Phẩm Ba
(CXLI) Uttara (Thera. 22)
Trong thời đức Phật tại
thế, ngài sanh ở Sàketa, trong một gia đình Bà-la-môn, được đặt tên là Uttara. Bị cảm hóa bởi thần thông song hành tại cây Gandamba ở Sàvatthi, ngài được khích lệ xuất gia, khi bậc Ðạo Sư ở Sàketa thuyết pháp tại vườn Kàlaka. Ði với bậc Ðạo Sư đến Ràjagaha (Vương Xá), ngài phát triển thiền quán, chứng
được sáu thắng trí. Trở về Sàvatthi để hầu hạ đức Phật, các Tỷ-kheo hỏi ngài: 'Thưa
Hiền giả, Hiền giả đã thành tựu những gì trong sự nghiệp giải thoát?' Ngài nói
lên chánh trí của ngài với bài kệ như sau:
161. Ta liễu tri các
uẩn,
Ta khéo nhổ tham ái,
Ta tu tập giác chi,
Ta đạt lậu hoặc diệt.
Ta khéo nhổ tham ái,
Ta tu tập giác chi,
Ta đạt lậu hoặc diệt.
162. Do liễu tri các
uẩn,
Thoát ly kẻ gài lưới,
Tu tập giác chi xong,
Ta sẽ nhập Niết-bàn,
Các lậu hoặc tận diệt.
Thoát ly kẻ gài lưới,
Tu tập giác chi xong,
Ta sẽ nhập Niết-bàn,
Các lậu hoặc tận diệt.
(CXLII) Bhaddaji (Thera. 22)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở Bhaddiya (tại Avantì phía Ðông Magadha), con một nghị sĩ giàu
có đến tám trăm triệu, ngài được đặt tên là Bhàddiya và được nuôi lớn trong
sự nuông chiều sang trọng, giống như vị Bố-tát trong đời sống cuối cùng của
ngài. Tập sớ kể câu chuyện của ngài chứng quả A-la-hán khi nghe đức Phật thuyết
pháp lần đầu tiên, chính đức Phật đích thân đến tìm ngài. Ngài đi theo bậc Ðạo
Sư với hàng tùy tùng, sau một tuần đến tại Kotigàma, và đi lánh đến bờ sông
Hằng, ngài nhập thiền định. Ngài chỉ xuất định, khi đức Phật đến gần và không
vâng lời các vị Trưởng lão đi trước. Ðể xác minh quả chứng vô thượng của ngài,
đức Phật mời ngài lên chiếc phà của Ngài và yêu cầu ngài hiện thần thông. Bhaddiya làm nổi lên cung điện bị chìm, khi ngài trú tại
đấy, trong thời ngài là vua Panàda. Câu chuyện này được kể trong chuyện Jàtaka Mahàpanàda. Ngài diễn tả lâu đài bằng vàng, trong ấy ngài
đã sống trong một thời gian. Rồi ngài nói về ngài khi tự ngã được đoạn diệt,
như là thuộc một người khác:
163. Pa-nà-đa là tên,
Của vị hoàng đế ấy,
Với trụ lễ bằng vàng,
Ngang có mười sáu nhà,
Tính về lượng bề cao,
Cao hơn một ngàn lần.
Của vị hoàng đế ấy,
Với trụ lễ bằng vàng,
Ngang có mười sáu nhà,
Tính về lượng bề cao,
Cao hơn một ngàn lần.
164. Có đến ngàn tam
cấp,
Với trăm nóc hình tròn,
Trang hoàng với cờ xí,
Với ngọc báu chói sáng,
Ở đấy, Càn-thát-bà,
Các tiên nữ hát múa,
Con số lên sáu ngàn,
Với tổng số bảy đoàn.
Với trăm nóc hình tròn,
Trang hoàng với cờ xí,
Với ngọc báu chói sáng,
Ở đấy, Càn-thát-bà,
Các tiên nữ hát múa,
Con số lên sáu ngàn,
Với tổng số bảy đoàn.
(CXLIII) Sobhita (Thera. 22)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình Bà-la-môn, được đặt tên là Sobhita. Sau khi được nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, ngài xuất gia, chứng
được sáu thắng trí, ngài thực hành nhớ đến các đời sống quá khứ, thành tựu túc
mạng thông, được đức Phật xác nhận là vị nhớ đến đời sống quá khứ đệ nhất. Cảm
thấy phấn khởi trong quả chứng của mình, ngài nói lên những bài kệ:
165. Tỷ-kheo giữ chánh
niệm,
Với trí tuệ tinh cần,
Một đêm, ta nhớ đến,
Có đến năm trăm kiếp.
Với trí tuệ tinh cần,
Một đêm, ta nhớ đến,
Có đến năm trăm kiếp.
166. Ta tu Bốn niệm xứ,
Bảy giác chi, Tám thánh (đạo),
Một đêm, ta nhớ đến,
Có đến năm trăm kiếp.
Bảy giác chi, Tám thánh (đạo),
Một đêm, ta nhớ đến,
Có đến năm trăm kiếp.
(CXLIV) Valliya (Thera. 22)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở Vesàli, trong một gia đình Bà-la-môn, được đặt tên là Kanhamitta. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài thấy uy nghi đức độ của đức Phật
khi đức Phật đến Vesàli. Khởi lòng tin, ngài xuất gia với sự hướng dẫn
của Tôn giảMahà Kassapa (Ðại Ca-diếp). Với trí tuệ chậm chạp và mới bắt đầu tinh tấn, ngài
phải dựa vào trí tuệ của các đồng Phạm hạnh đến nỗi ngài được gọi là Valliya (loài cây leo), vì loài cây này không thể tự lớn
được, nếu không dựa vào một vật gì. Một hôm, ngài đi nghe Trưởng lão Venudatta giảng, ngài trở thành sáng suốt, trí tuệ chín muồi, ngài hỏi vị
Thầy của ngài với những bài kệ:
167. Những bổn phận cần
làm,
Với tinh cần tinh tấn,
Những bổn phận cần làm
Với người muốn giác ngộ.
Con sẽ làm tất cả,
Con không có thối thất,
Hãy xem sự tinh tấn,
Sự nỗ lực của con.
Với tinh cần tinh tấn,
Những bổn phận cần làm
Với người muốn giác ngộ.
Con sẽ làm tất cả,
Con không có thối thất,
Hãy xem sự tinh tấn,
Sự nỗ lực của con.
168. Ngài hãy nói cho
con,
Con đường nhập bất tử,
Với yên lặng thiền tư,
Con đạt Thánh yên lặng,
Như dòng sông Hằng Hà,
Nhập sâu vào biển cả.
Con đường nhập bất tử,
Với yên lặng thiền tư,
Con đạt Thánh yên lặng,
Như dòng sông Hằng Hà,
Nhập sâu vào biển cả.
(CXLV) Vitàsoka (Thera. 22)
Trong thời đức Phật hiện
tại, vào năm thứ 218, là em trai vua Dhammàsoka (A-dục), được đặt tên là Vitàsoka. Ðến tuổi trưởng thành, ngài thành tựu những đức tánh thích hợp
với tuổi trẻ hoàng tộc. Rồi ngài trở thành đệ tử của Trưởng lão Giridatta và thông hiểu về Kinh tạng và Luận tạng A-tỳ-đàm.
Một hôm, khi ngài đang
cắt tóc, ngài lấy gương soi, thấy một vài sợi tóc bạc. Bị dao động mạnh, ngài
phát triển thiền quán, với sự nỗ lực cố gắng thiền định, khi ngài đang ngồi,
ngài chứng quả Dự lưu, ngài xuất gia dưới sự hướng dẫn của Giridatta, không bao lâu ngài chứng quả A-la-hán. Ngài
tuyên bố chánh trí của ngài với bài kệ:
169. Hãy cạo tóc cho ta
Người cạo tóc đã đến,
Ta cầm lấy cái gương,
Quan sát thân thể ta.
Người cạo tóc đã đến,
Ta cầm lấy cái gương,
Quan sát thân thể ta.
170. Thân được thấy
trống rỗng,
Chìm tối trong đêm đen,
Mọi vải quấn chặt đứt,
Nay không còn tái sanh.
Chìm tối trong đêm đen,
Mọi vải quấn chặt đứt,
Nay không còn tái sanh.
(CXLVI) Punnamàsa (Thera. 23)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình vị điền chủ. Khi sanh đứa
con đầu tiên, ngài xuất gia, sống gần một làng, ngài tinh tấn tu hành cho đến
khi ngài chứng được sáu thắng trí. Ngài đi đến Sàvatthi đảnh lễ bậc Ðạo Sư và ở tại một nghĩa địa. Rồi
đứa con ngài chết và vợ ngài không muốn tài sản bị vua tịch thu, vì không có
thừa tự nên đi đến ngài với một số đông tùy tùng và yêu cầu ngài từ bỏ đời sống
xuất gia. Muốn nói lên sự giải thoát thế tục và quả chứng của ngài, ngài đứng
trên hư không, nói lên những bài kệ:
171. Từ bỏ năm triền
cái,
Ðạt an ổn khỏi ách,
Nắm giữ gương Chánh pháp,
Biết và thấy tự ngã.
Ðạt an ổn khỏi ách,
Nắm giữ gương Chánh pháp,
Biết và thấy tự ngã.
172. Ta quán sát thân
này,
Từ trong cho đến ngoài,
Thân được thấy trống không,
Trong thân cả ngoài thân.
Từ trong cho đến ngoài,
Thân được thấy trống không,
Trong thân cả ngoài thân.
(CXLVII) Nandaka (Thera. 23)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở Campà trong một gia đình thị dân, được đặt tên là Nandaka. Ngài là em trai của Bharata (sẽ được nói đến sau).
Cả hai được ngheSona Kolivisa thuyết pháp, liền xuất gia, nghĩ rằng: 'Sona được nuôi dưỡng tế nhị còn xuất gia được, huống
nữa chúng ta?' Bharata chứng ngay sáu thắng trí, còn Nandaka, vì còn nhiều tư tưởng không trong sạch, không thể điều khiển
được thiền quán, chỉ có thể thực hành. Rồi Bharata muốn giúp đỡ ngài, khiến
ngài làm thị giả và cả hai người ra đi. Ngồi bên vệ đường, Bharata thuyết pháp cho ngài về thiền quán.
Có một đoàn lữ hành đi
ngang qua, một con bò đực kéo xe qua đám bùn không nổi nên ngã quỵ xuống. Ngài
dạy cởi con bò khỏi chiếc xe, cho nó ăn cỏ, uống nước. Con bò khỏi sự mệt nhọc
lại được cột vào xe, với sức mạnh, được bồi dưỡng, con bò kéo xe qua được đám
bùn, Bharata nói:
- Này em Nandaka, em có thấy hiện tượng ấy không?'.
- Thưa anh, em có thấy.
- Vậy hãy tìm hiểu ý
nghĩa! Và Nandaka nói: 'Như con bò được bồi dưỡng, lấy lại sức
mạnh, ta cần phải tự lực lôi mình ra khỏi đám bùn lầy của tái sanh!' Dùng sự
kiện này là một đề tài thiền quán, ngài đã chứng được quả A-la-hán. Rồi ngài
tuyên bố chánh trí của ngài cho người anh nghe với những bài kệ:
173. Như con vật hiền
thiện,
Thuộc giống tốt, khéo luyện,
Sau khi ngã quỵ xuống,
Lại gượng lên đứng dậy,
Lấy được thêm sức mạnh,
Không bỏ kéo gánh nặng.
Thuộc giống tốt, khéo luyện,
Sau khi ngã quỵ xuống,
Lại gượng lên đứng dậy,
Lấy được thêm sức mạnh,
Không bỏ kéo gánh nặng.
174. Cũng vậy, hãy nhận
con,
Ðệ tử bậc Chánh giác,
Con đầy đủ chánh kiến,
Khéo tu luyện thuần thục,
Con thật con chánh thống.
Của đức Phật Chánh giác.
Ðệ tử bậc Chánh giác,
Con đầy đủ chánh kiến,
Khéo tu luyện thuần thục,
Con thật con chánh thống.
Của đức Phật Chánh giác.
(CXLVIII) Bharata (Thera. 23)
Khi em trai Nandaka nói lên chánh trí của mình, Bharata khởi lên ý kiến hai anh
em cùng đi đến yết kiến đức Phật, trình lên đức Phật biết quá trình đời sống
Phạm hạnh của mình.
Rồi ngài nói với Nandaka những bài kệ như sau:
175. Hãy đến Nandaka,
Chúng ta hãy cùng đi,
Ði đến bậc Giáo thọ,
Chúng ta hãy rống lên,
Tiếng rống con sư tử,
Trước mặt Phật tối thượng.
Chúng ta hãy cùng đi,
Ði đến bậc Giáo thọ,
Chúng ta hãy rống lên,
Tiếng rống con sư tử,
Trước mặt Phật tối thượng.
176. ẩn sĩ thương chúng
ta,
Khích lệ ta xuất gia,
Mục đích chúng ta đạt,
Mọi kiết sử đoạn tận.
Khích lệ ta xuất gia,
Mục đích chúng ta đạt,
Mọi kiết sử đoạn tận.
(CXLIX) Bhàradvàja (Thera. 23)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá). Trong một gia đình Bà-la-môn, được
đặt tên theo dòng họ là Bhàradvàja. Lập gia đình, ngài có một người con trai tên
là Kanhadinna. Ðến tuổi đi học, ngài gửi người con đi Takkasìla, giữa đường người con làm quen với một vị Trưởng lão, đệ tử bậc
Ðạo Sư, nghe vị ấy thuyết pháp, xuất gia và sau một thời gian, chứng quả
A-la-hán.
Bhàradvàja, được nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp ở tịnh xá
Trúc Lâm, xuất gia và cũng chứng quả A-la-hán, Kanhadinna đến yết kiến bậc Ðạo Sư ở Ràjagaha (Vương Xá), và sung sướng thấy phụ thân mình
ngồi cạnh đức Bổn Sư. Ðược biết phụ thân đã chứng quả A-la-hán, muốn phụ thân
rống tiếng rống con sư tử, nên hỏi đã chứng được mục đích Phạm hạnh chưa, ngài
trả lời với những câu kệ như sau:
Rống tiếng rống:
177. Như những con sư tử
Trong hang động núi non,
Rống tiếng rống sư tử,
Cũng vậy với trí tuệ,
Bậc anh hùng thắng trận,
Thắng ma và ma quân.
Trong hang động núi non,
Rống tiếng rống sư tử,
Cũng vậy với trí tuệ,
Bậc anh hùng thắng trận,
Thắng ma và ma quân.
178. Ta hầu bậc Ðạo Sư
Ðảnh lễ Pháp và Tăng,
Ta hân hoan vui vẻ,
Thấy con chứng vô lậu.
Ðảnh lễ Pháp và Tăng,
Ta hân hoan vui vẻ,
Thấy con chứng vô lậu.
(CL) Kanhadinna (Thera. 23)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở Vương Xá, trong gia đình một Bà-la-môn, được đặt tên là Kanhadinna. Khi đến tuổi trưởng thành, với thiện duyên thuần thục, ngài đến
Tôn giả Sàriputta, nghe pháp, khởi lòng tin rồi xuất gia. Sau khi
phát triển thiền quán, ngài chứng quả A-la-hán, ngài tuyên bố chánh trí của
ngài.
179. Hầu hạ bậc chân
nhân,
Luôn luôn nghe Chánh pháp,
Nghe xong, ta sẽ bước,
Trên con đường bất tử.
Luôn luôn nghe Chánh pháp,
Nghe xong, ta sẽ bước,
Trên con đường bất tử.
180. Trong ta, tham hữu
đoạn,
Tham hữu không có mặt,
Quá khứ, và vị lai,
Không có ở trong ta,
Hiện tại cũng không có,
Tồn tại ở trong ta.
Tham hữu không có mặt,
Quá khứ, và vị lai,
Không có ở trong ta,
Hiện tại cũng không có,
Tồn tại ở trong ta.
0 Komentar