PHẨM PAROSATA
101.
CHUYỆN HƠN MỘT TRĂM KẺ NGU (Tiền thân Parosata)
Trăm kẻ
ngu tụ hội...,
Trăm kẻ
ngu tụ hội.
Thiền tư một trăm năm,
Không bằng một người trí
Hiểu nghĩa lời Phật dạy.
Thiền tư một trăm năm,
Không bằng một người trí
Hiểu nghĩa lời Phật dạy.
Tiền
thân này, về câu chuyện, về giải thích và nhận diện Tiền thân đều giống như
Tiền thân Parasahassa (số 99), chỉ riêng ở đây đề cập đến Thapeyya (Thiền tư).
-ooOoo-
102.
CHUYỆN NGƯỜI BÁN RAU (Tiền thân Pannika)
Người
đáng che chở ta...,
Câu
chuyện này, khi trú tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một cư sĩ bán rau trái.
Nghe nói, có một cư sĩ trú ở Xá-vệ, buôn các loại cú và lá, các loại bí, bầu
v.v...để nuôi sống; cư sĩ ấy có một người con gái xinh đẹp, tín thành, đầy đủ
chánh hạnh giới đức, biết tàm, biết quý, nhưng luôn luôn có nụ cười trên mặt.
Khi các
gia đình môn đăng hộ đối đến xin hỏi cưới nàng, người cư sĩ suy nghĩ: "Con
gái của ta cần phải gả chồng. Nhưng nó có tật hay cười. Khi một đứa con gái
đứng đắn đưa đến một gia đình khác có tật hay cười là một cái nhục cho bố mẹ.
Ta phải tìm hiểu nó có phải là người con gái tốt nết hay không."
Một
hôm, cư sĩ báo người con gái đem giỏ theo, đi vào rừng để hái lá trong rừng.
Rồi để thử nàng, cư sĩ cầm tay nàng, nói những lời kín đáo tỏ tình như muốn
phạm lỗi, nàng liền bật khóc và than:
- Thưa
cha thân, làm vậy không tốt, giống như lửa hiện ra từ nước. Chớ làm vậy.
- Này
con thân, chỉ vì cha muốn thử con, nên cha mới cầm tay con. Con hãy nói lên.
Nay con vẫn là đứa con gái có đức hạnh.
- Từ
trước đến nay con chưa nhìn người đàn ông nào với lòng tham ái!
Người
cha an ủi con gái, dắt về nhà, tổ chức tiệc cưới và đưa con gái về nhà chồng.
Rồi người cư sĩ ấy quyết định đi đảnh lễ bậc Ðạo Sư, đem theo hương, vòng hoa
v.v..., Ông đến Kỳ Viên, đảnh lễ bậc Ðạo Sư, cúng dường rồi ngồi xuống một bên.
Khi được hỏi vì sao lâu nay không thấy đến, người cư sĩ ấy thuật câu chuyện cho
Thế Tôn rõ. Bậc Ðạo Sư nói:
- Này
cư sĩ, thiếu nữ này từ lâu đã sống có chánh hạnh, có giới đức. Không phải chỉ
nay, ông mới thử nó. Chính trong quá khứ, ông cũng đã thử rồi.
Nói vậy
xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.
*
Thuở
xưa, khi vua Brahamadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh làm một thần cây ở
trong rừng. Một người cư sĩ bán rau trái ở Ba-la-nại (câu chuyện giống như câu
chuyện hiện tại), khi người cư sĩ cầm tay con gái để thử lòng, cô con gái bật
khóc và nói lên bài kệ này:
Người đáng che chở ta
Trong khi ta đau khổ,
Người ấy là cha ta,
Lại làm quấy với ta.
Chính tại giữa ngôi rừng,
Ta khóc việc làm ấy.
Người đáng che chở ta,
Lại là kẻ thù ta.
Trong khi ta đau khổ,
Người ấy là cha ta,
Lại làm quấy với ta.
Chính tại giữa ngôi rừng,
Ta khóc việc làm ấy.
Người đáng che chở ta,
Lại là kẻ thù ta.
Khi
ấy người cha an ủi con gái, hỏi nàng có biết giữ gìn bản thân không, người con
gái trả lời nàng biết giữ gìn bản thân mình. Người cha đem nàng về nhà, tổ chức
tiệc đám cưới và đưa về nhà chồng.
*
Sau khi
kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư giảng về các Sự thật, và cuối bài giảng ấy, người
bán rau được an trú vào quả Dư lựu. Rồi bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:
- Người
cha và con gái lúc bấy giờ là người cha và con gái hiện tại, thần cây chứng
kiến sự việc ấy là Ta vậy.
-ooOoo-
103.
CHUYỆN KẺ THÙ (Tiền thân Veri)
Tại chỗ
kẻ thù ở...,
Câu
chuyện này khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về ông Cấp Cô Ðộc. Nghe nói Cấp
Cô Ðộc, khi đến làng mà ông đang làm thôn trưởng, để giải quyết xong việc, trên
đường trở về, ông thấy bọn ăn trộm, liền nghĩ: "Thật không nên chậm trễ
giữa đường. Ta phải đi gấp về Xá-vệ". Ông thúc bò đi thật mau, đến được
Xá-vệ trong ngày hôm sau, đi đến Kỳ-Viên, ông kể lại sự việc cho bậc Ðạo Sư rõ.
Bậc Ðạo Sư nói:
- Này
gia chủ, thuở trước các vị hiền trí giữa đường thấy bọn ăn trộm, đã vội đi ngay
về nhà không chậm trễ.
Nói vậy
xong, theo lời yêu cầu, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.
*
Thuở
xưa, khi vua Brahamadtta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát là vị triệu phú có tài sản
lớn. Bồ-tát là vị triệu phú có tài sản lớn. Bồ- tát được một dân làng mời đi
ăn. Ăn xong, trên đường trở về, Bồ-tát thấy những tên ăn trộm, Bồ-tát không ở
lại giữa đường, thúc bò đi gấp về đến nhà của mình. Sau khi ăn nhiều món ngon
lành khác nhau, ngồi trên giường lớn, Bố-tát nói:
-
Ta thoát khỏi tay bọn ăn trộm, nay được về nhà của mình không có sợ hãi.
Rồi
Bồ-tát cảm hứng đọc bài kệ này:
Tại chỗ kẻ thù ở,
Người trí không ở đấy.
Một đêm hay hai đêm,
Gặp khổ giữa kẻ thù.
Người trí không ở đấy.
Một đêm hay hai đêm,
Gặp khổ giữa kẻ thù.
Như
vậy, Bồ-tát thốt lên lời cảm hứng, và trọn đời làm các công đức bố thí v.v...
rồi lúc mạng chung, ngài đi theo nghiệp của mình.
*
Sau khi
kể lại pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:
- Thời
ấy, Ta là người triệu phú ở Ba-la-nại.
-ooOoo-
104.
CHUYỆN CHÀNG TRAI MITTAVIDA ( Tiền thân Mittavinda)
Từ bốn
đi đến tám...,
Câu
chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một Tỷ-kheo khó bảo. Câu
chuyện đã được nói đến với các chi tiết trong Tiền thân Mittavinda (số 41).
Chuyện Tiền thân này xảy ra trong thời đức Phật Ca-diếp.
*
Lúc
bấy giờ, một người trong địa ngục bị quăng bánh xe trên ngực, đang bị đốt, nấu
trong địa ngục, hỏi Bồ-tát:
-
Thưa Tôn giả, tôi đã làm điều ác gì?
Bồ-tát
nói:
-
Ngươi đã làm tội này, tội này!
Rồi
Bố-tát đọc bài kệ:
Từ bốn đi đến tám,
Từ tám đi mười sáu,
Mười sáu đến băm hai,
Kẻ tham đến bánh xe,
Bánh xe lăn trên đầu,
Ðến khi dục đoạn tận.
Từ tám đi mười sáu,
Mười sáu đến băm hai,
Kẻ tham đến bánh xe,
Bánh xe lăn trên đầu,
Ðến khi dục đoạn tận.
Nói
vậy xong, Bồ-tát đi về thế giới chư Thiên của mình. Còn chúng sanh trong địa
ngục, sau khi ác hạnh đoạn tận, đi theo nghiệp của mình.
*
Sau khi
kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân như sau:
- Thời
ấy, Mittavindaka là Tỷ-kheo khó bảo, còn Bồ-tát là Ta vậy.
-ooOoo-
105.
CHUYỆN CON VOI SỢ CHẾT (Tiền thân Dubbalakattha)
Rừng
này có nhiều cành...,
Câu
chuyện này, khi trú ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một Tỷ-kheo sống trong tình
trạng hoảng sợ. Tương truyền, một thiện nam tử ở Xá-vệ, sau khi nghe pháp, xuất
gia, nhưng lại luôn luôn sợ chết; ban đêm cũng như ban ngày. Bất cứ chỗ nào,
nghe tiếng gió thổi, cành cây khô rơi, chim kêu hay tiếng vật bốn chân, vị ấy
liền la hét bỏ chạy. Vị ấy không biết có thành tức có hoại; nếu vị ấy biết: Các
hành là vô thường, ta sẽ chết, thì vị ấy sẽ không sợ chết.
Vì không
tu tập niệm chết, nên mới sợ chết. Tánh sợ chết của vị ấy được chúng Tỷ-kheo
biết đến. Một hôm các Tỷ-kheo ở tại Chánh pháp đường khởi lên câu chuyện:
- Này
chư Hiền, Tỷ-kheo tên này, bị sự chết làm hoảng hốt nên sợ chết.Vậy mỗi Tỷ-kheo
cần phải tu tập pháp môn niệm chết rằng: Ta thế nào cũng phải chết.
Bậc Ðạo
Sư đi đến và hỏi:
- Này
các Tỷ-kheo, các ông ngồi họp tại đây đang bàn luận vấn đề gì?
Khi
được nghe vấn đề trên, bậc Ðạo Sư cho gọi Tỷ-kheo ấy đến, hỏi có thật vị ấy sợ
chết chăng, khi được Tỷ-kheo ấy trả lời có thật, bậc Ðạo Sư nói với các
Tỷ-kheo.
- Này
các Tỷ-kheo, chớ có tư tưởng không hoan hỷ đối với Tỷ-kheo này. Không phải chỉ
nay, vị ấy mới sợ chết. Trong quá khứ, vị ấy cũng đã sợ chết rồi.
Nói vậy
xong, bậc Ðạo Sư kể chuyện quá khứ.
*
Thuở
xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở thành Ba-la-nại, Bồ tát sanh làm thần cây ở
Tuyết Sơn. Lúc bấy giờ, vua Ba-la-nại đem con voi báu của mình giao cho các
người nài voi để huấn luyện nó đừng dao động. Họ cột chặt con voi bất động và
bắt đầu huấn luyện voi tập tánh bất động. Khi con voi, bị bắt tập như vậy,
không thể chịu nổi đau khổ, liền bẻ gãy cây cột, đuổi các người tập và đi vào
Tuyết Sơn. Người ta không thể bắt nó được, bèn đi trở về.
Tại
đấy, con voi bắt đầu sợ chết, nghe tiếng gió động, nó hoảng hốt sợ chết, đập
vòi qua lại và chạy thật nhanh, như khi nó bị cột vào cây cột tập đừng dao
động. Không hưởng được thân thoải mái hay tâm thoải mái, nó đi lang thang trong
nỗi dao động. Thần cây thấy nó, đứng trên chỗ nhánh chĩa hai của thân cây, nói
lên bài kệ này:
Rừng này có nhiều cành,
Gió bẻ gãy cành mục,
Này voi, nếu ngươi sợ,
Ngươi sẽ ốm yếu thôi.
Gió bẻ gãy cành mục,
Này voi, nếu ngươi sợ,
Ngươi sẽ ốm yếu thôi.
Như
vậy, thần cây khuyên dạy con voi ấy. Từ đó trở đi, con voi không sợ hãi nữa.
*
Sau khi
kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư thuyết về các Sự thật. Cuối bài giảng, Tỷ-kheo ấy
chứng quả Dự lưu. Bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân như sau:
- Lúc
bấy giờ, con voi là Tỷ-kheo ấy, còn thần cây là Ta vậy.
-ooOoo-
106.
CHUYỆN MÚC NƯỚC (Tiền thân Udancani)
Hạnh
phúc, đời sống tôi...,
Câu
chuyện này, khi trú ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về sự cám dỗ của một thiếu nữ
béo mập. Câu chuyện này sẽ được kể trong Tiền thân Culla-Nàrada-Kassapa, trong
Chương thứ mười ba (số 477). bậc Ðạo Sư nói với Tỷ-kheo ấy:
- Có
thật chăng, này Tỷ-kheo, ông bị luyến ái?
Khi
được trả lời là thật có như vậy, bậc Ðạo Sư hỏi:
- Ông
luyến ái ai?
Tỷ-kheo
ấy trả lời:
- Tôi
luyến ái một thiếu nữ béo mập.
Bậc Ðạo
Sư nói:
- Này
Tỷ-kheo, người thiếu nữ này đã làm chuyện không tốt lành cho ông. Thuở xưa,
cũng vì thiếu nữ này, ông đã gặp nạn, đi lang thang dao động, may nhờ có bậc
hiền trí, ông mới lấy lại an lạc.
Nói vậy
xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.
*
Thuở
xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, chuyện này đã xảy ra (câu chuyện
này sẽ được kể trong Tiền thân Culla-Nàrada-Kassapa). Lúc bấy giờ, Bồ-tát vào
buổi chiều, mang trái cây đi đến am thất bằng lá, mở cửa và nói với con trai là
Cullatàpasa (vị Tiểu khổ hạnh):
-
Này con thân, trong những ngày trước, con đã đem củi, nước uống, thức ăn, và
đốt lửa. Nhưng hôm nay, con không làm một việc gì cả, mà nằm với vẻ mặt buồn bã
bơ phờ như vậy?
-
Thưa cha thân, khi cha đi hái các loại trái v.v...một nữ nhân đến cám dỗ con,
và muốn đem con đi. Nhưng con không đi vì chưa được phép cha. Con bảo nàng ngồi
tại chỗ ấy chờ đợi con đến. Nay thưa cha thân, con muốn ra đi.
Bồ-tát
biết rằng con mình quá say mê luyến ái không thể từ bỏ nữ nhân ấy, nên nói:
-
Này con thân, con cứ đi đi! Nhưng, khi nào cô ấy muốn ăn cá thịt v.v...và cần
dùng các món bơ chín, muối, gạo v.v...và sai con đi tìm để mang về cái này cái
khác, làm con mệt mỏi, hãy nhớ am thất của cha và chạy trốn về đây!
Rồi
Bồ-tát cho đứa con đi. Ðứa con ấy cùng với nữ nhân đi về chỗ ở của dân chúng.
Nữ nhân ấy về nhà mình, khi cần dùng vật gì liền sai người tình đi lấy:
-
Hãy mang thịt về, hãy mang cá về.
Khi
ấy, đứa con trai suy nghĩ: "Nữ nhân này hành hạ ta, chẳng khác đầy tớ hay
người nô lệ của mình".
Hạnh phúc, đời sống tôi
Bị nữ tặc cướp mất,
Nhân danh là vợ tôi,
Tôi phải nấu phải nướng,
Phải múc nước, gánh nước,
Phải xin muối, xin dầu!
Bị nữ tặc cướp mất,
Nhân danh là vợ tôi,
Tôi phải nấu phải nướng,
Phải múc nước, gánh nước,
Phải xin muối, xin dầu!
Rồi
Bồ-tát an ủi con trai, dạy cậu tu tập lòng từ, lòng bi, hạnh hỷ và hạnh xả, và
trình bày đối tượng thiền quán. Người con trai ấy không bao lâu đắc các Thắng
trí và Thiền chứng, cùng với người cha được sanh lên Phạm thiên giới.
*
Sau khi
kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư thuyết giảng về các Sự thật. Cuối bài giàng,
Tỷ-kheo ấy chứng được Dự lưu. Bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân như sau:
- Người
thiếu nữ béo mập thời ấy là người thiếu nữ béo mập hiện nay, Cullatàpasa là
Tỷ-kheo bị luyến ái, còn người cha là Ta vậy.
-ooOoo-
107. CHUYỆN
NGHỀ NÉM ÐÁ (Tiền thân Sàlittaka)
Lành
thay, một nghề tinh...,
Câu
chuyện này, khi trú ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về Tỷ-kheo đã ném trúng con ngỗng
trời. Nghe nói có một thiện nam tử ở Xá-vệ đạt được thù thắng trong đức hạnh.
Một hôm, vị ấy đưa một Tỷ-kheo trẻ đi đến sông Aciravati tắm, còn vị ấy đứng
trên bờ. Lúc ấy hai con ngỗng trời trắng bay ngang qua hư không. Vị ấy nói với
Tỷ-kheo trẻ:
- Với
hòn đá, ta sẽ ném trúng mắt con ngỗng trời bay sau, làm cho ngỗng rơi xuống
dưới chân ta.
Người
kia nói:
- Bằng
cách nào làm rơi được? Thầy không thể quăng trúng đâu.
- Hãy
chờ một lát! Ta sẽ quăng trúng con mắt bên phía này xuyên qua con mắt bên phía
kia.
-
Chuyện thầy nói không thể xảy ra.
- Vậy
ông hãy đợi xem.
Vị ấy
cầm một hòn đá có ba cạnh, dùng ngón tay liệng hòn đá về phía sau lưng con
ngỗng trời ấy. Con ngỗng trời nghe tiếng đá bay, nghĩ rằng có nguy hiểm, quay
đầu lại để nghe. Trong giây phút ấy, vị ấy lấy một hòn đá tròn, khi con ngỗng
trời đang quay đầu lại, liền quăng hòn đá trúng con mắt ở phía bên kia của
ngỗng trời. Hòn đá đi xuyên qua con mắt bên này. Con ngỗng trời kêu lên một
tiếng lớn rồi rơi xuống dưới chân hai vị.
Vị
Tỷ-kheo kia thấy vậy, trách Tỷ-kheo ấy đã làm một việc hoàn toàn không thích
đáng, rồi dẫn vị ấy đến gặp bậc Ðạo Sư và báo cáo việc làm không tốt đẹp kia.
Bậc Ðạo Sư quở trách Tỷ-kheo ấy và nói:
- Này
các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Tỷ-kheo ấy mới thiện xảo trong nghề của mình.
Thuở xưa, vị ấy mới thiện xảo trong nghề của mình. Thuở xưa, vị ấy cũng đã
thiện xảo rồi.
Nói vậy
xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.
*
Thuở
xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát là một đại thần của vua.
Lúc bấy giờ, vị cố vấn tế tự của vua nói nhiều, lắm mồm lắm miệng. Khi ông ta
bắt đầu nói, người khác không có cơ hội để nói. Nhà vua suy nghĩ: "Ta phải
tìm cho được người có thể cắt đứt lời nói của nó". Từ đó, vua đi tìm một
người như vậy.
Lúc
bấy giờ, ở Ba-la-nại có một người què, thuần thục trong nghề ném đá. Các đứa
trẻ trong làng đặt nó trên chiếc xe nhỏ, kéo ra cửa thành Ba-la-nại. Tại đó, có
một cây bàng lớn có nhiều cành lá rậm rạp. Các đứa trẻ đưa nó ra tại đấy, vây
quanh và cho nó một số tiền nhỏ v.v... bảo làm hình con voi, con ngựa. Nó ném
đá và tạo thành hình các con vật trên các ngọn lá của cây bàng. Tất cả là đều
bị cắt qua cắt lại như vậy.
Rồi
nhà vua, trong khi đi dạo công viên, đến tại chỗ ấy. Các đứa trẻ sợ nghi vệ của
vua nên bỏ chạy, chỉ còn lại người què nằm đó. Vua đi đến gốc cây bàng, ngồi
trên xe thấy, từng đám là cây loang lổ, ngó lên, thấy tất cả lá bị cắt đứt, liền
hỏi ai đã làm như vậy. Khi được nói chính là người què đã làm như vậy, nhà vua
suy nghĩ: "A! Nhờ người này, nay đã có cách có thể cắt lời nói của vị
Ba-la-môn ấy được!".
Vua
bèn hỏi người què ở đâu. Chúng đi tìm, thấy nó nằm dưới gốc cây, liền báo cho vua
biết. Vua kêu nó lại, bảo các tuỳ tùng tránh xa, và hỏi:
-
Chúng ta có một vị ấy Bà-la-môn lắm mồm lắm miệng, người có thể làm cho nó
ngưng nói được không?
-
Thưa Ðại Vương, có thể được, nếu tôi có hột phân dê khô đầy một ống thổi.
Vua
đem người què về cung, bảo nó ngồi sau lưng một cái màn có một lỗ hở, đặt ghế
ngồi của vị Bà-la-môn hướng về lỗ hở ấy và cho đặt gần người què một ống thổi
đầy phân dê khô. Vị Bà-la-môn đi đến hầu vua, ngồi trên cái ghế riêng của ông
ta và bắt đầu câu chuyện. Cũng như bao lần trước, ông ta không cho ai khác có
cơ hội để nói.
Bấy
giờ, người què, ngang qua lỗ hở của màn, bắn phân con dê từng viên một, vào
đúng cổ họng của vị Ba-la-môn như những con ruồi tuần tự đi vào. Vị Bà-la-môn
nuốt các viên phân ấy mỗi khi chúng bay đến. Khi tất cả viên phân dê từ ống
thổi đã đi vào bụng vị Bà-la-môn, chúng nở to lên bằng nửa alhaka (một đơn vị
đo lường khoảng hơn bốn lít rưởi). Khi vua biết được các viên phân dê không còn
nữa, mới nói:
-
Này sư trưởng, ông nói nhiều quá, nên đã nuốt các viên phân dê đầy cả một ống
mà không hay biết gì! Ông không thể nào tiêu hoá nhiều hơn thế nữa hôm nay. Hãy
về uống nước cây tắc, để nôn ra và được khỏi bệnh.
Từ
đó về sau, người cố vấn tế tự ngồi với miệng ngậm câm, không nói gì trong khi
bàn luận. Vua nói:
-
Lỗ tai của ta được an lạc nhờ người què này!
Vua
cho nó bốn làng trong bốn phương hướng Ðông, Tây, Nam, Bắc, có huê lợi một trăm
ngàn đồng.
Sau
đó Bồ tát đi đến hầu vua và thưa:
-
Thưa Ðại Vương, nghề này, các bậc hiền trí ở đời cần phải học. Chỉ nghề ném đá
đã đem lại cho người què kết quả vinh hiển như vậy.
Nói
xong, Bố-tát đọc bài kệ:
Lành
thay, một nghề tinh,
Dầu đó là nghề gì,
Xem kẻ què ném đá,
Ðược làng cả bốn phương.
Dầu đó là nghề gì,
Xem kẻ què ném đá,
Ðược làng cả bốn phương.
*
Sau khi
kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân như sau:
- Thời ấy,
người què là vị Tỷ-kheo này, vua là Ànanda, còn vị đại thần hiền trí là Ta vậy.
-ooOoo-
108.
CHUYỆN LẠ KỲ (Tiền thân Bàhiya)
Hãy học
điều cần học...,
Câu
chuyện này, khi trú ở ngôi phòng lớn có nóc nhọn tại Ðại Lâm, gần Tỳ-xá-ly, bậc
Ðạo Sư đã kể về một người Licchavi. Nghe nói, vị vua Licchavi này có lòng tin,
hoan hỷ mời chúng Tỷ-kheo với đức Phật là vị cầm đầu, và tổ chức một lễ cúng
dường lớn tại trú xứ của mình. Bà vợ của vua, tay chân béo mập, như có tướng
phát phì ra và ăn mặc lôi thôi. Bậc Ðạo Sư dùng cơm xong, nói lời tùy hỷ, rồi
đi về tinh xá. Sau khi giáo giới các Tỷ-kheo ngài vào Hương phòng. Các Tỷ-kheo
ngồi họp tại Chánh pháp đường bắt đầu câu chuyện.
- Này
các Hiền giả, vua Licchavi ấy đẹp trai như vậy, lại có bà vợ tay chân béo mập,
ăn mặc lôi thôi. Sao vua có thể thương một người như vậy?
Bậc Ðạo
Sư đến và hỏi:
- Nay
các Tỷ-kheo nay các ông ngồi tại đây đang bàn luận về vấn đề gì?
Sau khi
nghe vấn đề ấy, bậc Ðạo Sư nói:
- Này
các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay mà thôi, thuở xưa, vị ấy cũng đã thương mến nữ
nhân thân thể béo mập rồi!
Nói vậy
xong, theo lời yêu cầu, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.
*
Thuở
xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ tát là vị đại thần của vua. Có
một nữ nhân thôn quê thân thể béo mập, ăn mặc lôi thôi, làm công ăn lương, đang
đi ngang qua gần sân chầu của nhà vua, cảm thấy thân bị bức bách bèn ngồi xuống
lấy áo che thân, giải tỏa sự bức bách của thân và nhanh nhẹn, đứng dậy.
Lúc
bấy giờ, vua Ba-la-nại tình cờ đang nhìn xuống ngang qua cửa sổ, thấy nữ nhân ấy
liền suy nghĩ: "Người này trong khi giải tỏa sự bức bách của thân tại sân
vua như vậy, vẫn không từ bỏ tàm quý, dùng áo che đậy, giải tỏa bức bách xong,
liền đứng dậy một cách nhanh nhẹn. Nữ nhân này chắc chắn khỏe mạnh, nhà cửa nữ
nhân này chắc chắn sạch sẽ, nếu nàng có một đứa con, đứa con ấy chắc chắn sẽ
được sạch sẽ và sống có giới đức. Ta phải đặt người này lên làm hoàng
hậu".
Sau
khi biết được nữ nhân này chưa thuộc sở hữu của ai, vua bèn cho gọi nữ nhân ấy
đến và đặt nàng vào địa vị hoàng hậu. Nàng trở thành người được vua yêu thương
và thân thiết. Không bao lâu, nàng sanh được con trai. Nhà vua đặt con trai
nàng lên làm Chuyển luân vương. Bồ tát nghe câu chuyện về sự may mắn của nàng,
liền dùng cơ hội này thưa với vua:
-
Thưa đại vương, phàm việc gì cần phải làm cho được tốt đẹp, sao lại không học
tập? Sự việc này, do nữ nhân có đức hạnh lớn, khi giải tỏa sự bức bách của
thân, vẫn không từ bỏ tâm quý, biết dùng phương tiện che đậy, khiến Ðại vương
đẹp lòng và ban cho nàng phước lớn như vậy.
Rồi
để tán thán mọi việc cần phải làm cho được tốt đẹp, Bồ tát đọc bài kệ này:
Hãy học điều cần học,
Dầu có kẻ cứng đầu.
Gái quê khéo tiểu tiện,
Làm đẹp lòng đức vua.
Dầu có kẻ cứng đầu.
Gái quê khéo tiểu tiện,
Làm đẹp lòng đức vua.
Như
vậy, Bồ tát nói lời tán thán những ai đã làm tốt đẹp những điều cần phải học.
*
Sau khi
kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân như sau:
- Hai
vợ chồng thời ấy là vợ chồng hiện tại, còn vị đại thần hiền trí là Ta vậy.
-ooOoo-
109.
CHUYỆN BÁNH BỘT TRẤU ÐỎ (Tiền thân Kundakapùva)
Người
ta ăn thứ gì...
Câu
chuyện này, khi trú ở Xá vệ, bậc Ðạo sư đã kể về một người rất nghèo khổ. Ở Xá
vệ, khi thì chỉ một gia đình cùng dường chúng Tăng với đức Phật là vị cầm đầu,
khi thì ba bốn gia đình họp lại, khi thì cả thành chung đóng góp cúng dường.
Nhưng nay là cả con đường chung sức lại cúng dường các thức ăn với cháo và
bánh.
Lúc bấy
giờ, có một người rất nghèo khổ, làm thuê cho các người khác, cũng ở trong con
đường ấy, tự nghĩ: "Ta không thể cúng dường cháo. Ta cúng dường bánh
vậy!" Anh ta cạo lấy bột đỏ của vỏ trấu mềm, nhào với nước, gói bánh ấy trong
ngọn lá bạch vi rồi nướng bánh trong than đỏ, với ý định đem cúng dường đức
Phật. Khi mới nghe nói: hãy đem bánh đến cúng dường, anh ta liền đến trước tất
cả mọi người, và bỏ các bánh trong bát bậc Ðạo sư. Bậc Ðạo sư không nhận lấy
bánh của những ngưởi khác, chỉ ăn các bánh của anh ta. Khi ấy, toàn thành đều
đồn vang:
- Bậc
Chánh Ðẳng Giác không khinh chê bánh làm bằng bột trấu đỏ của người nghèo khổ
và đã ăn bánh ấy.
Khi ấy,
từ vua, đại thần... cho đến các người gác cửa, tất cả đều hội họp lại, đảnh lễ
bậc Ðạo sư, rồi đi đến người nghèo khổ ấy và nói:
- Hãy
lấy đồ ăn, hãy lấy hai trăm, hãy lấy năm trăm đồng tiền, nhưng cho chúng tôi
công đức cúng dường bánh ấy.
Người
nghèo khổ nghĩ: "Phải hỏi bậc Ðạo sư rồi ta mới quyết định".
Anh ta
đi đến bậc Ðạo sư và thưa lại câu chuyện ấy. Bậc Ðạo Sư nói:
- Hãy
lấy toàn bộ tài sản họ cho, nhưng hồi hướng công đức ấy về cho tất cả chúng
sanh.
Anh ta
bắt đầu nhận tiền. Một số người ấy cho gấp hai, gấp bốn, gấp tám kẻ khác... Như
vậy, cho đến khi anh ta nhận được chín trăm ngàn tiền vàng. Bậc Ðạo Sư nói lời
tùy hỷ, rồi đi về tinh xá. Sau khi nói lên những công việc phải làm và khuyến
giáo lời tốt lành cho các Tỷ-kheo, bậc Ðạo Sư đi vào Hương phòng.
Vào
buổi chiều, vua cho gọi người nghèo khổ ấy đến và mời anh ta làm quan giữ kho
bạc cho vua. Các Tỷ-kheo ngồi họp tại Chánh pháp đường bắt đầu câu chuyện như
sau:
- Này
các Hiền giả, bậc Ðạo sư đã ăn bánh bằng bột trấu đỏ của người nghèo khổ như ăn
món bất tử. Nhờ vậy, nguời nghèo khổ được nhiều tiền và được địa vị làm quan
giữ kho bạc, được nhiều phước lộc lớn lao.
Bậc Ðạo
sư đến hỏi các Tỷ-kheo đang ngồi bàn luận vấn đề gì. Ðược biết vấn đề ấy, bậc
Ðạo Sư nói:
- Này
các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ta mới không khinh chê và ăn bánh làm bằng bột
trấu đỏ của người ấy. Thuở trước, khi làm thần cây, ta cũng đã ăn như vậy rồi.
Và cũng nhờ Ta mà kẻ ấy được chức vụ làm quan giữ kho bạc.
Nói vậy
xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.
*
Thuở
trước, vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ tát sanh làm vị thần cây trên cây
dầu đu đủ. Lúc bấy giờ, những người trong ngôi làng ấy tin tưởng sức mạnh
thiêng liêng của các vị thần. Trong một lễ hội, người ta làm nhiều lễ vật để
cúng các thần cây. Có một người nghèo khổ thấy các người ấy sửa soạn cúng dường
các thần cây, cũng sắp đặt cúng dường thần cây dầu đu đủ.
Các
người ấy đi đến, mang theo vòng hoa, hương, hương liệu, các món bánh... Còn anh
ta chỉ đem theo bánh làm bằng bột trấu đỏ, và nước đựng trong cái gáo dừa. Anh
ta đi đến, đứng xa cây dầu đu đủ và nghĩ: "Các vị thần ăn bánh chư Thiên.
Thần của ta sẽ không ăn bánh làm bằng bột trấu đỏ này. Sao ta làm phí mất các
bánh này? Ta hãy ăn nó đi!". Nghĩ vậy, anh ta quay trở về. Bồ tát đứng
trên nhánh chĩa ba của cây, nói lớn:
-
Này ông bạn tốt ơi! nếu bạn là người có quyền thế, bạn sẽ cúng dường ta bánh
ngon bánh ngọt. Nhưng bạn nghèo khổ, nếu ta không ăn bánh làm bằng bột trấu đỏ,
thì ta sẽ ăn cái gì khác được? Chớ làm mất phần của ta.
Nói
vậy xong, Bồ tát đọc bài kệ:
Người cúng ăn thứ gì,
Thần cũng ăn thứ ấy,
Ðem lại bánh bột trấu,
Chớ làm mất phần ta!
Thần cũng ăn thứ ấy,
Ðem lại bánh bột trấu,
Chớ làm mất phần ta!
Anh
ta quay trở lại, nhìn thấy Bồ tát rồi dâng vật cúng Bồ tát, ăn chất dinh dưỡng
từ bánh ấy, rồi nói với anh ta.
-
Này bạn, vì mục đích gì bạn cúng dường ta?
-
Thưa ngài, tôi là người nghèo khổ. Tôi cúng dường với mục đích nhờ ngài giúp tôi
thoát cảnh nghèo khổ này.
-
Này bạn, chớ có lo nghĩ việc ấy nữa. Bạn đã cúng dường cho một vị thần biết ơn
nghĩa, và nhớ đến các việc làm tốt. Nhiều ghè chứa châu báu được chôn xung
quanh cây dầu đu đủ này. Chúng được xếp hàng, cổ ghè này chạm cổ ghè khác. Hãy
báo cho vua biết, dùng cỗ xe chở tài sản, chất đống tại sân chầu vua. Vua sẽ
bằng lòng bạn và cho bạn chức quan giữ kho bạc.
Sau
khi nói xong, Bồ tát biến mất. Anh ta làm như Bồ tát dặn và được vua ban cho
chức quan giữ kho bạc. Như vậy, nhờ Bồ tát, anh ta đạt được nhiều phúc lợi lớn
và khi mạng chung, đi theo nghiệp của mình.
*
Bậc Ðạo
Sư kể pháp thoại này xong, liền nhận diện Tiền thân như sau:
- Kẻ
nghèo khổ thời ấy là kẻ nghèo khổ hiện tại, và thần cây dầu đu đủ là Ta vậy.
-ooOoo-
110.
CHUYỆN CÂU HỎI BAO QUÁT TẤT CẢ. (Tiền thân Sabbasabhàraka-Panha)
Không
bao gồm tất cả...,
Chuyện
câu hỏi bao quát tất cả này sẽ được kể trong Tiền thân Ummagga (số 546 áp cuối
tập Jàtaka VI).
-ooOoo-
0 Komentar