Phẩm Bảy
(LXI) Vappa (Thera. 9)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở Kapilavàthu, con Bà-la-môn Vàsetha. Khi nghe Tu sĩ Asìta đoán tướng Thái tử Siddhatta sẽ thành đạo, Vappa cùng bốn người con
Bà-la-môn với Kondannà (Kiều Trần Như) là người dẫn đầu, trở thành
những người Tu sĩ. Khi Thái tử tu khổ hạnh trong sáu năm, Vappa với bốn người bạn cùng đồng tu khổ hạn. Về sau khi Thái tử thôi tu
khổ hạnh, năm vị này chán nản đi về Isipatana.
Sau khi đức Phật thành đạo và Chuyển pháp luân ở Isapatana, Vappa với bốn người bạn được cảm hóa và đến ngày thứ
năm cả năm vị đều chứng quả A-la-hán. Suy tư trên sự hùng lực của bậc Ðạo Sư,
sự mù quáng của thế giới, và như thế nào thánh quả đem lại chánh trí, ngài nói
lên bài kệ:
61. Vị đã thấy, thấy
được,
Người thấy, người không thấy,
Vị không thấy, không thấy,
Người không thấy, người thấy.
Người thấy, người không thấy,
Vị không thấy, không thấy,
Người không thấy, người thấy.
(LXII) Vajji-Putta (Thera. 10)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh trong một gia đình vị nghị sĩ và được gọi là con của Vajji. Ngài thấy uy nghi đức độ của bậc Ðạo Sư khi bậc Ðạo Sư đến Vesàli. Ngài khởi lòng tin và xuất gia sau thời kỳ làm
Sa-di, ngài ở trong một ngôi rừng gần Vesàli. Một ngày lễ được tổ
chức ở Vesàli có hát, có nhạc, có múa và mọi người hoan hỷ
tham gia ngày lễ, tiếng ồn làm vị Tỷ-kheo dao động. Ngài bỏ chỗ tịnh cư của
ngài, dừng nghỉ tu tập thiền quán và nêu rõ sự yểm ly của mình trong câu kệ:
Một mình chúng tôi sống,
Trong rừng núi hoang vu,
Như khúc gỗ bị quăng,
Bỏ rơi trong rừng núi,
Như vậy ngày tháng qua,
Ngày này tiếp ngày khác,
Còn có ai bất hạnh,
Hơn bất hạnh chúng tôi.
Trong rừng núi hoang vu,
Như khúc gỗ bị quăng,
Bỏ rơi trong rừng núi,
Như vậy ngày tháng qua,
Ngày này tiếp ngày khác,
Còn có ai bất hạnh,
Hơn bất hạnh chúng tôi.
Một Thiên nhân trong
rừng nghe vậy, thương xót vị Tỷ-kheo, nên đến trách vị Tỷ-kheo: 'Này Tỷ-kheo,
dầu Ông có khinh thường đời sống trong rừng núi, nhưng những vị sáng suốt muốn
sống thanh tịnh đều nói nhiều đến núi rừng'.
Thiên nhân ấy nói lên
bài kệ tán thán đời sống ở rừng núi:
62. Một mình chúng tôi
sống,
Trong rừng núi hoang vu,
Như khúc gỗ bị quăng,
Bỏ rơi trong rừng núi,
Nhưng nhiều người thương mến,
Ðời sống ấy của ta,
Như kẻ đọa địa ngục,
Ưa đón cảnh thiên giới.
Trong rừng núi hoang vu,
Như khúc gỗ bị quăng,
Bỏ rơi trong rừng núi,
Nhưng nhiều người thương mến,
Ðời sống ấy của ta,
Như kẻ đọa địa ngục,
Ưa đón cảnh thiên giới.
Rồi vị Tỷ-kheo, như con
ngựa hay được thúc đẩy, ngài triển khai thiền quán và chứng quả A-la-hán. Rồi
ngài nghĩ: 'Bài kệ của Thiên nhân đã thúc đẩy ta'. Và ngài đọc lại bài kệ ấy.
(LXIII) Pakkha (Thera. 10)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài được sanh thuộc dòng họ Thích-ca, thành Devadahi, trong gia đình vua chúa Thích-ca và được gọi là thanh niên Sangmoda. Nhưng khi còn nhỏ, ngài bị bệnh tê thấp, có khi bước đi như người
bị què, vì vậy được tên là Pakkha(vị què quặt) và giữ lại tên ấy. Sau khi ngài
lành bệnh, ngài có mặt khi đức Phật về thăm gia đình, ngài khởi lòng tin, xuất
gia và sống ở trong rừng. Một hôm vào làng khất thực, ngài ngồi dưới một gốc
cây, một con diều hâu ngoạm được miếng thịt, bay bổng trên trời cao, các con
diều hâu khác bay theo dành cướp lấy miếng thịt, thấy vậy, vị Tỷ-kheo suy nghĩ:
'Các dục ở đời cũng vậy, đầy những đau khổ'. Ngài triển khai thiền quán và
chứng quả A-la-hán, ngài nói lên bài kệ tuyên bố chánh trí của ngài:
63. Chúng rơi theo, sà
xuống,
Cái đang bị rơi xuống,
Với lòng tham thúc đẩy,
Chúng lại đến, đến nữa.
Bổn phận ta làm xong,
Ta vui thích sung sướng,
Với an lạc, đón mừng,
Ta đón mừng an lạc.
Cái đang bị rơi xuống,
Với lòng tham thúc đẩy,
Chúng lại đến, đến nữa.
Bổn phận ta làm xong,
Ta vui thích sung sướng,
Với an lạc, đón mừng,
Ta đón mừng an lạc.
(LXIV) Vimala- Kondanna (Thera. 10)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài được sanh là con của Ambapàli và thân phụ ngài là vua Bimbisàra. Ambapàli đặt tên con là Vimala và sau ngài được biết với tên là Vimala-Kondanna. Ngài chịu ảnh hưởng bởi uy nghi đức độ của bậc
Ðạo Sư, xuất gia và chứng quả A-la-hán, ngài tuyên bố chánh trí của ngài trong
bài kệ này:
64. Dưới cờ trắng ta
sanh,
Từ nàng tên một cây,
Với cờ đánh đổ cờ,
Lá cờ lớn hủy diệt.
Từ nàng tên một cây,
Với cờ đánh đổ cờ,
Lá cờ lớn hủy diệt.
(LXV) Ukkhepakàta vaccha (Thera. 10)
Trong thời đức Phật tại
thế, ngài sanh ở Sàvatthi (Xá-vệ) con một Bà-la-môn thuộc dòng họ Vaccha. Ngài nghe Thế Tôn thuyết pháp phát tâm xuất gia, sống tại một
làngKosala. Nhờ các Tỷ-kheo đến thăm, ngài thâm hiểu Chánh pháp, nhưng
ngài không phân biệt được Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng. Tuy vậy ngài học
hỏi được từ tôn giảSàriputta, nên có các vị Tỷ-kheo giỏi về Luật tạng
hay một bộ phận của ba Tạng, ngài học thuộc lòng cả ba Tạng, trước khi ba Tạng
được kiết tập. Sau khi thuộc lòng cả ba Tạng, ngài chứng quả A-la-hán, trở
thành vị giảng dạy giáo lý. Một hôm, ngài nói với chính mình như với một người
khác trong bài kệ sau đây:
65. Tài sản được chất
chứa,
Trải nhiều tháng nhiều năm,
Do Vaccha tác thành,
Nay Vaccha quăng bỏ,
Ngài thuyết giảng như vậy,
Cho các hàng cư sĩ,
Khéo ngồi chỗ trịnh trọng,
Tâm hân hoan rộng lớn.
Trải nhiều tháng nhiều năm,
Do Vaccha tác thành,
Nay Vaccha quăng bỏ,
Ngài thuyết giảng như vậy,
Cho các hàng cư sĩ,
Khéo ngồi chỗ trịnh trọng,
Tâm hân hoan rộng lớn.
(LXVI) Meghiya (Thera. 10)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở Kapilavatthu, trong gia đình một hoàng tộc Thích-ca, được
đặt tên là Meghiya (như mây). Lớn lên, ngài xuất gia hầu hạ Thế
Tôn, khi Thế Tôn ở Càlikà, trên bờ sông Kimikàlà. Khi thấy một rừng xoài xinh đẹp, ngài muốn sống tại đấy, nhưng
hai lần Thế Tôn không chấp nhận, cuối cùng trước lời yêu cầu khẩn khoản, Thế
Tôn cho phép. Nhưng ở đấy vì tâm tư bất thiện không chế ngự được, vì bị ruồi
muỗi cắn, nên tâm ngài không được định tĩnh và ngài lại về hầu hạ Thế Tôn.
Thế Tôn dạy:
Này Meghiya, khi tâm chưa chín muồi để giải thoát, năm pháp đưa đến tâm trạng
ấy và bậc Ðạo Sư giáo giới cho ngài. Nhờ đấy Meghiya chứng quả A-la-hán và
nói lên chánh trí của mình trong bài kệ này:
66. Bậc Ðại hùng giảng
dạy,
Vượt qua tất cả pháp,
Ta nghe pháp Ngài dạy,
Sống hoan hỷ cạnh Ngài,
Ba minh đã chứng đạt,
Lời Phật dạy làm xong.
Vượt qua tất cả pháp,
Ta nghe pháp Ngài dạy,
Sống hoan hỷ cạnh Ngài,
Ba minh đã chứng đạt,
Lời Phật dạy làm xong.
(LXVII) Ekadhamma Savannìya (Thera. 10)
Trong thời đức Phật tại
thế, ngài sanh ở Sitavyà, trong gia đình một vị nghị sĩ. Khi Thế Tôn đến
thăm Sitavyà, và ở tại rừng Singsapa, ngài đến nghe Thế Tôn giảng, đảnh lễ ngồi
xuống một bên, Thế Tôn hiểu được tâm tư ngài, dạy pháp cho ngài với câu kệ:
'Các hành là vô thường'.
Và ngài nhờ ảnh hưởng
đời trước, thấy sự thật rõ ràng hơn, xuất gia tìm học nghĩa chữ đau khổ, nghĩa
chữ vô ngã, triển khai thiền quán và chứng quả A-la-hán. Vì ngài chỉ nghe một
pháp và chỉ nghe một mình mà chứng được thánh quả, nên ngài được tênEkadhamma
Savanìya (vị được nghe một pháp),
ngài tuyên bố chánh trí trong bài kệ như sau:
67. Phiền não ta đốt
cháy,
Mọi hữu được nhổ lên,
Ðường luân hồi đoạn tận,
Nay không còn tái sanh.
Mọi hữu được nhổ lên,
Ðường luân hồi đoạn tận,
Nay không còn tái sanh.
(LXVIII) Ekudàniya (Thera. 10)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh làm con một vị nghị sĩ giàu có. Khi lớn lên, ngài thấy được uy
đức của đức Phật khi được dâng cúng rừng Jeta (Kỳ Viên), ngài xuất gia
từ bỏ gia đình, làm bổn phận người Sa-di, sống trong rừng, ngài đến đức Phật để
học hỏi. Khi ấy Thế Tôn thấy Sàriputta đang ngồi thiền định gần ngài nên nói lên câu kệ
này:
'Tâm tăng thượng ẩn sĩ'.
Ngài nghe câu kệ này,
nên về rừng sâu chỉ lập đi lập lại câu kệ này, đến nỗi người ta đặt tên ngài là Ekuddàniyo (vị thuộc một câu kệ).
Một ngày kia, tâm tư
ngài được định tĩnh với thiền quán triển khai, ngài chứng quả A-la-hán sống
trong an lạc giải thoát, ngài được Tôn giả Sàriputta mời đến để trình bày sự
thành đạt của mình, ngài nói lên bài kệ này:
68. Tâm tăng thượng ẩn
sĩ,
Không phóng dật, tu tập,
Trên con đường chánh trí,
Vị ấy không sầu muộn,
Luôn luôn được an tịnh,
Thường nắm giữ chánh niệm.
Không phóng dật, tu tập,
Trên con đường chánh trí,
Vị ấy không sầu muộn,
Luôn luôn được an tịnh,
Thường nắm giữ chánh niệm.
Bài kệ này trở thành lời
tuyên bố chánh trí của ngài.
(LXIX) Channa (Thera. 10)
Khi Thế Tôn còn sống trong
gia đình vua Suddhodana (Tịnh Phạn), ngài xuất thân từ con một người nô
lệ và được đặt tên là Channa. Sống đồng thời với đức Phật, ngài khởi lòng
tin đức Thế Tôn, khi bậc Ðạo Sư về thăm lại gia đình, rồi ngài xuất gia. Vì
lòng thương mến Thế Tôn, vì tự phụ tự đắc đối với 'đức Phật của chúng ta, giáo
pháp của chúng ta' ngài không thể chinh phục khuyết điểm này và không làm tròn
bổn phận của một người Sa-di, khi Thế Tôn mệnh chung, theo lời dặn của Thế Tôn
cần phải phạt nặng Channa, ngài xấu hổ, chế ngự được khuyết điểm này,
không bao lâu chứng quả A-la-hán. Sung sướng với quả chứng của mình, ngài nói
lên sự sung sướng của mình trong bài kệ như sau:
69. Sau khi nghe Chánh
pháp,
Vị ngọt lớn pháp lớn,
Do nhất thiết thắng trí,
Thuyết giảng và trình bày,
Ta dấn thân trên đường,
Ðường đưa đến bất tử,
Ngài thật bậc thiện xảo,
Con đường diệt khổ ách.
Vị ngọt lớn pháp lớn,
Do nhất thiết thắng trí,
Thuyết giảng và trình bày,
Ta dấn thân trên đường,
Ðường đưa đến bất tử,
Ngài thật bậc thiện xảo,
Con đường diệt khổ ách.
(LXX) Punna (Thera. 11)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở nước Sunàparanta, tại hải cảng Suppàraka, trong nhà một thị dân tên Punna (Phú-lâu-na). Ðến tuổi
trưởng thành, ngài đi với một đoàn thương gia đến Sàvatthi, khi bậc Ðạo Sư cũng ở đấy. Ngài đi nghe Thế Tôn thuyết pháp tại
ngôi tinh xá cùng với các cư sĩ địa phương, ngài khởi lòng tin rồi xuất gia. Và
trong một thời gian, ngài rất được quý mến giữa các vị giáo thọ sư, bởi ngài
tài giỏi về biện luận. Một ngày kia, ngài đến bậc Ðạo Sư, nhờ bậc Ðạo Sư giảng
dạy để có thể điSunàparanta giảng dạy và an trú tại đấy. Ðức Phật rống tiếng rống con sư tử
bảo ngài: 'Này Punna, có những pháp do con mắt nhận thức....' Rồi Punna ra đi, tu tập thiền định trí tuệ, chứng được Ba minh. Khi ngài
chứng quả A-la-hán, ngài giáo hóa được nhiều người theo đạo, hơn năm trăm nam
cư sĩ và nữ cư sĩ.
Khi ngài sắp mệnh chung.
Ngài nói lên chánh trí của ngài với bài kệ như sau:
70. Ở đây chỉ có giới,
Là pháp thật tối thượng,
Nhưng vị nào có tuệ,
Vị ấy là vô thượng,
Vị đủ giới và tuệ,
Chiến thắng giới Nhân, Thiên.
Là pháp thật tối thượng,
Nhưng vị nào có tuệ,
Vị ấy là vô thượng,
Vị đủ giới và tuệ,
Chiến thắng giới Nhân, Thiên.
0 Komentar