sĩ ấy.
Bà mời vị ấy ngồi, và cúng dường bánh đầy bát. Vị ấy ra đi, lại nói với một
người khác đến khất thực, và bà mẹ cũng cúng dường người ấy như vậy. Vị ấy ra
đi lại nói với một người khác nữa, và bà mẹ cúng dường, cho đến bốn người cùng
được cúng dường như vậy. Vì vậy, bánh được làm ra đều hết sạch. Và Kànà gửi
người đưa tin thứ hai, rồi thứ ba. Ðến lần gửi người đưa tin thứ ba, người
chồng nhắn: Nếu nàng không về, ta sẽ lấy vợ khác.
Lần thứ
ba cũng vì lý do ấy, Kànà không đi về được. Chồng Kànà lấy một người vợ khác.
Kànà nghe tin ấy liền đứng khóc.
Bậc Ðạo
Sư biết được nguyên do, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi đến nhà mẹ của Kànà,
ngồi trên chỗ đã soạn sẵn và hỏi mẹ của Kànà:
- Vì
sao, Kànà này lại khóc?
Khi
được nghe nói lý do, bậc Ðạo Sư an ủi mẹ của Kànà, thuyết pháp thoại xong, từ
chỗ đứng dậy và đi về tinh xá. Câu chuyện bốn Tỷ-kheo, ba lần nhận lấy bánh ở
nhà mẹ Kànà vô tình ngăn chận việc Kànà đi về, được chúng Tỷ-kheo biết đến. Một
hôm, các Tỷ-kheo, họp tại Chánh pháp đường, bắt đầu nói chuyện:
- Này
các Hiền giả, bốn Tỷ-kheo trong ba lần ăn bánh do mẹ của Kànà nấu đã làm trở
ngại việc Kànà đi về, do nguyên nhân ấy, người con gái bị chồng ruồng bỏ, khiến
cho đại nữ cư sĩ sầu muộn.
Bậc Ðạo
Sư đến và hỏi:
- Này
các Tỷ-kheo, nay các ông ngồi họp tại đây đang bàn vấn đề gì?
Khi
được nghe vấn đề trên, bậc Ðạo Sư nói:
- Này
các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay bốn Tỷ-kheo mới ăn tài vật của mẹ Kànà, khiến
bà ấy sinh sầu muộn. Thuở trước, họ cũng đã làm như vậy rồi.
Nói vậy
xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.
*
Thuở
xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong gia đình một
người thợ đẽo đá và khi đến tuổi trưởng thành, trở thành tinh xảo trong nghề.
Trong nước Kàsi, tại một thị trấn, có một nhà triệu phú rất giàu. Số tiền cất
giữ lên đến bốn trăm triệu đồng tiền vàng. Vợ vị triệu phú mệnh chung, và vì
quá luyến ái tài sản nên tái sanh làm con chuột sống trên đống tài sản. Như
vậy, dần dần tất cả gia đình đi đến hủy diệt. Người chồng cũng chết. Ngôi làng
trở thành hoang phế và vắng người.
Lúc
ấy Bồ-tát đang đào và đẽo dá tại ngôi làng cũ. Rồi con chuột ấy đi tìm đồ ăn,
thấy Bồ-tát nhiều lần, khởi lên tâm luyến ái, nghĩ như sau: "Tài sản lớn
của ta vô cớ bị hủy diệt. Ta sẽ ăn tiêu tài sản cùng chung với người
nầy!". Nghĩ vậy, một hôm nó ngậm trong miệng một đồng tiền vàng và đi đến
Bồ-tát, Bồ-tát thấy nó, liền nói lên lời thân ái:
-
Này bạn, có gì khiến bạn đến đây với đồng tiền vàng?
-
Này ông chủ, tiền này để ông chủ tiêu dùng cho mình và đem thịt cho ta.
Bồ-tát
chấp nhận nói:
-
Tốt lắm!
Rối
lấy đồng tiền vàng đi về nhà, dùng một nửa mua thịt và đem đến cho con chuột.
Con chuột lấy thịt đem về hang của mình và ăn thật thỏa thích. Từ đấy trở đi,
với cách thức này, hằng ngày nó đem đến cho Bồ-tát một đồng tiền vàng, và
Bồ-tát lại cung cấp thịt cho nó. Một hôm con chuột bị một con mèo bắt được. Nó
nói:
-
Này bạn, chớ giết ta.
-
Vì sao? Ta nay đang đói muốn ăn thịt. Ta không thể không giết mầy được.
-
Trước hết hãy nói cho ta biết ngày nào bạn cũng đói hay chỉ đói hôm nay thôi.
-
Ồ ngày nào ta cũng đói cả.
-
Vậy nếu bạn muốn ăn thịt hằng ngày, xin hãy thả ta ra.
Con
mèo nói:
-
Mầy nhớ đấy.
Và
nó thả con chuột ra. Từ đấy trở đi, con chuột chia thành hai phần thịt, một
phần cho nó, một phần cho con mèo. Một ngày kia, nó bị một con mèo khác bắt, nó
cũng hứa tương tự và được thả ra. Từ đấy trở đi chúng chia thịt thành bốn phần,
và chúng ăn. Rồi một con mèo khác bắt nó, nó cũng hứa tương tự và được thả ra. Giữ
lời hứa, chúng chia thịt thành năm phần và ăn. Con chuột, vì ăn ít, bị mệt mỏi
và trở thành ốm yếu, gầy còm. Bồ-tát thấy con chuột như vậy, bèn hỏi: - Này
bạn, sao bạn ốm yếu thế?
Khi
được biết lý do, Bồ-tát nói:
-
Lâu nay sao bạn không nói với tôi? Ở đây, tôi sẽ biết việc gì nên làm.
Bồ-tát
an ủi con chuột, rồi làm một cái hang bằng đá pha lê trong suốt, đem đến và nói
với con chuột:
-
Này bạn, hãy vào trong hang này mà nằm. Với những ai đến đấy, hãy dọa nạt chúng
với những lời thật là ác độc.
Con
chuột vào trong hang nằm. Rồi một con mèo đến và nói:
-
Hãy đem thịt cho ta.
Con
chuột nói với nó:
-
Ôi con mèo độc ác kia, sao ta lại đem thịt cho mầy? Hãy về ăn thịt các con mèo
con của mầy đi!
Con
mèo không biết con chuột nằm trong hang bằng pha lê, quá tức giận, liền dùng
sức mạnh nhảy đến để bắt con chuột, quả tim nó đập mạnh vào cái hang bằng pha
lê, bị vỡ khiến hai con mắt lồi ra. Như vậy, con mèo chết và rơi xuống tại một
chỗ kín. Cũng với cách thức ấy, bốn con mèo đều chết.
Từ
đấy trở đi, con chuột không còn sợ hãi nữa và hằng ngày đem cho Bồ-tát hai ba
đồng tiền vàng. Như vậy dần dần nó cho Bồ-tát tất cả tài sản. Cả hai sống với
nhau cho đến trọn đời với tình thân ái không chia rẽ, rồi khi mạng chung đi
theo nghiệp của mình.
Khi
bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ này xong, với danh nghĩa bậc Chánh Ðẳng Giác,
Ngài nói lên bài kệ:
Tại chỗ cho một mèo,
Mèo thứ hai hiện ra,
Rồi mèo thứ ba, bốn,
Tất cả con mèo chết,
Vì chạm hang gương này.
Mèo thứ hai hiện ra,
Rồi mèo thứ ba, bốn,
Tất cả con mèo chết,
Vì chạm hang gương này.
*
Sau khi
bậc Ðạo Sư kể pháp thoại này, Ngài nhận diện Tiền thân:
- Lúc bấy
giờ, bốn con mèo là bốn Tỷ-kheo ấy, con chuột là mẹ của Kànà, và người thợ đẽo
đá là Ta vậy.
-ooOoo-
138.
CHUYỆN CON CẮC KÈ (Tiền thân Godha)
Kẻ ngu
có ích gì...,
Câu
chuyện này, khi ở tại Kỳ viên, bậc Ðạo Sư kể về một người lừa đảo. Các chi tiết
câu chuyện cũng giống như Tiền thân Bilàra số 128.
*
Thuở
xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra làm con cắc kè. Lúc
bấy giờ một vị tu khổ hạnh chứng được năm Thắng trí, sống trong một chòi lá tại
một khu rừng, gần một ngôi làng ở biên địa. Những người làng hầu hạ vị tu khổ
hạnh rất kính trọng vị ấy. Bồ-tát sống trong một gò mối tại cuối con đường đi
kinh hành của vị tu hành. Sống tại đây, Bồ-tát hằng ngày hai ba lần đi đến vị
tu khổ hạnh, nghe những lời liên hệ đến pháp, liên hệ đến nghĩa, và đảnh lễ vị
tu khổ hạnh rồi đi về trú xứ của mình.
Sau
một thời gian, vị tu khổ hạnh ấy báo tin cho những người trong làng biết mình
sẽ ra đi. Khi vị tu khổ hạnh có giới đức này ra đi, một vị tu khổ hạnh giả dối
đến ở tại am thất ấy. Bồ-tát suy nghĩ: "Ðây là vị có giới hạnh" và
cũng đi đến vị ấy với cách thức như trước. Một hôm, trong mùa nắng hạn, một cơn
dông trái mùa khởi lên, những con kiến mối từ những gò mối bò ra; và các con
cắc kè cũng bò ra để ăn chúng. Những người trong làng đi ra bắt nhiều con cắc
kè, nấu chúng, xào trộn chua ngọt rồi cúng dường cho vị tu khổ hạnh. Vị tu khổ
hạnh ăn thịt cắc kè, tham đắm vị ngon, liền hỏi:
-
Món thịt thật là ngon ngọt, đó là thịt gì vậy?
Khi
được trả lời là thịt cắc kè, vị ấy suy nghĩ: "Có con cắc kè lớn thường đến
với ta. Ta sẽ giết nó để ăn thịt". Nghĩ vậy vị ấy đem lại son chảo để nấu,
bơ chín, muối... các món gia vị, để chúng một bên, cầm một cái vồ lấy áo che
lại, rồi ngồi tại cửa chòi lá để chờ Bồ-tát đến với một dáng điệu hết sức an
tịnh.
Bồ-tát
đi ra, suy nghĩ: "Vào buổi chiều, ta sẽ đi đến vị tu khổ hạnh". Khi
đang đi đến, Bồ-tát thấy sắc diện của người tu khổ hạnh này đổi khác, liền suy
nghĩ: "Người tu khổ hạnh này ngồi với dáng điệu khác với ngày trước. Hôm
nay, vị ấy đang nhìn ta với cặp mắt như muốn nuốt sống ta và suy nghĩ: ta sẽ
bắt nó".
Con
cắc kè là hiện thân của Bồ-tát, vì đứng trong gió dưới vị tu khổ hạnh, ngửi
được mùi thịt cắc kè, suy nghĩ: "Người tu khổ hạnh dối trá này hôm qua đã
được ăn thịt cắc kè, bị trói buộc bởi lòng tham vị, hôm nay nó chờ ta đến gần
để lấy vồ đánh ta, nấu và ăn ta". Nghĩ vậy, Bồ-tát không đi đến gần nó
nữa, và trở lui chỗ khác.
Người
tu khổ hạnh biết rằng Bồ-tát không tới nữa, liền nghĩ: "Chắc con cắc kè
này biết ta muốn giết nó nên nó không đến, nhưng dầu nó không đến, làm sao nó
thoát được?". Nghĩ vậy, vị ấy rút vồ và ném vào con cắc kè nhưng chỉ trúng
cái chóp đuôi của con cắc kè, Bồ-tát chạy mau vào gò mối, thò đầu ra từ một lỗ
khác, và nói:
-
Này kẻ bện tóc giả dối kia, ta đi đến gần ngươi vì ta nghĩ ngươi là kẻ có giới
hạnh. Nay ta đã biết ngươi là kẻ giả dối. Một kẻ đại ăn cướp như ngươi thì xuất
gia để làm gì?
Sau
khi chỉ trích người tu khổ hạnh ấy, Bồ-tát đọc bài kệ trong Pháp cú (394):
Kẻ ngu có ích gì,
Bện tóc với da dê,
Nội tâm đầy phiền não,
Ngoài mặt đánh bóng suông?
Bện tóc với da dê,
Nội tâm đầy phiền não,
Ngoài mặt đánh bóng suông?
Như
vậy, sau khi lên án kẻ tu khổ hạnh giả dối, Bồ-tát liền đi vào gò mối. Còn
người tu khổ hạnh ác độc bỏ đi chỗ khác.
*
Sau khi
kể lại pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:
- Lúc
bấy giờ, người tu khổ hạnh giả dối là kẻ lừa đảo này, người tu khổ hạnh có giới
đức trước là Xá-lợi-phất và con cắc kè là Ta vậy.
-ooOoo-
139.
CHUYỆN CẢ HAI MẶT THẤT BẠI (Tiền thân Ubhatobhattha)
Mắt hư,
áo bị mất...
Câu
chuyện này khi ở Trúc Lâm, bậc Ðạo Sư kể về Ðề-bà-đạt-đa. Lúc bấy giờ, người ta
nghe nói các Tỷ-kheo tại Chánh Pháp đường bắt đầu nói chuyện:
- Thưa
các Hiền giả, như một que củi từ nghĩa địa, bị cháy hai đầu, ở giữa bị dính
phân, không thể dùng làm củi rừng, cũng không thể dùng làm củi làng, cũng vậy,
Ðề-bà-đạt-đa được xuất gia trong Giáo pháp dẫn đến giải thoát nhưng cả hai mặt
đều thất bại, cả hai mặt bị vứt bỏ, đó là tài sản tại gia bị đoạn tận, và
Sa-môn hạnh không viên mãn.
Trong
lúc ấy bậc Ðạo Sư đi đến và hỏi:
- Này
các Tỷ-kheo, các ông nay đang ngồi họp và thảo luận vấn đề gì?
Khi được
nghe vấn đề trên, bậc Ðạo Sư nói:
- Này
các Tỷ-kheo, Ðề-bà-đạt-đa không phải chỉ nay mới gặp thất bại cả hai mặt, thuở
xưa, cũng đã thất bại như vậy rồi.
Nói vậy
xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.
*
Thuở
xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra làm một thần cây.
Lúc bấy giờ, tại một ngôi làng những người câu cá đang sống, có một người câu
cá mang theo lưỡi câu, cùng với đứa con trai đến một đầm nước mà các người chài
lưới thường bắt cá. Anh ta đi chỗ này chỗ kia quăng lưỡi câu. Lưỡi câu mắc vào
một khúc cây đang ẩn kín trong nước. Người đánh cá không thể kéo lưỡi câu lên.
Anh ta suy nghĩ: "Lưỡi câu này chắc mắc vào con cá lớn. Ta hãy bảo đứa con
trai đi về nhà, báo cho mẹ nó biết". Nghĩ vậy anh ta nói với đứa con:
-
Con thân, hãy đi tin cho mẹ biết chúng ta câu được con cá lớn, và nói với mẹ
hãy tìm cách gây sự với hàng xóm để giữ họ ở nhà, vì thế sẽ không ai đến đòi
chia phần cá của ta cả.
Ðứa
con ra đi, còn anh ta ở lại, kéo lưỡi câu nhưng vì sợ đứt dây, bèn để áo ngoài
trên bờ, đi xuống nước. Vì say mê tìm bắt con cá nên anh ta va chạm vào khúc
cây, bị hư hai con mắt. Một tên ăn trộm lấy cắp cái áo anh ta để trên bờ. Trong
cơn đau đớn, anh ta lấy tay bịt hai con mắt mù từ nước đi lên, run rẩy đi tìm
cái áo.
Trong
lúc ấy, vợ anh ta huênh hoang với ý định: "Ta sẽ làm cho không một ai đến
đòi chia phần". Nghĩ vậy, chị đeo một lá thốt nốt trên một tai, lấy lọ nồi
bôi một con mắt, ôm trong nách một con chó, và đi đến gọi người hàng xóm. Một
người bạn nói với chị:
-
Chao ôi! Ðeo lá thốt nốt vào tai của bạn, bôi một con mắt, ôm một con chó như
đứa con thân yêu, bạn đi từ nhà mình đến nhà người ta, bạn điên rồi sao?
-
Ta không điên. Ngươi không có lý do gì lại mắng ta, nhiếc ta? Nay hãy đi đến
thôn trưởng, ta sẽ làm cho ngươi bị phạt tám đồng tiền vì tội mắng nhiếc ta.
Sau
khi cãi vã như vậy, cả hai cùng đi đến gặp người thôn trưởng. Nhưng sau khi
cuộc cãi vã được giải quyết thì chính vợ người đánh cá bị phạt. Người ta trói
và đánh chị để đòi chị trả tiền phạt. Khi vị thần cây thấy sự việc xảy ra cho
vợ người đánh cá ở làng, và sự bất hạnh xảy ra cho người đánh cá ở trong rừng,
vừa đứng ở trên nhánh chĩa ba của thân cây, vị thần cây vừa nói:
-
Này bạn câu cá ơi, việc ác bạn làm dưới nước và trên cạn, cả hai đều thất bại.
Nói
vậy xong, vị thần đọc bài kệ:
Mắt mù, áo bị mất,
Cãi vã, vợ bị đánh,
Hai việc đều hư hỏng,
Dưới nước và trên cạn.
Cãi vã, vợ bị đánh,
Hai việc đều hư hỏng,
Dưới nước và trên cạn.
*
Sau khi
kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:
- Thuở
ấy, người câu cá là Ðề-bà-đạt-đa, còn vị thần là Ta vậy.
-ooOoo-
140.
CHUYỆN CON QUẠ (Tiền thân Kàka).
Tâm
thường bị chấn động...,
Câu
chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một vị Sư Trưởng có danh. Các
chi tiết của chuyện sẽ được kể trong Chương mười một, ở Tiền thân Bhaddasàla
(số 465).
*
Thuở
xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh làm con quạ. Một hôm,
vị cố vấn tế tự của vua đi tắm trong một con sông ở ngoại thành, sau đó thoa
nước thơm, đeo vòng hoa, mặc áo đẹp rồi đi vào thành. Có hai con quạ đang đậu
trên lầu cạnh cửa thành, một con nói với con kia:
-
Này bạn, tôi sẽ đi đại tiện trên đầu người Bà-la-môn này.
Con
kia can:
-
Chớ làm như vậy, vị Bà-la-môn này có quyền thế, chúng ta không nên gây hận thù
với người có quyền thế. Người này phẫn nộ có thể sát hại tất cả loài quạ.
Nhưng
nó cương quyết:
-
Tôi không thể không làm được.
-
Nếu không nghe tôi, rồi bạn sẽ được nếm mùi.
Nói
vậy xong con quạ kia bay đi. Khi người Bà-la-môn đi đến dưới lầu canh, con quạ
làm rơi phân trên đầu ông như làm rơi một tràng hoa. Vị Bà-la-môn phẫn nộ và
nuôi lòng hận thù với loài quạ.
Lúc
bấy giờ, một nữ tỳ được thuê để đập và phơi lúa giữa nắng. Tại cửa này nó ngồi
để giữ lúa rồi ngủ gật. Biết nó không để ý, một con dê lông dài đi đến ăn lúa.
Người nữ tỳ thức dậy, thấy con dê bèn đuổi đi. Lần thứ hai, lần thứ ba, khi
người nữ tỳ đang ngủ như vậy, con dê lại đến ăn lúa. Người nữ tỳ, sau ba lần
đuổi con dê, suy nghĩ: "Con vật này tiếp tục ăn, ăn hết nửa phần lúa, sẽ
thiệt hại nhiều cho ta, nay ta sẽ chận con dê đến ăn lúa". Nó đứng dậy lấy
que lửa đánh con dê. Lông con dê bắt lửa. Con vật với thân bị cháy, chạy thật
mau đến một kho chứa cỏ gần một chuồng voi để dập tắt lửa, và chà thân vào kho
chứa cỏ làm cho kho cỏ cháy lên, và từ đó, bắt cháy qua chuồng voi. Khi chuồng
voi bị cháy, lưng voi bị cháy, và nhiều con voi bị vết thương ở thân. Các thầy
thuốc voi không thể nào chữa các con voi lành bệnh, báo cho vua biết. Vua hỏi
vị cố vấn tế tự:
-
Này Sư trưởng, các thầy thuốc không thể chữa trị các con voi lành bệnh. Khanh
có biết thứ thuốc nào không?
-
Thưa Ðại Vương, thần biết.
-
Cần lấy thuốc gì?
-
Thưa Ðại Vương, cần lấy mỡ quạ.
Vua
nói:
-
Vậy hãy giết quạ và đem mỡ quạ lại.
Từ
đấy trở đi họ giết các con quạ nhưng không tìm được mỡ. Tại chỗ này chỗ khác,
họ chất thây quạ thành đống. Một nỗi sợ hãi lớn khởi lên trong loài quạ. Lúc
bấy giờ Bồ-tát sống với tám mươi ngàn con quạ vây quanh tại một khu rừng lớn
dùng làm bãi tha ma. Một con quạ đến, báo cho Bồ-tát biết về sự sợ hãi khởi lên
cho loài quạ. Bồ-tát suy nghĩ: "Ngoài ta ra, không có một ai có thể giải
tỏa sự sợ hãi khởi lên cho bà con ta. Ta sẽ giải tỏa sự sợ hãi khủng khiếp
ấy". Rồi Bồ-tát hướng niệm mười Ba-la-mật, đề cao lòng từ Bà-la-mật, bay
một mạch đến cung vua, vào cửa sổ mở lớn, và đến núp dưới chiếc ngai của vua.
Lúc bấy giờ một người muốn bắt con quạ, nhưng vua vừa đi vào cung ngăn anh ta
lại. Bậc Ðại Sĩ nghỉ mệt một lát, rồi niệm lòng từ Ba-la-mật, và từ dưới chiếc
ngai đi ra, thưa với vua:
-
Tâu Ðại Vương, một vị vua trị vì quốc độ không nên đi theo các dục v.v... Khi
cần làm việc gì, phải quan sát, và rõ biết toàn bộ vấn đề, rồi mới làm. Nếu vị
vua làm một việc không có kết quả thì không nên làm, vì công việc ấy đưa đến sợ
hãi hoặc chết chóc cho mọi loài. Vị cố vấn tế tự bị hận thù xúi giục đã nói
láo: Vì các con quạ không có mỡ.
Khi
nghe nói vậy, vua rất bằng lòng với Bồ-tát, cho Bồ-tát ngồi trên ghế bằng vàng,
tại đấy Bồ-tát được xoa đôi cánh với những loại dầu được nấu trăm lần ngàn lần,
rồi cho Bồ-tát ăn các món thịt ngon dành cho vua, được đựng trong các bát đĩa
bằng vàng. Sau khi cho Bồ-tát uống nước để được an lạc, vua nói với bậc Ðại Sĩ:
-
Thưa bậc Hiền trí, ngài nói các loài quạ không có mỡ? Vì lý do gì chúng không
có mỡ?
Bồ-tát
nói:
-
Vì lý do sau đây:
Với
tiếng nói lớn vang dậy cả cung điện, Bồ-tát thuyết pháp qua bài kệ này:
Tâm thường bị chấn động,
Bị thế giới làm hại,
Do vậy không có mỡ,
Bà con quạ chúng tôi.
Bị thế giới làm hại,
Do vậy không có mỡ,
Bà con quạ chúng tôi.
Như
vậy, sau khi nói lên lý do này, bậc Ðại Sĩ dạy vua như sau:
-
Thưa Ðại Vương, các vị vua chớ làm những việc gì mà không quan sát, không biết
rõ toàn bộ vấn đề.
Nhà
vua với tâm tư thỏa mãn, cúng dường Bồ-tát cả vương quốc. Nhưng Bồ-tát không
nhận vương quốc của vua, dạy vua giữ Năm giới, và xin vua chớ làm cho mọi loài
chúng sanh sợ hãi.
Vua
xúc động trước những lời này nên ban lệnh tha chết cho mọi loài, và đặc biệt
vua thường xuyên bố thí cho các loài quạ. Mỗi ngày vua bảo nấu sáu đấu gạo rồi
nêm gia vị thơm ngon và bố thí cho bầy quạ. Riêng bậc Ðại Sĩ được ban các thứ
đồ ăn chỉ mình vua dùng.
*
Sau khi
kể pháp thoại này xong bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:
- Lúc
bấy giờ, vua Ba-la-nại là Ànandà, và vua loài quạ là Ta vậy.
-ooOoo-
0 Komentar