Phẩm Bốn
(CLI) Migasìra (Thera. 24)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn ở Kosala, được đặt tên là Migasìra, theo ngôi sao ngày sinh. Học theo văn hóa Bà-la-môn, ngài thực
hành bùa chú sọ người, khi ngài đọc lên bùa chú và lấy móng tay gõ trên sọ
người, ngài tuyên bố: 'Người này sẽ được tái sanh trong giới này...', cho đến
với những người đã chết được ba năm. Không thích thú đời sống thế tục, ngài trở
thành người du sĩ, với hạnh sọ người của ngài, ngài được cung kính cúng dướng.
Ði đến Sàvatthi, đứng trước mặt bậc Ðạo Sư, ngài tuyên bố sức
mạnh của ngài: 'Thưa Tôn giả Gotama, ta có thể nói chỗ tái sanh của những người đã
chết'.
Ðức Phật hỏi: 'Ông làm
như thế nào?'
Ngài cho đem lại một sọ
người, đọc lên bùa chú, với móng tay gõ trên sọ người, ngài tuyên bố đọa xứ
v.v... là chỗ tái sanh!
Ðức Phật cho đem lại sọ
người của một Tỷ-kheo, đã chứng Niết-bàn và nói: 'Hãy nói chỗ tái sanh của
người này'. Migasìra đọc bùa chú, lấy móng tay gõ trên sọ người,
nhưng không thấy đầu đuôi như thế nào.
Rồi Thế Tôn hỏi:
- Này du sĩ, có phải ông
làm không được?
Ngài trả lời: - Tôi cần
phải xác chứng cho chắc chắn! Nhưng dù cho ngài xoay xở như thế nào, làm sao
ngài biết được sanh thú của vị A-la-hán; ngài xấu hổ, toát mồ hôi, im lặng.
- Này du sĩ, có phải ông
mệt mỏi?
- Vâng, tôi mệt mỏi, tôi
không biết sanh tử của vị này, Ngài có biết chăng?
- Ta biết được và Ta
biết nhiều hơn thế nữa! Vị này đã nhập Niết-bàn!
Vị du sĩ nói:
- Vậy nói lên cho con,
bí quyết ấy?
- Vậy ông phải xuất gia!
Rồi Migasìra xuất gia và được dạy cho đề tài tu định. An trú
vững vàng trên thiền và thắng trí, ngài thực hành thiền quán, không bao lâu,
chứng quả A-la-hán.
Rồi ngài nói lên chánh
trí của ngài như sau:
181. Từ khi ta xuất gia,
Trong pháp bậc Chánh giác,
Giải thoát, ta tiến lên,
Ta vượt qua dục giới.
Trong pháp bậc Chánh giác,
Giải thoát, ta tiến lên,
Ta vượt qua dục giới.
182. Nhờ Phạm-chí quán
sát,
Tâm ta được giải thoát,
Ta giải thoát bất động,
Mọi kiết sử đoạn diệt.
Tâm ta được giải thoát,
Ta giải thoát bất động,
Mọi kiết sử đoạn diệt.
(CLII) Sivàka (Thera. 24)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn ở Ràjagaha(Vương Xá), được đặt tên Sivàka. Khi đã nhận được một
sự giáo dục toàn diện, ngài theo xu hướng sở thích của mình, từ bỏ thế tục làm
người du sĩ. Ðến nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, ngài khởi lòng tin xuất gia, và
cuối cùng chứng quả A-la-hán. Ngài nói lên chánh trí của mình:
183. Vô thường, những
ngôi nhà,
Ðây đó lại dựng lên,
Tìm kiếm người làm nhà,
Tái sanh là đau khổ.
Ðây đó lại dựng lên,
Tìm kiếm người làm nhà,
Tái sanh là đau khổ.
184. Hỡi kẻ làm nhà kia!
Ngươi đã bị thấy rồi,
Từ nay, ngươi không thể,
Lại dựng nhà lên nữa,
Mọi tường vách đổ vỡ,
Nóc nhà bị tan hoang,
Tâm bị đẩy khỏi dòng,
Ở đây, bị thổi nát.
Ngươi đã bị thấy rồi,
Từ nay, ngươi không thể,
Lại dựng nhà lên nữa,
Mọi tường vách đổ vỡ,
Nóc nhà bị tan hoang,
Tâm bị đẩy khỏi dòng,
Ở đây, bị thổi nát.
(CLIII) Upavàna (Thera. 24)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn ở Sàvatthi, được đặt tên là Upavàna. Thấy được uy nghi đức Phật khi Kỳ Viên được dâng cúng. Ngài xuất
gia, phát triển thiền quán, chứng được sáu thắng trí.
Rồi Upavàna trở thành vị thị giả đức Phật. Bấy giờ, Thế Tôn bị đau nhức mỏi,
một đệ tử cư sĩ của ngài tên là Devahita sống ở Sàvatthi cúng dường bốn vật dụng
cần thiết cho ngài. Khi Upavàna đến với y và bát, Devahita biết ngài cần dùng một vật đặc biệt nên hỏi.
Ngài trả lời với bài kệ như sau:
185. Bậc ứng Cúng, Thiện
Thệ,
ẩn sĩ bị phong thấp,
Nếu ông có nước nóng,
Hãy cúng dường ẩn sĩ.
ẩn sĩ bị phong thấp,
Nếu ông có nước nóng,
Hãy cúng dường ẩn sĩ.
186. Cúng dường người
đáng cúng,
Cung kính người đáng kính,
Tôn trọng người đáng trọng,
Ta mong muốn vị ấy,
Ðược vật cúng mang đến.
Cung kính người đáng kính,
Tôn trọng người đáng trọng,
Ta mong muốn vị ấy,
Ðược vật cúng mang đến.
Rồi vị Bà-la-môn dâng
cúng nước nóng và thuốc trị bệnh. Nhờ vậy, bệnh của Thế Tôn thuyên giảm và Thế
Tôn tỏ lời cảm ơn.
(CLIV) Isidinna (Thera. 24)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở xứ Sunàparanta, trong gia đình một vị chức sắc, được đặt tên
là Isidinna. Khi lớn lên, ngài chứng kiến Thế Tôn hiện thần thông song hành
khi ngôi nhà bằng trầm hương được dâng cúng, với tấm hân hoan đối với bậc Ðạo
Sư, ngài nghe pháp, trở thành bậc Dự lưu. Dầu còn sống đời sống thế gian, một
Thiên nhân khích lệ ngài như sau:
187. Ta thấy người cư
sĩ,
Trì pháp với lời nói,
Các dục là vô thường,
Họ ưa thích ái luyến,
Châu báu và vòng nhẫn,
Họ đón chờ vợ con.
Trì pháp với lời nói,
Các dục là vô thường,
Họ ưa thích ái luyến,
Châu báu và vòng nhẫn,
Họ đón chờ vợ con.
188. Thật sự họ không
biết,
Pháp như thật là gì?
Dầu họ có tuyên bố:
'Các dục là vô thường!'
Họ không có sức mạnh,
Ðể cắt đứt tham ái,
Do vậy, họ luyến tiếc,
Vợ con và tài sản.
Pháp như thật là gì?
Dầu họ có tuyên bố:
'Các dục là vô thường!'
Họ không có sức mạnh,
Ðể cắt đứt tham ái,
Do vậy, họ luyến tiếc,
Vợ con và tài sản.
Khi người cư sĩ nghe
vậy, ngài cảm thấy xúc động, xuất gia, không bao lâu chứng quả A-la-hán. Nói
lên chánh trí của ngài, ngài lập lại những bài kệ trên.
(CLV) Sambula - Kaccàna (Thera. 24)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh trong nước Magadha (Ma-kiệt-đà), con một thị dân thuộc dòng họ Kaccàna, tên là Sambula, ngài được biết với tên Sambula-Kaccàna. Sau khi nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, ngài xuất
gia rồi đi đến miền phụ cận núi Hy-mã-lạp-sơn, tu học thiền quán trong một cái
hang tên là Bheravàyanà (đường đi dễ sợ).
Một hôm, một cơn giông
tố trái mùa nổi lên, mây ùn ùn nổi lên trên hư không, sấm sét vang động, chớp
sáng chói lòa, trời bắt đầu mưa đổ ào ào xuống. Các loài vật như gấu, dã can,
trâu, voi đều la hét run sợ. Nhưng vị Trưởng lão phát triển thiền quán, không
kể gì đến mạng sống của mình, không để ý đến tiếng động vang, nhưng cơn động
làm cho dịu khí trời, tâm ngài được tịnh chỉ, ngài triển khai thiền quán, chứng
được quả A-la-hán với sáu thắng trí. Nghĩ đến thành quả đạt được, ngài cảm thấy
phấn khởi, ngài nói lên chánh trí của ngài, với những bài kệ:
189. Mưa ào ào đổ xuống,
Mưa ầm ầm vang động,
Ta sống chỉ một mình,
Trong hang động kinh hoàng,
Dầu ta sống một mình,
Trong hang động kinh hoàng,
Ta không hoảng, sợ hãi,
Không lông tóc dựng ngược
Mưa ầm ầm vang động,
Ta sống chỉ một mình,
Trong hang động kinh hoàng,
Dầu ta sống một mình,
Trong hang động kinh hoàng,
Ta không hoảng, sợ hãi,
Không lông tóc dựng ngược
190. Pháp nhĩ ta là vậy,
Nên dầu sống một mình,
Trong hang động kinh hoàng,
Ta không hoảng, sợ hãi,
Không lông tóc dựng ngược.
Nên dầu sống một mình,
Trong hang động kinh hoàng,
Ta không hoảng, sợ hãi,
Không lông tóc dựng ngược.
(CLVI) Khitaka (Thera. 25)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh trong nước Kosala, con một vị Bà-la-môn, được đặt tên là Khitaka. Ngài nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, xuất gia, sống trong rừng, không
bao lâu chứng quả A-la-hán. Hưởng được lạc giải thoát Niết-bàn, cảm thấy phấn
khởi tinh cần, ngài đi đến các Tỷ-kheo sống trong rừng để khích lệ, làm các vị
ấy phấn khởi. Ngài nói những bài kệ này, trước hết vì hạnh phúc cho các vị ấy,
sau nói lên chánh trí của ngài:
191. Tâm ái như tảng đá
Ðứng vững, không dao động,
Hỡi những vật khả ái,
Tâm không có tham ái,
Ðối vật làm dao động,
Tâm không có dao động,
Tâm ai tu tập vậy,
Từ đâu, khổ sẽ đến.
Ðứng vững, không dao động,
Hỡi những vật khả ái,
Tâm không có tham ái,
Ðối vật làm dao động,
Tâm không có dao động,
Tâm ai tu tập vậy,
Từ đâu, khổ sẽ đến.
192. Tâm ta như tảng đá
Ðứng vững, không dao động,
Ðối những vật khả ái,
Tâm không có tham ái,
Ðối vật làm dao động,
Tâm không có dao động,
Tâm ta tu tập vậy,
Từ đâu, khổ đến ta.
Ðứng vững, không dao động,
Ðối những vật khả ái,
Tâm không có tham ái,
Ðối vật làm dao động,
Tâm không có dao động,
Tâm ta tu tập vậy,
Từ đâu, khổ đến ta.
(CLVII) Sona - Potiriyaputta (Thera. 25)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), con của điền chủPotiriya,
được đặt tên là Sona. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài trở thành
tướng chỉ huy quân lực của Bhaddiya, một vị vua Sakka. Nay Bhaddiya đã xuất gia, và ngài theo gương Bhaddiya cũng xuất gia, nhưng ngài biếng nhác, không có tu thiền định. Thế
Tôn ở tại vườn xoài Anupiya, chiếu hào quang đến ngài, khích lệ ngài tu tập
chánh niệm, với những bài kệ như sau:
193. Thầy chớ có ngủ
nữa,
Với đêm, sao vòng hoa,
Ðêm này, người có trí,
Thức dậy, không có ngủ.
Với đêm, sao vòng hoa,
Ðêm này, người có trí,
Thức dậy, không có ngủ.
Nghe lời này, ngài cảm
thấy dao động mạnh, thấy rõ những khuyết điểm của ngài, ngài ngồi thiền ngoài
trời, tu tập thiền quán, ngài nói lên bài kệ:
194. Khi con voi tấn
công,
Rơi từ lưng voi xuống,
Trên chiến trường ta chết,
Tốt hơn sống bại trận.
Rơi từ lưng voi xuống,
Trên chiến trường ta chết,
Tốt hơn sống bại trận.
Nói vậy, ngài triển khai
thiền quán, không bao lâu chứng quả A-la-hán. Rồi ngài lập lại bài kệ của bậc
Ðạo Sư, và với bài kệ của ngài, ngài nói lên chánh trí của mình.
(CLVIII) Nisabha (Thera. 25)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh trong xứ các dân tộc Koliya, trong một gia đình dân
tộc, được đặt tên là Nisabha. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài chứng kiến sức
mạnh uy nghi đức độ của đức Phật trong trận chiến giữa dân tộc Sakka và dân tộc Koliya, khởi lòng tin, ngài xuất gia, chứng quả
A-la-hán.
Thấy một Tỷ-kheo đồng
Phạm hạnh dùng thời gian của mình rất là uổng phí, nên ngài dùng những bài kệ
này để khuyên răn vị ấy, và nói lên ngài thực hành những điều ngài nói:
195. Sau khi đã từ bỏ
Năm loại dục trưởng dưỡng,
Những vật thật khả ái,
Khiến tâm ý thích thú,
Với lòng tin, xuất gia,
Chấm dứt sự khổ đau.
Năm loại dục trưởng dưỡng,
Những vật thật khả ái,
Khiến tâm ý thích thú,
Với lòng tin, xuất gia,
Chấm dứt sự khổ đau.
196. Ta không hoan hỷ
chết,
Ta không hoan hỷ sống,
Ta chờ đợi thời đến,
Tỉnh giác và chánh niệm.
Ta không hoan hỷ sống,
Ta chờ đợi thời đến,
Tỉnh giác và chánh niệm.
(CLIX) Usabha (Thera. 25)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), trong gia đình một vị vua Sakka, được đặt tên là Usabha. Khi đức Phật về thăm bà con, ngài thấy sức
mạnh và sự sáng suốt của đức Phật, khởi lòng tin và xuất gia, nhưng ngài không
làm các bổn phận của người tu hành, cả ngày giao du nhiều người, ban đêm thời
lo ngủ.
Một hôm, với tâm tư hôn
trầm phóng dật, ngài nằm ngủ, ngài mộng thấy ngài cạo đầu, đắp áo cà-sa, ngồi
trên lưng voi đi vào thành để khất thực; tại đấy, thấy quần chúng tụ tập đông
đảo, ngài cảm thấy xấu hổ và xuống voi không ngồi nữa. Ngài thức dậy, suy nghĩ:
'Vì sao, đây là cơn mộng hôn trầm và phóng dật, ta thấy ta nằm ngủ với tâm ưu
não', ngài an trú thiền quán, không bao lâu chứng quả A-la-hán. Như vậy lấy cơn
mộng làm đề tài khích lệ, ngài dùng những bài kệ để nói lên chánh trí của ngài:
197. Vai đắp phủ tấm y,
Giống như màu bông xoài,
Ngồi trên lưng con voi,
Ta vào làng khất thực.
Giống như màu bông xoài,
Ngồi trên lưng con voi,
Ta vào làng khất thực.
198. Từ lưng voi leo
xuống,
Ta cảm nhận xúc động,
Trước ta rất ngạo mạn,
Nay ta thật lắng dịu,
Ta đã chứng đạt được,
Các lậu hoặc đoạn diệt.
Ta cảm nhận xúc động,
Trước ta rất ngạo mạn,
Nay ta thật lắng dịu,
Ta đã chứng đạt được,
Các lậu hoặc đoạn diệt.
(CLX) Kappata - Kura (Thera. 25)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh tại Sàvatthi, trong tình cảnh nghèo nàn, ngài chỉ biết tự
nuôi sống, bằng cách mặc đồ rách rưới, bát ăn xin cầm tay, đi xin gạo cơm. Vì
vậy ngài được tên là Kappatakura (rách và gạo). Khi lớn lên, ngài nuôi sống bằng
cách bán cỏ. Một hôm, đang cắt cỏ trong rừng, ngài gặp một vị Trưởng lão, ngài
đảnh lễ, ngồi xuống nghe pháp. Ngài khởi lòng tin, từ bỏ nếp sống cũ, xuất gia,
cất đồ rách rưới vào một chỗ. Khi ngài cảm thấy nhàm chán với đời sống mới,
ngài đi đến nhìn đồ rách rưới ấy, tâm ngài trở thành bất an. Làm như vậy, bảy
lần ngài rời khỏi chúng Tăng. Các Tỷ-kheo báo cáo lên sự việc này. Một hôm, khi
ngài là một Tỷ-kheo đang ngồi giữa chúng Tăng tại giảng đường, bậc Ðạo Sư giáo
giới ngài với những bài kệ như sau:
199. Ðây là đồ rách
rưới,
Của Kappata-kura,
Y áo đang phủ đắp,
Thật là quá nặng nề,
Trong bình bát bất tử,
Ðược đựng đầy Chánh pháp,
Nhưng nó không thực hành,
Con đường hành thiền định.
Của Kappata-kura,
Y áo đang phủ đắp,
Thật là quá nặng nề,
Trong bình bát bất tử,
Ðược đựng đầy Chánh pháp,
Nhưng nó không thực hành,
Con đường hành thiền định.
200. Hỡi này Kappata,
Chớ lắc qua lắc lại,
Chớ khiến ta phải đánh,
Các tiếng vào tai ông,
Hỡi này Kappata,
Chớ làm kẻ si mê,
Ngồi lắc qua lắc lại,
Giữa Tăng chúng hội họp.
Chớ lắc qua lắc lại,
Chớ khiến ta phải đánh,
Các tiếng vào tai ông,
Hỡi này Kappata,
Chớ làm kẻ si mê,
Ngồi lắc qua lắc lại,
Giữa Tăng chúng hội họp.
Bị đức Phật quở trách
mạnh mẽ, ngài dao động mạnh, phát triển thiền quá, không bao lâu chứng quả
A-la-hán. Rồi ngài lập lại các bài kệ đã khích lệ ngài tu hành và những bài kệ
này trở thành những lời tuyên bố chánh trí của ngài.
0 Komentar