Phẩm Sáu
(LI-LIV) Ghodhika, Subàhu, Valliya, Uttiya (Thera. 8)
Trong thời đức Phật tại
thế, bốn vị này sanh ở Pava, con của bốn vua Malla, và giữa bốn người này, có một tình bạn chân thành. Bốn vị này có
một sứ mệnh, cùng đi đến vua xứ Kapilavatthu. Lúc bấy giờ, Thế Tôn cũng đến đó và sống tại
vườn cây bàng, tại đấy, Thế Tôn đã cảm hóa bốn vị này với thần thông song hành.
Các vị này xuất gia và không bao lâu chứng quả A-la-hán, với sự hiểu biết về
nghĩa và về pháp. Sau khi được vua chúa kính trọng cúng dường, bốn vị này sống
ở trong rừng. Khi bốn vị này đến Vương Xá, vua Bimbisàra (Bình Sa), mời bốn vị an cư mùa mưa và bảo làm mỗi người một cái
nhà, nhưng vô ý lại không lợp mái. Các vị này sống trong nhà ấy, nhưng không có
chỗ che mưa, và dầu là mùa mưa, trời lại không mưa. Vua Bimbisàra nhận thấy hiện tượng này, nhớ lại sự sai trái sơ
hở của mình, liền cho lợp mái lại tổ chức một ngày khánh thành, cúng dường cho
Tăng chúng. Các vị Trưởng lão nhận lời, đi vào ngôi nhà và triển khai lòng từ.
Từ phía Bắc và phía Ðông một cơn giông tố nổi lên, và các vị Trưởng lão xuất
định, mưa to bắt đầu rơi xuống. Rồi Godhika do mưa to gió lớn, nói
lên bài kệ:
51. Trời mưa, như hát
hay,
Ta ở trong am thất,
Ðược che kín khỏi gió,
Ta sống thật an lạc,
Tâm ta khéo định tĩnh.
Hãy mưa, nếu trời muốn.
Ta ở trong am thất,
Ðược che kín khỏi gió,
Ta sống thật an lạc,
Tâm ta khéo định tĩnh.
Hãy mưa, nếu trời muốn.
Subàhu nói lên bài kệ:
52. Trời mưa, như hát
hay,
Ta ở trong am thất,
Ðược che kín, khỏi gió,
Ta sống thật an lạc,
Tâm khéo định trên thân,
Hãy mưa, nếu trời muốn.
Ta ở trong am thất,
Ðược che kín, khỏi gió,
Ta sống thật an lạc,
Tâm khéo định trên thân,
Hãy mưa, nếu trời muốn.
Vàlliya nói lên bài kệ:
53. Trời mưa, như hát
hay,
Ta ở trong am thất,
Ðược che kín, khỏi gió,
Ta sống thật an lạc.
Không phóng dật, ta sống,
Hãy mưa, nếu trời muốn.
Ta ở trong am thất,
Ðược che kín, khỏi gió,
Ta sống thật an lạc.
Không phóng dật, ta sống,
Hãy mưa, nếu trời muốn.
Uttiya nói lên bài kệ:
54. Trời mưa, như hát
hay,
Ta ở trong am thất
Ðược che kín, khỏi gió,
Ta sống thật an lạc,
Trong ấy, sống một mình,
Hãy mưa, nếu trời muốn.
Ta ở trong am thất
Ðược che kín, khỏi gió,
Ta sống thật an lạc,
Trong ấy, sống một mình,
Hãy mưa, nếu trời muốn.
(LV) Anjana -Vaniya (Thera. 9)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở Vesàli, trong gia đình một vị vua trị vì nướcVajja.
Khi ngài lớn lên, ba tai họa lớn đe dọa dân chúng Vajja: nạn hạn hán, nạn bệnh tật, và nạn phi nhân. Sự kiện này được ghi
chép trong tập sớ kinh Ratanasutta. Khi Thế Tôn làm cho dân chúng Vesali bớt sợ hãi, một số đông đến nghe ngài giảng. Con của vua cũng được
nghe, khởi tín tâm và xuất gia.
Khi làm xong các học tập
sơ khởi, ngài sống trong rừng Anjana, ở Saketa. Khi trời mưa sắp đến,
ngài tìm được một giường nằm người ta quăng bỏ, đặt nó trên bốn tảng đá, phía
trên và phía chung quanh lợp cỏ. Ngài làm một cái cửa và như vậy làm được một
chỗ ở cho mùa mưa. Sau một tháng tu tập, ngài chứng quả A-la-hán. Sung sướng
với niềm giải thoát của mình, ngài phấn khởi nói lên bài kệ:
55. Làm am thất giường
nằm,
Sâu trong rừng An-ja,
Ba minh được chứng đạt,
Làm xong lời Phật dạy.
Sâu trong rừng An-ja,
Ba minh được chứng đạt,
Làm xong lời Phật dạy.
(LVI) Kutivihàrim (Thera. 9)
Ðời sống của ngài giống
như đời sống của Tôn giả Anjana Vaniya, với sự sai khác như sau: Trong khi phát triển
thiền quán, ngài đang đi qua cánh đồng và trú mưa trong một chòi nhỏ không
người, của người giữ đồng ruộng. Tại đấy, ngài chứng quả A-la-hán. Người giữ
đồng ruộng đến và hỏi: 'Ai ở trong chòi lá này?' Ngài trả lời: 'Một Tỷ-kheo ở
trong chòi lá' và nói lên bài kệ:
56. Ai ở trong chòi lá?
Một Tỷ-kheo ly tham,
Tâm được khéo định tĩnh,
Ðang ở trong chòi lá,
Hiền giả, hãy biết vậy!
Không phải là vô ích,
Chòi lá ông dựng lên.
Một Tỷ-kheo ly tham,
Tâm được khéo định tĩnh,
Ðang ở trong chòi lá,
Hiền giả, hãy biết vậy!
Không phải là vô ích,
Chòi lá ông dựng lên.
Rồi người giữ ruộng nói:
'Thật may mắn cho tôi. Thật khéo may mắn cho tôi. Tôn giả đã đến chòi lá của
tôi và ngồi tại đấy'.
Thế Tôn với thiên nhĩ
thanh tịnh nghe câu chuyện biết được tâm hoan hỷ của người giữ ruộng, ngài nói
lên bài kệ với người giữ ruộng:
Chính ở trong chòi lá,
Một Tỷ-kheo ly tham,
Tâm được khéo định tĩnh,
Ðang ở trong chòi lá,
Việc làm này hưởng quả,
Ông sẽ thành thiên chủ,
Sáu lần đến bảy lần,
Ông ngự trị thiên giới,
Rồi mọi ái nhiếp phục,
Ông sẽ thành Ðộc giác.
Một Tỷ-kheo ly tham,
Tâm được khéo định tĩnh,
Ðang ở trong chòi lá,
Việc làm này hưởng quả,
Ông sẽ thành thiên chủ,
Sáu lần đến bảy lần,
Ông ngự trị thiên giới,
Rồi mọi ái nhiếp phục,
Ông sẽ thành Ðộc giác.
Bắt đầu từ đấy, vị
Tỷ-kheo được gọi là Kutivihàrim.
(LVII) Kutivihàrim (Thera. 9)
Câu chuyện về ngài giống
như câu chuyện vị Trưởng lão ở rừng Anjana với sự sai khác này. Khi ngài xuất
gia với trường hợp tương tự, ngài học Chánh pháp trong một ngôi chòi nhỏ, ngài
nghĩ: 'Chòi cũ này cũng đã bị hư hại, ta phải làm một chòi khác'. Rồi ngài
hướng tâm ngài về hành động mới. Một thiên nhân tâm cầu giải thoát, muốn làm
ngài dao động, nói lên bài kệ này, với lời lẽ giản dị, nhưng ý nghĩa sâu rộng:
57. Ðây ngôi chòi cũ kỹ,
Ngài muốn ngôi chòi mới,
Hãy bỏ muốn ngôi chòi,
Chòi mới đem khổ mới,
Này Tỷ-kheo nên biết!
Ngài muốn ngôi chòi mới,
Hãy bỏ muốn ngôi chòi,
Chòi mới đem khổ mới,
Này Tỷ-kheo nên biết!
Khi nghe vậy, vị Trưởng
lão cảm thấy lo lắng, và với sự cố gắng phát triển thiền quán, ngài chứng được
quả A-la-hán. Rồi ngài nói lại bài kệ, nhờ bài kệ này ngài đã được chứng quả,
và ngài dùng bài kệ nói lên chánh trí của mình. Vì ngài chứng quả khi ở trong
chòi lá, ngài được gọi là Kutivihàrim (vị ở chòi lá).
(LVIII) Ramaniyakutika (Thera. 9)
Câu chuyện của ngài
giống như câu chuyện của Trưởng lão ở trong rừng Anjana với sự sai khác này: Ngài ở trong một chòi lá, gần một ngôi làng nhỏ,
trong xứ Vajji. Thật sự là một am thất nhỏ, xinh đẹp với sàn nhà
và vách tường khéo làm xung quanh có vườn, ao hồ và có rải cát đẹp, mịn. Với
giới hạnh của vị trưởng lão làm tăng thêm sự hấp dẫn của ngôi nhà.
Ngài chứng quả A-la-hán
và tiếp tục sống tại đấy. Khi nào có người đến viếng tinh xá, họ có thấy ngôi
chòi xinh xắn. Một ngày kia, một vài người đàn bà béo mập đi ngang qua, thấy
ngôi chòi xinh đẹp, liền nghĩ người ở chòi lá này có thể là một thanh niên mà
họ có thể cám dỗ. Họ đến gần ngài và nói: 'Cái chòi của ngài thật là xinh đẹp,
chúng tôi cũng thật xinh đẹp trong tuổi trẻ của chúng tôi’. Và họ bắt đầu khoe
khoang áo xiêm đẹp của mình. Nhưng vị Trưởng lão nói lên bài kệ, diễn tả tâm
trạng thoát tục của ngài:
58. Ngôi chòi ta xinh
đẹp,
Do đàn tín cúng dường,
Với tâm ý hoan hỷ,
Với lòng tin dâng cúng.
Ta không cần thiếu nữ,
Này các nữ nhân kia,
Hãy đi đến những ai,
Có cần đến các cô.
Do đàn tín cúng dường,
Với tâm ý hoan hỷ,
Với lòng tin dâng cúng.
Ta không cần thiếu nữ,
Này các nữ nhân kia,
Hãy đi đến những ai,
Có cần đến các cô.
Với chữ: 'Không cần',
ngài tuyên bố chánh trí của ngài, khi chứng quả A-la-hán.
(LIX) Kosalavihàrim (Thera. 9)
Câu chuyện của ngài
giống như chuyện của Trưởng lão ở trong rừng Anjana với sự sai khác này: Sau
khi làm Sa-di, ngài ở trong một ngôi rừng, gần một làng trong nướcKosala,
gần chỗ ở của một cư sĩ. Người này, thấy ngài ở dưới một gốc cây nên làm một
cái chòi và cúng dường cho ngài. Ở đây vị Trưởng lão chứng quả A-la-hán. Với
tâm tư hoan hỷ sung sướng được giải thoát, ngài nói lên bài kệ này:
59. Do lòng tin, xuất
gia,
Ta sống không gia đình,
Trong rừng, một chòi lá,
Ðược dựng lên cho ta,
Ta sống không phóng dật,
Nhiệt tâm, niệm tỉnh giác.
Ta sống không gia đình,
Trong rừng, một chòi lá,
Ðược dựng lên cho ta,
Ta sống không phóng dật,
Nhiệt tâm, niệm tỉnh giác.
Ðây là lời tuyên bố
chánh trí của ngài và vì ngài ở lâu ngày ở Kosala, ngài được biết với tên
là Kosalavihàrim (vị ở Kosala).
(LX) Sivàli (Thera. 9)
Ngài sanh ra là con của Suppavàsà, công chúa con vua, trong thời đức Phật hiện tại. Khi mẹ ngài
không sinh đẻ được và nằm chịu đau khổ trong bảy ngày, bà nói với người chồng:
'Trước khi tôi chết tôi sẽ bố thí', và nàng bảo chồng đi mời Thế Tôn đến, nói
đến hiện trạng của nàng và dặn chồng ghi nhớ những lời Thế Tôn nói. Người chồng
làm theo lời vợ dặn và bậc Ðạo Sư nói: 'Mong rằng Suppavàsa, con của dòng họ Koliyađược hạnh phúc! Mong nàng được hạnh phúc, sức
khỏe và sanh được đứa con trai khỏe mạnh'. Trước khi người chồng về, Suppavàsa đã sanh được đứa con trai và khi nghe chồng kể
lại câu chuyện, nàng dặn chồng cúng dường đức Phật và chúng Tăng trong bảy
ngày. Vì người con được sanh, đem lại hoan hỷ cho tất cả mọi người, nên được
đặt tên là Sìvali.
Sau khi sanh bảy ngày,
ngài có thể làm được bất cứ việc gì. Tôn giả Sàriputta đến và khuyên ngài xuất
gia, lấy đề tài sự đau khổ khi được sanh làm đề tài tu hành. Khi nắm tóc thứ
nhất được cắt đứt, ngài chứng Sơ quả. Khi nắm tóc thứ hai được cắt đứt, ngài
chứng Nhị quả. Như vậy cho đến nắm tóc thứ tư và ngài chứng quả A-la-hán. Có
chỗ nói cùng ngày ngài đi đến ở một chòi lá, và suy tư đến sự đau khổ phải nhẫn
chịu khi thọ sanh. Ngài phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán. Rồi sung
sướng được giải thoát, ngài nói lên bài kệ:
60. Nay những mục đích
ấy,
Với ta, đã thành tựu,
Vì những mục đích ấy,
Ta bước vào ngôi chòi,
Minh, giải thoát, ta đạt.
Mạn tùy miên từ bỏ.
Với ta, đã thành tựu,
Vì những mục đích ấy,
Ta bước vào ngôi chòi,
Minh, giải thoát, ta đạt.
Mạn tùy miên từ bỏ.
0 Komentar