Chương XXII
Đại Phẩm
Đại Phẩm
-ooOoo-
538.
Chuyện Vương tử què câm (Tiền thân Mùga-Pakka)
Con ơi đừng lộ trí thông minh...,
Chuyện
này bậc Ðạo Sư kể tại Jetavana (Kỳ Viên) về Ðại sự Xuất thế của Ngài.
Một
ngày nọ, các Tỷ-kheo ngồi tại Chánh pháp đường tán thán công hạnh xuất
gia cao cả của đức Thế Tôn. Khi đức Thế Tôn đến hỏi các Tỷ-kheo đang ngồi bàn
luận đề tài gì, và khi được biết đề tài ấy, Ngài bảo:
- Không đâu, này các Tỷ-kheo, việc xuất
thế của ta ngày nay, sau khi từ bỏ ngai vàng, không có gì kỳ diệu, khi Ta đã thành tựu đầy đủ Thập Ba-la-mật (Mười
Hạnh Viên mãn của Bồ-tát). Vì trước kia, ngay khi trí Ta chưa thành tựu và Ta đang tinh tấn đạt đến các Hạnh
Viên mãn, Ta đã rời bỏ ngai vàng và xuất thế.
Rồi
theo lời thỉnh cầu của các Tỷ-kheo, Ngài kể một câu chuyện quá khứ.
*
Ngày
xưa có một vị vua tên là Kàsiràja trị vì quốc độ rất đúng pháp tại Ba-la-nại. Ngài có mười sáu
ngàn phi tần, nhưng không bà nào có con cả. Quần thần họp lại (như trong Tiền
thân Kusa) bảo nhau:
-
Chúa thượng không có con trai nối dõi.
Rồi
họ xin nhà vua cầu tự. Nhà vua ra lệnh cho mười sáu ngàn phi tần cầu tự, nhưng
dù họ thờ phượng và cầu tự thần mặt trăng và nhiều thần linh khác, họ vẫn không
có con.
Lúc
bấy giờ Chánh cung vương hậu Candà, con gái nhà vua thuộc dòng họ Madda, vốn
chuyên tâm làm các việc thiện, vua liền bảo bà cũng phải cầu tự. Thế là vào một
ngày rằm trăng tròn, bà thọ giới Uposatha (Bố-tát giới) và trong khi nằm trên
chiếc giường nhỏ, suy gẫm về cuộcđời đức hạnh của bà, bà thực hiện một lời cầu
nguyện Chân lý như sau:
-
Nếu ta chưa bao giờ phạm các giới luật thì hãy vì lòng thành của lời cầu nguyện
này, xin ban cho ta một đứa con trai.
Vì
uy lực của lòng thành này, cung thất của Thiên chủ Sakka (Ðế Thích) nóng rực
lên. Thiên chủ Sakka, sau khi xem xét và xác định rõ nguyên cớ xong, liền bảo:
-
Vương hậu Candà đang cầu tự, ta sẽ cho
bà thỏa nguyện.
Vì
thế trong khi Thiên chủ tìm một đứa con xứng đáng cho
bà, chợt trông thấy Bồ-tát.
Lúc
bấy giờ Bồ-tát, sau khi trị vì hai mươi năm tại Ba-la-nại, đã tái sinh vào ngục
Ussada và chịu đọa đày trong tám vạn
năm, rồi lại hóa sinh vào cõi trời Ba mươi ba.
Sau
khi kỳ hạn ở đó đã mãn, ngài mạng
chung và ước mong lên các thiên giới cao hơn. Thiên chủ Sakka đến bảo ngài:
-
Này Hiền giả, nếu Hiền giả sinh vào thế giới loài người, Hiền giả sẽ thành tựu đầy đủ các hạnh Ba-la-mật và sẽ làm lợi lạc quần
sinh. Hiện nay chánh hậu Candà đang cầu tự, xin hãy
nhập mẫu thai của bà.
Ngài
bằng lòng và được năm trăm vị Thiên
tử hộ tống, ngài nhập mẫu thai của chánh hậu, còn năm trăm vị Thiên tử được cưu mang trong lòng các phu nhân của các
quan đại thần. Tử cung của chánh hậu như chúa đầy kim
cương. Khi nhận thấy thế, bà liền tâu chuyện với vua. Ngài ra lệnh chăm sóc
thật chu đáo cho hài nhi sắp chào đời được mọi sự bình an, và cuối cùng bà hạ sinh một hoàng nam đầy đủ mọi tướng tốt lành. Cùng ngày ấy, năm
trăm hài nhi quý tộc ra đời trong dinh các quan.
Vào lúc đó, nhà vua ngự trên bệ
rồng, quần thần vây quanh thì có kẻ trình lên:
-
Tâu Ðại vương, một vương tử vừa ra đời.
Vua
nghe vậy, tình phụ tử khởi lên, xuyên suốt da thịt ngài đến tận xương tủy, lòng ngài rộn rã niềm vui,
ngài thấy như trẻ lại. Ngài hỏi quần thần:
-
Các khanh có hoan hỷ khi nghe vương tử được sinh không?
Quần
thần đều đáp:
-
Sao Ðại vương lại bảo thế? Trước đây chúng thần thật bơ vơ, nay đã có nơi nương tựa, chúng thần đã có một vị chúa tể.
Vua
ra lệnh cho vị tể tướng:
-
Hãy chuẩn bị một đám hầu cận cho con ta,
hãy xem số hài nhi công tử vừa ra đời hôm nay là bao nhiêu?
Vị
này xem thấy đủ năm trăm, liền trình
lên. Vua ban năm trăm vương bào danh dự cho năm trăm công tử ấy cùng năm trăm
nhũ mẫu.
Ngài
lại ban sáu mươi bốn nhũ mẫu cho Bồ-tát, những người này không được có khuyết điểm nào như quá cao, quá gầy
v.v... Ngực không xệ xuống, và phải đầy sữa ngọt. Nếu một hài nhi bú sữa trong lòng một nhũ mẫu quá
cao, thì cổ hài nhi sẽ bị dài ra, nếu bú sửa trong lòng một nhũ mẫu quá thấp
thì xương vai hài nhi sẽ bị co lại. Nếu nhũ mẫu quá gầy thì đùi hài nhi sẽđau nhức, nếu quá thô kệch thì hài
nhi sẽ bị chân cong; cơ thể của một nhũ mẫu da đen sẽ quá lạnh; thân của nhũ mẫu da trắng sẽ
quá nóng; hài nhi nào bú sữa của một nhũ mẫu ngực cao quá sẽ bị đầu mũi tẹt; một số nhũ mẫu lại có sữa chua, sữa
đắng, v.v...
Vì
vậy để tránh mọi khuyết điểm trên, vua gởi đến sáu mươi nhũ mẫu có sữa ngọt và không bị
khuyết điểm nào; và sau khi
ngợi khen Bồ-tát với đủ lời tán tụng, ngài
cũng ban cho vương hậu một điều ước. Bà thọ lãnh ân
huệ đó và ghi nhớ trong lòng.
Ðến
ngày đặt tên cho hài nhi, triều thần ca ngợi các vị
Bà-la-môn đã thấy được những điềm lành khác nhau, cùng hỏi xem họ
có thấy điềm bất tường nào
chăng. Các Bà-la-môn chiêm ngưỡng vẻ đẹp tuyệt vời của thân tướng ngài, đồng nói:
-
Tâu Hoàng thượng, thái tử có đầy đủ mọi tướng mạo của
phúc phận mai sau, ngài sẽ có tài cai trị không những một châu mà cả bốn châu
thiên hạ, ngoài ra không có điềm bất tường nào khác.
Vua đầy hoan hỷ, đặt tên con là Temiya-Kumàro vì
ngày sinh ra vương tử, trời mưa khắp cả vương quốc Kàsi và vương tử sinh ra đã bị ướt đầm.
Khi
vương tử đầy tháng, ngài được chưng diện thật đẹp và đem vào yết kiến vua. Nhìn đứa con yêu, vua liền ôm vào lòng chơi đùa với con. Cùng lúc ấy, có bốn tên cướp được đưa đến trước mặt vua; một trong bốn tên đó bị ngài xử phạt một ngàn roi quấn gai nhọn,
một tên khác phải bị gông cùm xiềng xích, một tên nữa phải bị đâm bằng giáo, và tên cuối cùng bị đâm cọc xuyên suốt toàn thân. Bồ-tát nghe vua
cha nói, kinh hãi nghĩ thầm: "Ôi cha ta vì làm vua mà mang lấy những ác
nghiệp khiến cho người phải đọa địa ngục".
Ngày
hôm sau ngài được đặt nằm trên một
chiếc giường lộng lẫy che lọng trắng. Khi ngài tỉnh dậy sau một giấc ngủ ngắn,
mở mắt nhìn lên lọng trắng cùng vẻ nguy nga của hoàng cung, nỗi kinh hãi càng
tăng lên, ngài tự hỏi: "Từ đâu ta lại đến cung
này?", và hồi tưởng lại các đời trước, ngài nhớ ra rằng xưa kia ngài đã đi từ thế giới chư Thiên và đã chịu đọa đày ở địa ngục, rồi ngài cũng đã làm vua trong chính kinh thành này.
Trong
lúc ấy, ngài suy nghĩ: "Ta đã làm vua hai mươi năm,
rồi chịu đọa đày tám vạn năm ở ngục Ussada, bây giờ ta lại sinh vào ngôi nhà có
trộm cướp này, và cha ta, khi thấy bốn tên cướp được đưa vào, đã thốt ra những lời ác độc khiến người phải đọa địa ngục. Nếu ta làm vua, ta cũng sẽ lại
bị đọa vào địa ngục và chịu khổ hình".
Ngài
vô cùng kinh hãi, thân thể vàng óng của ngài tái nhợt đi và héo úa như đóa sen bị giày vò trong tay, ngài nằm suy nghĩ
tìm cách thoát khỏi ngôi nhà đầy kẻ cướp này.
Lúc
ấy vị nữ thần trong chiếc lọng, ở một kiếp xa xưa nào đó đã là mẹ của ngài, hiện ra an ủi ngài:
-
Này con Temiya của ta, con đừng sợ hãi, nếu con
thật sự muốn thoát khỏi đây, con cứ giả vở què
dù con không thực què, cứ giả điếc dù con không thực
sự điếc, cứ giả vờ câm dù con không thực sự câm. Cứ
khoác lên mình những dị tật đó, đừng lộ chút dấu
hiệu thông minh nào cả.
Rồi
bà ngâm vần kệ thứ nhất:
1. Con
ơi, đừng lộ trí thông minh,
Cứ giả ngu đần trước chúng sinh,
Hãy chịu khinh khi từ tất cả,
Cuối cùng con đạt đến quang minh.
Cứ giả ngu đần trước chúng sinh,
Hãy chịu khinh khi từ tất cả,
Cuối cùng con đạt đến quang minh.
Ðược
lời an ủi của bà, ngài ngâm vần kệ thứ hai:
2. Con
sẽ làm theo ý nữ thần,
Những lời mẹ dạy quý vô ngần,
Mẹ hiền ước muốn con an lạc,
Mẹ chỉ mong con hưởng phước ân.
Những lời mẹ dạy quý vô ngần,
Mẹ hiền ước muốn con an lạc,
Mẹ chỉ mong con hưởng phước ân.
Vì
thế ngài thực hiện ngay ba ác tật trên. Vua muốn con trai khỏi buồn, liền bảo đem năm trăm công tử đến bên ngài. Những hài nhi
này bắt đầu khóc đòi bú, nhưng
Bồ-tát vì sợ đọa địa ngục, nghĩ rằng thà
chết khát còn hơn làm vua, nên không khóc. Các nhũ mẫu tâu chuyện đó với vương hậu, và lại tâu lên vua, vua liền
cho mời các Bà-la-môn giỏi tướng số đến hỏi ý. Họ đáp:
-
Tâu Ðại vương, xin ngài hãy cho vương tử bú sau thời hạn qui định, vương tử sẽ khóc rồi ngậm chặt vú để bú
tùy thích.
Thế
rồi họ cho vương tử bú sau một thời hạn qui định, có khi họ để thời hạn qui định quá một lần, có khi cả ngày
họ không cho ngài bú sữa. Nhưng ngài sợ đọa địa ngục nên dù khát cũng không khóc đòi bú. Thế rồi mẹ ngài cùng các nhũ mẫu cứ cho
ngài bú, dù ngài không khóc, họ bảo:
-
Hài nhi đói lả rồi.
Các
hài nhi khác khóc la khi chưa bú, nhưng ngài không khóc, không ngủ, cũng không
co duỗi tay chân, cũng không tỏ ra nghe được tiếng động nào. Thế là các nhũ mẫu suy nghĩ: "Tay chân
người què không giống thế này, hình dáng quai hàm người câm không giống thế
này, hình dáng tai kẻ điếc cũng không phải thế
này, chắc phải có lý do gì đây, chúng ta phải xem
kỹ ra sao".
Vì
vậy họ quyết định lấy sữa thử ngài,
cả ngày họ không cho ngài bú, nhưng dù khát khô cổ họng, ngài vẫn không thốt
một tiếng kêu đòi bú. Sau đó mẹ ngài nói:
-
Con ta đói lả rồi. Hãy cho nó
bú.
Và
bà bảo họ cho ngài bú. Như vậy thỉnh thoảng họ cho ngài bú để thử ngài suốt năm trường nhưng vẫn không khám
phá ra chỗ yếu của ngài. Rồi họ bảo nhau:
-
Trẻ con thường thích bánh kẹo và của ngon vật lạ ta hãy đem ra thử hài nhi này xem.
Họ đặt năm trăm ấu nhi cạnh ngài , đem đủ cao lương mỹ vị đến, bảo các ấu nhi lựa
món ăn tùy thích rồi họ lánh mặt đi. Các trẻ kia gây gỗ đánh nhau rồi chụp giựt bánh kẹo ăn, nhưng
Bồ-tát tự nhủ: "Này Temiya, cứ ăn bánh kẹo cùng cao lương mỹ vị đó nếu ngươi muốn xuống địa ngục". Rồi vì
sợ đọa địa ngục, ngài không muốn nhìn các thức ăn nữa. Và cứ thế dù họđem kẹo bánh, cao lương
mỹ vị ra thử ngài cả năm ròng, họ cũng không khám phá chỗ yếu của ngài.
Sau đó họ lại bảo:
-
Trẻ con thường thích đủ loại trái cây.
Và
họ đem đủ thứ trái cây ra thử ngài. Các trẻ kia đòi ăn trái cây nhưng ngài không buồn nhìn chúng và cứ thế suốt năm
ròng họ đem trái cây đủ loại ra
thử ngài. Rồi họ lại bảo:
-
Trẻ con thích đồ chơi.
Thế
là họ đem đồ chơi bằng vàng, các hình voi ngựa v.v... đến gần ngài. Các trẻ kia giành nhau như thể đoạt chiến lợi phẩm, nhưng Bồ-tát không buồn
nhìn đến chúng và cứ thế suốt cả năm ròng họ đem đồ chơi ra thử ngài. Rồi họ lại bảo nhau:
-
Có một thức ăn đặt biệt đối với một
trẻ lên bốn, ta thử xem sao.
Thế
là họ đem ra đủ loại thức ăn, các trẻ kia bẻ chúng ra
từng miếng ăn ngay, nhưng Bồ-tát tự nhủ: "Này Temiya, trong quá khứ đã có vô số kiếp mà ngươi chẳng được ăn uống gì cả". Và vì sợ đọa địa ngục ngài chẳng nhìn các món ăn, cho đến khi lòng mẹ ngài muốn tan nát ra vì đau khổ, chính tay bà phải cho ngài ăn.
Sau đó họ bảo nhau:
-
Trẻ con năm tuổi thường sợ lửa, ta hãy thử xem sao.
Rồi
họ bảo làm một ngôi nhà lớn có nhiều cửa, che bằng lá cây tala (cọ dừa), họ đặt ngài giữađám trẻ con rồi nổi lửa lên. Ðám
trẻ la hét chạy trốn, nhưng Bồ-tát tự nhủ thế này còn hơn các khổ hình ở địa ngục. Vì vậy ngài hoàn toàn ngồi yên như thể
vô tri giác nên khi lửa đến gần, họ đành mang
ngài đi nơi khác.
Sau đó họ bảo nhau:
-
Trẻ con sáu tuổi thường sợ voi lung.
Thế
là họ bảo luyện một con voi cho thuần tính, rồi họ để Bồ-tát ngồi cùng đám trẻ trong sân rồng và thả voi ra. Voi rống
to, lấy vòi dậm đất thình thịch khiến ai
nấy khiếp đảm. Ðám trẻ chạy tứ tán vì sợ nguy đến tính mạng. Riêng Bồ-tát vì sợ địa ngục, vẫn ngồi yên. Con voi đãđược huấn luyện kỹ, nhấc ngài lên rồi đặt xuống và bỏ đi chứ không hại ngài.
Ðến
khi ngài được bảy tuổi, lúc ngồi
chơi có đám bạn ngồi vây quanh ngài, họ thả ra bầy rắnđã bị nhổ hết răng và
buột miệng chặt lại, bọn trẻ la hét bỏ chạy, nhưng Bồ-tát nhớ lại những nỗi
kinh hoàng ở địa ngục, nên vẫn ngồi
yên, tự nhủ: "Thà chết vì miệng rắn độc còn tốt hơn". Rồi bầy rắn vây quanh thân ngài và cuộn
vòng tròn trên đầu ngài nhưng ngài vẫn
ngồi bấtđộng. Cứ thế họ thử ngài mãi nhưng vẫn không khám phá ra chỗ yếu của
ngài. Sau đó họ bảo nhau:
-
Thiếu nhi thường thích hội hè.
Thế
là họ đem ngài vào sân rồng cùng năm trăm trẻ kia và
cho một bầy hề họp lại làm trò. Lũ trẻ thấy bầy hề liền la hét cổ võ và cười đùa vang dội, nhưng Bồ-tát tự nhủ thầm, nếu ngài
thác sinh vào địa ngục sẽ không bao
giờ được một phút cười vui, nên ngài vẫn ngồi yên, suy nghĩđến địa ngục và
không hề để mắt đến đám hề nhảy múa.
Họ cứ thử ngài như thế mãi, vẫn không tìm ra chỗ yếu của ngài. Rồi họ bảo nhau:
-
Ta hãy lấy kiếm ra thử xem sao.
Thế
là họ đặt ngài ngồi giữa sân rồng trong khi đám trẻ đang chơi đùa, bỗng một người đàn ông chạy vụt qua bọn chúng, vung kiếm sáng
loáng như gương vừa nhảy vừa la to:
-
Con quỷ của vua Kàsi đâu rồi, ta sẽ cắt đầu
nó đây.
Ðám
trẻ thấy vậy kinh hãi chạy trốn, la hét ầm ỹ. Nhưng Bồ-tát đã suy nghĩ nhiều về những nỗi kinh hoàng ở địa ngục, nên vẫn ngồi yên bất động như thể vô tri giác, dù người đó cọ xát thanh kiếm trên đầu ngài và dọa cắt cổ, cũng không làm ngài kinh
hoàng, nên cuối cùng gã phải bỏ đi. Thế là dù thử ngài
nhiều lần như thế, họ vẫn không tìm ra điểm yếu của ngài.
Khi
ngài lên mười tuổi, họ muốn thử xem ngài có điếc thật không, liền treo một cái màn quanh giường, có đục lỗ bốn phía và đặt ống thổi hơi bằng vỏ ốc dưới đó mà không cho
ngài biết. Họđồng loạt thổi qua vỏ ốc bật ra một tiếng vang ầm ỹ, nhưng đám
quần thần dù đứng cả bốn phía nhìn
xuyên qua những lỗ trên màn suốt ngày vẫn không tìm ra được một dấu hiệu ngài bị rối trí hay cựa quậy
tay chân, ngay cả một cái giật mình cũng không có.
Một
năm ròng trôi qua như vậy, rồi họ lấy trống thử một năm nữa vẫn không khám phá
ra điểm yếu của ngài.
Sau đó họ bảo:
-
Ta lấy đèn ra thử xem.
Thế
là để thử xem trong đêm tối ngài có cử động tay chân không, họ thắp đèn trong các bình
thủy tinh sau khi đã tắt hết mọi đèn khác. Họ dấu các đèn thủy tinh trong bóng tối một lát rồi thình
lình giơ cao các ngọn đèn ấy lên, tạo ra một
luồng sáng lòa đồng loạt để xem cử chỉ
ngài ra sao. Nhưng dù họ thử ngài như vậy cả năm trời, họ vẫn không thấy ngài
giật mình lần nào cả.
Thế
rồi họ bảo nhau:
-
Ta lấy mật mía thử xem sao.
Và
họ bôi mật mía khắp thân ngài, đặt ngài vào một nơi đầy ruồi nhặng rồi xua chúng ra. Chúng bu đặc
trên thân ngài và chích ngài như kim châm nhưng ngài vẫn nằm như thể vô tri
giác. Cứ thế suốt năm ròng họ thử ngài nhưng vẫn không khám phá ra nhược điểm nào.
Ðến
năm ngài lên mười bốn tuổi, họ bảo nhau:
-
Bây giờ đã lớn rồi, thiếu niên
này chỉ thích sạch sẽ và ghét dơ bẩn, vậy ta lấy đồ dơ ra thử xem.
Thế
là từ đó họ không cho ngài tắm rửa, súc miệng hay tẩy
uế thân thể cho đến khi ngài bị đẩy vào một tình cảnh vô cùng khốn khổ như tên
tù giam lỏng.
Khi
ngài nằm mình mẩy đầy ruồi nhặng, mọi
người vây quanh nhạo báng ngài:
-
Này Temiya, cậu đã lớn rồi, còn ai hầu
hạ cậu nữa, cậu không hổ thẹn sao cứ nằm đó mãi, dậy và tắm rửa cho sạch sẽ".
Nhưng
ngài nhớ lại những nỗi thống khổ đọa đày ở địa ngục Gù tha (Phân
dơ) nên ngài vẫn nằm bất động trong tình trạng dơ
bẩn khổ sở đó. Suốt năm trường họ
vẫn không tìm ra nhượcđiểm nơi ngài.
Sau đó họ đặt những chảo lửa dưới giường ngài, và
bảo nhau:
-
Khi vương tử bị lửa nóng hành hạ, sẽ không chịu nổi và sẽ tỏ dấu hiệu đau đớn quằn quại.
Những
vết bỏng dường như muốn nứt ra trên người ngài, nhưng ngài vẫn nhẫn nhục tự
nhủ: "Lửa ở địa ngục Avìci (A-tỳ hay
Vô gián) tỏa lan ra cả trăm dặm, chứ ngọn lửa này còn dễ chịu hơn trăm, ngàn
lần". Vì thế ngài nằm bất động. Vua cha và vương
hậu lòng đau như cắt, bảo đám cận
thần trở lại đem ngài ra khỏi lửa và năn nỉ ngài:
-
Này Temiya, ta biết con sinh ra không què quặt vì người què không thể có tay
chân mặt mày như con được. Ta đã sinh được con sau bao năm cầu tự, vậy con đừng làm
tuyệt dòng họ ta, hãy tránh cho ta khỏi bị sự chê trách của các vua trong cõi
Jambudìpa (Diêm-phù-đề, Ấn- Độ).
Nhưng
dù họ van xin thế nào đi nữa ngài vẫn nằm im
bất động như không nghe thấy gì. Thế là phụ vương và
mẫu hậu đành khóc lóc và bỏ đi.
Thỉnh
thoảng phụ vương hay mẫu hậu trở lại một mình van xin ngài như thế cả năm ròng
nhưng vẫn không khám phá ra nhược điểm của ngài.
Ðến
khi ngài lên mười sáu tuổi, họ suy nghĩ: "Dù què quặt câm điếc đi nữa, không ai lớn lên lại không thích
hưởng lạc, ghét điều bất lạc. Chuyện này đến thời hạn thì cũng tự nhiên như hoa nở đó thôi. Vậy ta sẽ bảo đóng tuồng cho con ta xem
thử sao". Vì thế họ triệu tập một số nữ nhân thật đẹp như tiên và giao hẹn rằng nàng nào làm được cho vương tử cười to hay gây cho ngài tư
tưởng dục vọng thì sẽ được tôn làm chánh hậu.
Rồi họ tắm cho ngài bằng nước thơm và trang điểm cho ngài thật đẹp như thiên thần, đặt ngài nằm trên long sàng ở trong một dãy cung
thất trang hoàng như các động tiên. Nội thất của
ngài được xông sực nức đủ mùi hương hoa, thuốc cao,
trầm, linh tửu đủ loại . . . và họ rút
lui.
Trong
lúc đó, đám nữ nhân cứ vây quanh ngài tìm cánh làm
vui lòng ngài với tiếng ca, điệu múa cùng những lời
lẽ êm dịu ngọt ngào, nhưng ngài nhìn chúng bằng trí tuệ tối thắng và bế hết hơi
thở vô ra vì sợ chúng đụng vào thân ngài, vì
thế là cơ thể ngài thành cứng đờ. Chúng không thế nào đụng vào ngài được, liền tâu với vua cha:
-
Cơ thể vương tử cứng đờ, ngài không phải là
người, mà có lẽ là quỉ dữ.
Như
vậy, cha mẹ ngài, dù trong mười sáu năm liền thử thách ngài bằng mười sáu cách
ghê rợn, cùng nhiều lối thử lặt vặt khác, cũng không thể nào khám phá chỗ yếu
của ngài. Thế là vua chađầy phẫn nộ, cho triệu tập đám thầy tướng số đến bảo:
-
Khi vương tử ra đời, các ngươi đã bảo là
vương tử tốt số có đủ mọi điềm lành và
không có dấu hiệu bất tường nào. Nhưng vương tử sinh ra đã què, câm, điếc. Thế là lời các ngươi khôngđúng sự thật.
Họ đồng đáp:
-
Tâu Ðại vương, không có gì các đạo sư của ngài không
thấy cả, nhưng chúng thần biết ngài sẽ buồn khổ ghê gớm ra sao nếu chúng thần
nói rằng hoàng nam do cả triều cầu tự này lại bạc phước, vì thế chúng thần
không nói ra điều đó.
-
Vậy phải làm thế nào đây?
-
Tâu Ðại vương, nếu vương tử ở lại trong cung sẽ có ba mối hiểm họa đe dọa tính mệnh củaÐại vương hoặc ngôi báu của
ngài hoặc cho Chánh hậu. Vậy thì thượng sách là xin cho vài con ngựa yếu hèn
buộc vào một cỗ xe thật xui xẻo rồi đặt vương tử lên đó, đưa qua cửa Tây
vàđem chôn vương tử trong nghĩa địa.
Vua đồng ý, vì sợ các hiểm họa sẽ xảy ra. Khi vương
hậu hay tin, và vội đến gặp vua:
-
Tâu Chúa thượng, Chúa thượng đã ban cho thần thiếp
một lời ước và thần thiếp vẫn chưa thỉnh nguyện, vậy giờ đây xin ban cho thiếp ân huệ đó.
-
Ái hậu cứ thỉnh cầu.
-
Xin Chúa thượng hãy trao ngôi báu cho con thiếp.
-
Không thể được, này ái hậu, con
trai của khanh quá bạc phước.
-
Nếu Chúa thượng không ban cho con trai thiếp cả đời, thì hãy cho con trai thiếp làm vua trong
bảy năm.
-
Không thể được đâu, ái khanh.
-
Vậy thì trong sáu, năm, bốn, ba, hai, một năm hoặc bảy tháng, sáu, năm, bốn,
ba, hai, một tháng hoặc nửa tháng.
-
Không thể được, ái khanh.
-
Thế thì bảy ngày vậy.
-
Thôi được rồi, ái hậu nhận lấy ân huệ này.
Thế
là vương hậu ra lệnh cho các cung nữ trang điểm vương tử thật lộng lẫy và cả kinh thành phải chưng bày thật đẹp mắt. Rồi một lệnh được truyền đi cùng với
tiếng trống vang dội:
-
Ðây là triều đại của thái tử Temiya.
Và
ngài được đặt trên mình voi đi ngất ngưỡng khắp kinh thành với chiếc lọng
trắng trên đầu. Khi trở về, ngài được đặt trên long sàng, vương hậu lại van xin
suốt đêm:
-
Vương tử Temiya con ơi, vì con trong mười sáu năm qua mẹ đã khóc than và không
hề ngủđược. Mắt mẹ đã khô ráo hẳn, lòng mẹ đã tan nát vì buồn phiền. Mẹ biết, con không thật què quặt câm điếc gì, đừng làm mẹ khốn khổ tuyệt vọng nữa.
Cứ
thế bà van xin ngài hết ngày này qua ngày khác trong năm hôm liền. Qua ngày thứ
sáu, vua triệu người quản xa Sunanda đến bảo:
-
Sáng sớm mai ngươi hãy cột vài con ngựa thật xấu xa vào một cỗ xe thật xui xẻo,
bỏ vương tử vào, đem ra cửa tây và đào một hố có bốn góc trong nghĩa địa, ném nó vào, lấy xẻng đập đầu nó và giết chết nó đi, rồi lấp đất lên thành một đống cao, xong tắm rửa sạch sẽ rồi trở về đây.
Ðêm
thứ sáu đó, vương hậu lại van
xin:
-
Con ơi , vua Kàsi đã ra lệnh ngày mai đem chôn con vào nghĩa địa, ngày mai chắc con phải chết rồi con ạ.
Khi
Bồ-tát nghe nói vậy, ngài nghĩ thầm rằng: "Này Temiya, hoạn nạn của ngươi
trong mười sáu năm đã mãn", và ngài vui mừng lắm nhưng lòng mẹ ngài dường
như tan nát thành hai mảnh. Tuy thế ngài không muốn gì với bà, sợ rằng ước
nguyện của ngài không thành tựu. Hếtđêm đó, mới sáng tinh sương người quản xa Sunanda đã lái cỗ xe đến trước cổng thành, vào hoàng cung tâu:
-
Xin Vương hậu chớ giận dữ, đây là lệnh của Ðại
vương.
Nói
xong trong khi vương hậu đang ôm con trong lòng,
gã lấy tay đẩy bà ra, nhấc hoàng tử
lên nhẹ như một đóa hoa và ra khỏi cung.
Hoàng hậu còn lại trong phòng đấm ngực than khóc thảm
thiết.
Khi đó Bồ-tát nhìn mẹ và nghĩ: "Nếu ta không
nói mẹ ta sẽ chết vì buồn phiền". Nhưng dù ngài định nói, ngài lại suy nghĩ: "Nếu ta nói
thì công phu của ta trong mười sáu năm sẽ trở thành tro bụi, còn nếu ta không
nói thì ta sẽ cứu được chính ta và cả cha
mẹ ta nữa".
Sau đó người quản xa nhấc ngài lên xe và bảo:
-
Ta sẽ lái xe qua cửa tây.
Nhưng
gã lại lái xe qua cửa đông, và bánh xe lăn
chạm mạnh vào bậc thềm. Bồ-tát nghe tiếngđộng nhủ thầm: " Ước nguyện của
ta đã đạt rồi". Lòng ngài càng hoan hỷ lên.
Khi
xe ra khỏi kinh thành, nó đã đi được chừng ba dặm nhờ các thần trợ lực, thì đến khoảng cuối một khu rừng mà người lái xe
tưởng như là nghĩa địa. Vì thế gã nghĩ rằng đây là chỗ thích hợp, gã liền quay xe ra khỏi đường cái, dừng bên đường, bước xuống, lấy hết đồ trang hoàng của
Bồ-tát cột thành một bó, đặt xuống đất rồi lấy
xẻng ra bắt đầu đào hố.
Lúc đó Bồ-tát nghĩ: "Ðây là lúc ta phải vận
dụng tận lực, mười sáu năm qua ta không hề cử động tay chân, không biết nay ta
có điều khiển chúng được chăng? Thế là ngài đứng dậy, chà xát tay phải với tay trái, tay trái với tay phải,
chà hai tay vào hai chân rồi quyết định bước ra khỏi xe. Khi chân ngài chạm đất, đất dội lên như cái túi da đầy khí và ngài sờ đuôi xe. Sau khi xuống xe, đi lui đi tới vài
vòng ngài cảm thấy đã dư sức đi như thế này trong một trăm dặm một ngày.
Rồi
ngài lại nghĩ: "Nếu gã lái xe chống đối ta, ta có đủ sức chống lại gã chăng?". Vì thế ngài cầm
lấy đuôi xe, nhấc nó lên như đồ chơi trẻ con và ngài tự nhủ: "Ta đủ sức chống lại gã". Khi ngài nhận thức điều này, lòng ngài khởi lên một ước muốn được trang hoàng cho thật đẹp. Vào lúc ấy, cung Thiên chủ Sakka (Ðế Thích)
nóng rực lên. Thiên chủ Sakka tìm ra duyên cớ, liền bảo:
-
Ước nguyện của Vương tử Temiya đã thành tựu rồi, ngài
muốn được trang hoàng cho đẹp. Ngài có cần gì đồ trang sức của hạ giới?".
Vì
thế Thiên chủ truyền Thiên thần Vissakamma đem đồ trang sức thiên giới ra tô điểm cho con trai vua Kàsi. Vị này quấn lên mình
vương tử cả vạn tấm vải vóc tua tỏ và trang điểm ngài bằng đủ loại trang sức của
thiên đình lẫn hạ giới, chẳng khác nào Thiên chủ
Sakka. Vương tửđược điểm tô đủ mọi oai nghi lộng lẫy của một vị Thiên chủ, đi đến bên bờ hố mà người lái xeđang đào, vừa đứng vừa ngâm vần kệ thứ ba:
3. Sao
chú lái xe lại vội vàng
Bới đào hố nọ ở bên đàng,
Trả lời câu hỏi ta thành thật:
Ngươi muốn làm gì hố ấy chăng?
Bới đào hố nọ ở bên đàng,
Trả lời câu hỏi ta thành thật:
Ngươi muốn làm gì hố ấy chăng?
Người
lái xe vẫn tiếp tục đào hố không ngước mắt
lên nhìn và ngâm vần kệ thứ tư:
4. Chúa
thượng của ta thấy thiếu nhi
Bi què, câm, điếc, thật ngu si,
Nên ta được lệnh đi đào hố
Chôn bỏ chàng cho rảnh mắt đi.
Bi què, câm, điếc, thật ngu si,
Nên ta được lệnh đi đào hố
Chôn bỏ chàng cho rảnh mắt đi.
Bồ-tát đáp lời:
5. Hiền hữu, ta không bị điếc câm,
Và ta cũng chẳng bị què chân,
Nếu chôn ta ở trong rừng rậm,
Ngươi sẽ phạm vào tội sát nhân.
6. Hãy ngắm tay chân đây của ta,
Và nghe giọng nói thốt lời ra:
Ngươi sẽ, hôm nay, mang trọng tội
Nếu chôn ta ở chốn rừng già.
Và ta cũng chẳng bị què chân,
Nếu chôn ta ở trong rừng rậm,
Ngươi sẽ phạm vào tội sát nhân.
6. Hãy ngắm tay chân đây của ta,
Và nghe giọng nói thốt lời ra:
Ngươi sẽ, hôm nay, mang trọng tội
Nếu chôn ta ở chốn rừng già.
Lúc đó người lái xe hỏi:
-
Ai đấy? Chỉ từ lúc ta tới đây người mới lộ nguyên
hình như người tả.
Vì
thế gã dừng đào hố, ngước mắt lên
chiêm ngưỡng dung mạo sáng ngời của ngài, gã không biết ngài là người hay thần
thánh liền ngâm kệ:
7.
Chàng là nhạc sĩ hoặc Thiên thần,
Hay chính Sak-ka Thiên chủ chăng?
Xin nói là con ai đấy nhỉ,
Tên gì ta sẽ gọi danh xưng?
Hay chính Sak-ka Thiên chủ chăng?
Xin nói là con ai đấy nhỉ,
Tên gì ta sẽ gọi danh xưng?
Lúc
ấy, Bồ-tát vừa lộ diện vừa thuyết Pháp và ngâm kệ:
8.
Chẳng là nhạc sĩ hoặc Thiên thần,
Cũng chẳng Sak-ka, đấng Ngọc hoàng,
Ta chính Kà-si vương tử ấy
Ngươi đem chôn sống thật hung tàn.
9. Ta chính con vua triều đại này
Ngươi đang phục vụ hiển. vinh thay,
Nếu đem ta đến đây chôn sống,
Ngươi sẽ phạm vào trọng tội ngay.
10. Nếu dưới gốc cây, ta nghỉ chân,
Tàn cây đổ bóng để che thân,
Ta không bẻ một cành dù nhỏ,
Chỉ kẻ ác làm hại bạn thân.
11. Cây che chỗ ấy chính là vua,
Ta chính là cành lá tỏa ra,
Ngươi lái xe là người lữ khách
Nằm ngồi ở dưới bóng cây mà.
Tội to giáng xuống đầu ngươi đó,
Nếu ở rừng này chôn sống ta.
Cũng chẳng Sak-ka, đấng Ngọc hoàng,
Ta chính Kà-si vương tử ấy
Ngươi đem chôn sống thật hung tàn.
9. Ta chính con vua triều đại này
Ngươi đang phục vụ hiển. vinh thay,
Nếu đem ta đến đây chôn sống,
Ngươi sẽ phạm vào trọng tội ngay.
10. Nếu dưới gốc cây, ta nghỉ chân,
Tàn cây đổ bóng để che thân,
Ta không bẻ một cành dù nhỏ,
Chỉ kẻ ác làm hại bạn thân.
11. Cây che chỗ ấy chính là vua,
Ta chính là cành lá tỏa ra,
Ngươi lái xe là người lữ khách
Nằm ngồi ở dưới bóng cây mà.
Tội to giáng xuống đầu ngươi đó,
Nếu ở rừng này chôn sống ta.
Nhưng
dù Bồ-tát nói vậy, gã này vẫn không tin ngài. Vì thế Bồ-tát quyết định thuyết phục gã, nên ngài làm cho cả khu
rừng vang dậy tiếng nói của ngài và lời tán thán của chư Thiên, trong khi ngài
bắt đầu ngâm mười vần kệ này để tôn vinh tình bằng hữu:
12. Một
kẻ trung thành với bạn thân,
Dù đi phiêu bạt khắp xa gần,
Nhiều người hoan hỷ đem cung phụng
Thực phẩm tất nhiên được hiến dâng.
13. Dù đất nước nào phiêu bạt qua,
Kinh thành, thị trấn khắp gần xa,
Kẻ nào chung thủy cùng bằng hữu
Cũng được vinh quang danh vọng mà.
14. Không đạo tặc nào dám tổn thương,
Cũng không võ tướng dám khinh nhờn,
Người nào trung tín cùng bằng hữu
Sẽ thoát khỏi bao kẻ oán hờn.
15. Người ấy hoàn hương, thảy đón chào,
Lòng không mòn mỏi với ưu sầu;
Kẻ nào chung thủy cùng bằng hữu
Giữa đám bà con, đệ nhất cao.
16. Tôn vinh người, lại được tôn vinh,
Ðược kính trọng và đáp thịnh tình.
Một kẻ trung thành cùng bạn hữu
Nhận phần vinh hiển khắp quần sinh.
17. Người nào biết quý trọng người đời,
Sẽ được mọi người quý trọng thôi;
Một kẻ trung thành cùng bạn hữu
Phần mình được tiếng tốt cao vời.
18. Kẻ ấy giống như lửa cháy bừng
Tỏa ra ánh sáng tựa Thiên thần,
Người nào trung tín cùng bằng hữu
Chiếu ánh huy hoàng rực rỡ luôn.
19. Trâu bò tăng trưởng thật là nhanh,
Hạt giống thường xuyên mọc tốt lành;
Một kẻ trung thành cùng bạn hữu
Tất nhiên gặt hái mọi công thành.
20. Nếu bị rơi từ đỉnh núi cao,
Hoặc từ cây cối hoặc hang hào,
Người nào chung thủy cùng bằng hữu
Cũng thấy đất bằng vững chắc sao.
21. Cây đa thách đố mọi cuồng phong
Cành lá mọc quanh gốc rễ chung,
Kẻ biết trung thành cùng bạn hữu,
Oán hờn cừu địch thảy tiêu vong.
Dù đi phiêu bạt khắp xa gần,
Nhiều người hoan hỷ đem cung phụng
Thực phẩm tất nhiên được hiến dâng.
13. Dù đất nước nào phiêu bạt qua,
Kinh thành, thị trấn khắp gần xa,
Kẻ nào chung thủy cùng bằng hữu
Cũng được vinh quang danh vọng mà.
14. Không đạo tặc nào dám tổn thương,
Cũng không võ tướng dám khinh nhờn,
Người nào trung tín cùng bằng hữu
Sẽ thoát khỏi bao kẻ oán hờn.
15. Người ấy hoàn hương, thảy đón chào,
Lòng không mòn mỏi với ưu sầu;
Kẻ nào chung thủy cùng bằng hữu
Giữa đám bà con, đệ nhất cao.
16. Tôn vinh người, lại được tôn vinh,
Ðược kính trọng và đáp thịnh tình.
Một kẻ trung thành cùng bạn hữu
Nhận phần vinh hiển khắp quần sinh.
17. Người nào biết quý trọng người đời,
Sẽ được mọi người quý trọng thôi;
Một kẻ trung thành cùng bạn hữu
Phần mình được tiếng tốt cao vời.
18. Kẻ ấy giống như lửa cháy bừng
Tỏa ra ánh sáng tựa Thiên thần,
Người nào trung tín cùng bằng hữu
Chiếu ánh huy hoàng rực rỡ luôn.
19. Trâu bò tăng trưởng thật là nhanh,
Hạt giống thường xuyên mọc tốt lành;
Một kẻ trung thành cùng bạn hữu
Tất nhiên gặt hái mọi công thành.
20. Nếu bị rơi từ đỉnh núi cao,
Hoặc từ cây cối hoặc hang hào,
Người nào chung thủy cùng bằng hữu
Cũng thấy đất bằng vững chắc sao.
21. Cây đa thách đố mọi cuồng phong
Cành lá mọc quanh gốc rễ chung,
Kẻ biết trung thành cùng bạn hữu,
Oán hờn cừu địch thảy tiêu vong.
Dù
ngài đã thuyết Pháp như vậy, gã Sunanda vẫn không
nhận ra ngài và cứ hỏi ngài là ai. Nhưng rồi gã đến gần xe và trước khi thấy rõ chiếc xe cùng
mọi thứ trang sức mà vương tử mang trên người ngài, gã đã nhận ra ngài trong lúc nhìn ngài, liền quỳ
xuống chắp tay lại, ngâm kệ:
22. Ðến đây, này hỡi vị Vương gia,
Tôi sẽ xin đưa trở lại nhà,
Ngài ngự ngai vàng và trị nước,
Sao còn thơ thẩn chốn rừng già?
Tôi sẽ xin đưa trở lại nhà,
Ngài ngự ngai vàng và trị nước,
Sao còn thơ thẩn chốn rừng già?
Bậc
Ðại Sĩ đáp:
23. Ta
không màng của cải, ngai vàng,
Chẳng thiết bạn thân hoặc họ hàng,
Vì chính ngôi vua ta đã đạt
Là do những ác nghiệp ta làm.
Chẳng thiết bạn thân hoặc họ hàng,
Vì chính ngôi vua ta đã đạt
Là do những ác nghiệp ta làm.
Người
lái xe nói:
24.
Chén rượu đón mừng, Thái tử ôi,
Ðược người chuẩn bị để chờ ngài,
Phụ vương, mẫu hậu đầy hoan hỷ
Sẽ tặng nhiều quà cho chính tôi.
25. Cung phi, mỹ nữ các vương gia,
Vệ xá, Bà-la-môn, mọi nhà,
Trong nỗi hân hoan đầy trọn vẹn,
Sẽ cho tôi hưởng thật nhiều quà.
26. Các vị cỡi voi, cỡi mã xa,
Bộ binh, vệ sĩ của hoàng gia
Sẽ cho tôi hưởng nhiều quà tặng
Khi Thái tử quay trở lại nhà.
27. Thần dân thành thị đến thôn quê
Tụ tập mừng vui, mở hội hè,
Sẽ tặng cho tôi nhiều lễ vật,
Khi nhìn Thái tử đã quay về.
Ðược người chuẩn bị để chờ ngài,
Phụ vương, mẫu hậu đầy hoan hỷ
Sẽ tặng nhiều quà cho chính tôi.
25. Cung phi, mỹ nữ các vương gia,
Vệ xá, Bà-la-môn, mọi nhà,
Trong nỗi hân hoan đầy trọn vẹn,
Sẽ cho tôi hưởng thật nhiều quà.
26. Các vị cỡi voi, cỡi mã xa,
Bộ binh, vệ sĩ của hoàng gia
Sẽ cho tôi hưởng nhiều quà tặng
Khi Thái tử quay trở lại nhà.
27. Thần dân thành thị đến thôn quê
Tụ tập mừng vui, mở hội hè,
Sẽ tặng cho tôi nhiều lễ vật,
Khi nhìn Thái tử đã quay về.
Bậc
Ðại Sĩ đáp:
28. Ta
bị bỏ rơi bởi mẹ cha,
Kinh thành, thị trấn ờ gần xa,
Vương tôn bỏ mặc ta đành phận,
Ta chẳng có nhà của chính ta.
29. Mẫu hậu của ta cho phép đi,
Phụ vương cũng bỏ mặc hoàng nhi,
Trong rừng hoang vắng này đơn độc,
Ẩn sĩ ta nguyền hạnh xuất ly.
Kinh thành, thị trấn ờ gần xa,
Vương tôn bỏ mặc ta đành phận,
Ta chẳng có nhà của chính ta.
29. Mẫu hậu của ta cho phép đi,
Phụ vương cũng bỏ mặc hoàng nhi,
Trong rừng hoang vắng này đơn độc,
Ẩn sĩ ta nguyền hạnh xuất ly.
Ðang
khi nhớ lại các công hạnh của mình, một nỗi hoan hỷ khởi lên trong lòng ngài,
và trong niềm hạnh phúc cao độ ngài thốt lên khúc đạo ca toàn thắng:
30.
Cũng giống những ai chẳng vội vàng
Ðạt thành nguyện ước của tâm can,
Quản xa hãy biết, hôm nay nhé,
Thánh hạnh ta thành đạt vẹn toàn.
31. Cũng giống những ai chẳng bước nhanh,
Tối cao cứu cánh được viên thành,
Ta đi, đầy đủ tâm thanh tịnh
Hoàn thiện, sợ gì giữa chúng sinh.
Ðạt thành nguyện ước của tâm can,
Quản xa hãy biết, hôm nay nhé,
Thánh hạnh ta thành đạt vẹn toàn.
31. Cũng giống những ai chẳng bước nhanh,
Tối cao cứu cánh được viên thành,
Ta đi, đầy đủ tâm thanh tịnh
Hoàn thiện, sợ gì giữa chúng sinh.
Người
lái xe đáp lại:
32.
Những lời ngài nói thật êm tai,
Chân thật, sáng trong, lý lẽ ngài,
Tại sao thuở trước đành câm lặng
Khi thấy song thân ở cạnh hoài?
Chân thật, sáng trong, lý lẽ ngài,
Tại sao thuở trước đành câm lặng
Khi thấy song thân ở cạnh hoài?
Bậc
Ðại Sĩ bảo:
33. Ta
chẳng què vì thiếu khớp xương,
Cũng không điếc bởi thiếu tai thường,
Cũng không câm lặng vì không lưỡi,
Như dáng ta nay hiện rõ ràng.
34. Ta vẫn nhờ rành một kiếp xưa,
Trong tiền thân ấy được làm vua
Nhưng từ ngôi báu, ta rơi xuống
Ta thấy mình trong chốn ngục tù.
35. Hai mươi năm sống cảnh xa hoa
Trên chiếc ngai vàng chỉ thoáng qua,
Nhưng tám mươi ngàn năm địa ngục,
Ta đền tội ác đã gây ra.
36. Dư vị hoàng gia thuở đã qua
Làm kinh hãi ngập cả tâm ta,
Cho nên ta phải đành câm lặng
Dù thấy gần bên cạnh mẹ cha.
37. Phụ vương bồng bế trẻ vào lòng,
Nhưng giữa lúc đùa giỡn thiết thân,
Nghe lệnh vua ban đầy khắc nghiệt:
"Tức thì giết kẻ đại cường gian,
Hãy cưa xẻ nó ra từng mảnh,
Ðóng cọc tên kia chờ muộn màng".
38. Nghe lời hăm dọa thật kinh hồn,
Ta cố làm què lại điếc câm,
Lăn lóc trong bùn nhơ khốn khổ,
Làm người ngu dại cũng đành phần.
39. Biết rõ cuộc đời ngắn ngủi thay,
Sầu bi khổ não lại tràn đầy,
Ai vì đời sống mà khơi dậy
Sân hận cho người khác khổ lây?
40. Ai vì đời sống hại tha nhân,
Ðể mặc cho mình trút hận sân,
Vì muốn dành quyền cầm chánh lý
Và mù quáng trước lẽ công bằng?
Cũng không điếc bởi thiếu tai thường,
Cũng không câm lặng vì không lưỡi,
Như dáng ta nay hiện rõ ràng.
34. Ta vẫn nhờ rành một kiếp xưa,
Trong tiền thân ấy được làm vua
Nhưng từ ngôi báu, ta rơi xuống
Ta thấy mình trong chốn ngục tù.
35. Hai mươi năm sống cảnh xa hoa
Trên chiếc ngai vàng chỉ thoáng qua,
Nhưng tám mươi ngàn năm địa ngục,
Ta đền tội ác đã gây ra.
36. Dư vị hoàng gia thuở đã qua
Làm kinh hãi ngập cả tâm ta,
Cho nên ta phải đành câm lặng
Dù thấy gần bên cạnh mẹ cha.
37. Phụ vương bồng bế trẻ vào lòng,
Nhưng giữa lúc đùa giỡn thiết thân,
Nghe lệnh vua ban đầy khắc nghiệt:
"Tức thì giết kẻ đại cường gian,
Hãy cưa xẻ nó ra từng mảnh,
Ðóng cọc tên kia chờ muộn màng".
38. Nghe lời hăm dọa thật kinh hồn,
Ta cố làm què lại điếc câm,
Lăn lóc trong bùn nhơ khốn khổ,
Làm người ngu dại cũng đành phần.
39. Biết rõ cuộc đời ngắn ngủi thay,
Sầu bi khổ não lại tràn đầy,
Ai vì đời sống mà khơi dậy
Sân hận cho người khác khổ lây?
40. Ai vì đời sống hại tha nhân,
Ðể mặc cho mình trút hận sân,
Vì muốn dành quyền cầm chánh lý
Và mù quáng trước lẽ công bằng?
Lúc đó gã Sunanda suy nghĩ: "Vương tử này từ bỏ
vàng son cung điện như thể bỏ thây ma,
nay vào rừng cương quyết sống đời ẩn sĩ, thế thì ta
còn làm gì với cuộc đời khốn nạn này nữa?
Thôi ta cũng muốn làm ẩn sĩ như ngài cho rồi". Gã liền ngâm kệ:
41. Tôi
cũng ước mong chọn cuộc đời
Của người khổ hạnh ở cùng ngài,
Xin ngài hãy gọi tôi, Vương tử,
Ẩn sĩ, như ngài muốn vậy thôi.
Của người khổ hạnh ở cùng ngài,
Xin ngài hãy gọi tôi, Vương tử,
Ẩn sĩ, như ngài muốn vậy thôi.
Khi
nghe gã thỉnh cầu, bậc Ðại Sĩ suy nghĩ: "Nếu ta nhận ngay gã này làm ẩn
sĩ, thì cha mẹ ta không đến đây được và như thế
sĩ chịu thiệt thòi, rồi ngựa xe và các vật trang sức này sẽ bị huỷ hoại. Ta sẽ
bị buộc tội vì người đời sẽ bảo: "Hắn là
quỷ dữ đã nuốt sống người lái
xe". Vì thế muốn tránh tiếng xấu cho mình và đem lại an lạc cho cha mẹ, ngài giao ngựa xe và
các thứ trang sức lại cho gã rồi ngâm kệ:
42.
Trước tiên đem trả lại vương xa,
Ngươi chẳng phải người được tự do,
Trả nợ trước tiên, đời vẫn bảo,
Rồi sau nguyền khổ hạnh ly gia.
Ngươi chẳng phải người được tự do,
Trả nợ trước tiên, đời vẫn bảo,
Rồi sau nguyền khổ hạnh ly gia.
Người
lái xe nghĩ thầm: "Nếu ta về kinh thành trong lúc ngài bỏ đi nơi khác, rồi khi cha mẹ ngài hay tin ngài
còn sống, sẽ cùng đến đây với ta để gặp ngài
mà không tìm thấy ngài, họ sẽ trừng phạt ta. Thôi ta phải nói rõ hoàn cảnh này
của ta cho ngài biết và xin ngài hứa ở lại đây".
Vì
thế gã ngâm hai vần kệ:
43. Vì
lẽ tôi theo lệnh của ngài,
Thỉnh cầu Vương tử hãy nghe tôi,
Xin ngài hãy rộng lòng hoan hỷ
Làm những việc tôi sẽ mở lời:
44. Xin hãy làm ơn nán lại chờ
Ðến khi tôi thỉnh được vương gia,
Phụ vương sẽ ngập tràn hoan hỷ
Nhìn thấy dung nhan Vương tử mà.
Thỉnh cầu Vương tử hãy nghe tôi,
Xin ngài hãy rộng lòng hoan hỷ
Làm những việc tôi sẽ mở lời:
44. Xin hãy làm ơn nán lại chờ
Ðến khi tôi thỉnh được vương gia,
Phụ vương sẽ ngập tràn hoan hỷ
Nhìn thấy dung nhan Vương tử mà.
Bậc
Ðại Sĩ đáp:
45.
Mong được như ngươi nói, quản xa,
Ta đây hoan hỷ gặp vua cha,
Mau đi chào hỏi toàn gia tộc,
Ðặc biệt vấn an cha mẹ ta.
Ta đây hoan hỷ gặp vua cha,
Mau đi chào hỏi toàn gia tộc,
Ðặc biệt vấn an cha mẹ ta.
Người
lái xe tuân lệnh.
46. Rồi gã quản xa dậm bước chân
Tỏ lòng cung kính thật ân cần,
Bắt đầu công cuộc hành trình ấy
Như mệnh lệnh ban của chủ nhân.
Tỏ lòng cung kính thật ân cần,
Bắt đầu công cuộc hành trình ấy
Như mệnh lệnh ban của chủ nhân.
Vào
lúc ấy Vương hậu Candà mở cửa, bà đang bồn chồn đợi tin con, cứ nhìn ra phía conđường người lái xe
trở về, nên khi thấy gã về một mình, bà thét lên than khóc.
*
Bậc Đạo Sư tả cảnh ấy như sau:
47. Khi
thấy một mình gã quản xa,
Chiếc xe trống vắng, chợt nhìn ra,
Tâm hồn tràn ngập niềm lo sợ,
Mắt mẹ hiền dâng lệ ướt nhòa:
48. Người quản xa kia mới trở về,
Con ta bị giết ở đằng kia,
Rừng hoang hiu quạnh con nằm đó,
Ðất lại hòa cùng đất phủ che.
49-50. Cừu nhân cực ác sẽ hân hoan
Thấy kẻ sát nhân được vạn an,
Câm điếc, lại què chân, thử hỏi,
Làm sao con cất tiếng kêu van,
Nằm trên nền đất bơ vơ quá,
Con chiến đấu sao với sức tàn?
51. Tay chân con chẳng đủ công năng
Xô đẩy ngươi ra để thoát thân,
Trong lúc nằm trên nền đất lạnh,
Mặc dù câm điếc lại què chân?
Chiếc xe trống vắng, chợt nhìn ra,
Tâm hồn tràn ngập niềm lo sợ,
Mắt mẹ hiền dâng lệ ướt nhòa:
48. Người quản xa kia mới trở về,
Con ta bị giết ở đằng kia,
Rừng hoang hiu quạnh con nằm đó,
Ðất lại hòa cùng đất phủ che.
49-50. Cừu nhân cực ác sẽ hân hoan
Thấy kẻ sát nhân được vạn an,
Câm điếc, lại què chân, thử hỏi,
Làm sao con cất tiếng kêu van,
Nằm trên nền đất bơ vơ quá,
Con chiến đấu sao với sức tàn?
51. Tay chân con chẳng đủ công năng
Xô đẩy ngươi ra để thoát thân,
Trong lúc nằm trên nền đất lạnh,
Mặc dù câm điếc lại què chân?
Người
lái xe tâu:
52.
Lệnh bà, xin thứ tội cho tôi,
Xin để cho tôi được mở lời,
Tôi sẽ kể bà nghe tất cả
Những gì tôi đã thấy nghe rồi.
Xin để cho tôi được mở lời,
Tôi sẽ kể bà nghe tất cả
Những gì tôi đã thấy nghe rồi.
Vương
hậu đáp:
53. Ta
nay hứa thứ tội cho ngươi,
Ta để cho ngươi được mở lời,
Hãy kể cho ta nghe tất cả
Những gì ngươi đã thấy nghe rồi.
Ta để cho ngươi được mở lời,
Hãy kể cho ta nghe tất cả
Những gì ngươi đã thấy nghe rồi.
Người
lái xe liền tâu:
54.
Ngài không câm điếc, chẳng què chân,
Giọng nói ngài trôi chảy, sáng trong,
Ngài đóng vai trò kia giả dạng
Bởi vì ngài sợ chốn vương cung.
55. Ngài vẫn nhờ rành một kiếp xưa,
Trong tiền thân ấy được làm vua,
Nhưng từ ngôi báu, ngài rơi xuống
Ngài thấy mình trong chốn ngục tù.
56. Hai mươi năm sống cảnh xa hoa
Trên chiếc ngai vàng chỉ thoáng qua,
Nhưng tám mươi ngàn năm địa ngục
Ngài đền tội ác đã gây ra.
57. Dư vị hoàng gia một thuở xưa
Làm ngài kinh hãi ngập tâm tư,
Cho nên ngài phải đành câm lặng
Dù thấy gần bên cạnh mẹ cha.
58. Thân thể ngài nay được kiện toàn,
Cao sang tuyệt mỹ, dáng hùng cường,
Giọng ngài trong sáng, tâm minh mẫn,
Ngài chọn đời thanh tịnh bước đường.
59. Nếu lệnh bà mong muốn gặp con,
Tức thì hãy đến đó cùng thần,
Ngắm nhìn Vương tử Te-my ấy
An tịnh, thong dong thật vẹn toàn.
Giọng nói ngài trôi chảy, sáng trong,
Ngài đóng vai trò kia giả dạng
Bởi vì ngài sợ chốn vương cung.
55. Ngài vẫn nhờ rành một kiếp xưa,
Trong tiền thân ấy được làm vua,
Nhưng từ ngôi báu, ngài rơi xuống
Ngài thấy mình trong chốn ngục tù.
56. Hai mươi năm sống cảnh xa hoa
Trên chiếc ngai vàng chỉ thoáng qua,
Nhưng tám mươi ngàn năm địa ngục
Ngài đền tội ác đã gây ra.
57. Dư vị hoàng gia một thuở xưa
Làm ngài kinh hãi ngập tâm tư,
Cho nên ngài phải đành câm lặng
Dù thấy gần bên cạnh mẹ cha.
58. Thân thể ngài nay được kiện toàn,
Cao sang tuyệt mỹ, dáng hùng cường,
Giọng ngài trong sáng, tâm minh mẫn,
Ngài chọn đời thanh tịnh bước đường.
59. Nếu lệnh bà mong muốn gặp con,
Tức thì hãy đến đó cùng thần,
Ngắm nhìn Vương tử Te-my ấy
An tịnh, thong dong thật vẹn toàn.
Nhưng
khi vương tử cho người lái xe đi rồi, ngài muốn thực
hiện ngay lời nguyền khổ hạnh. Biết được ước nguyện đó, Thiên chủ Sakka truyền gọi Vissakàmma (Thần
xây dựng) và bảo:
-
Vương tử Temiya nguyền khổ hạnh, vậy khanh hãy dựng cho ngài một túp lều lá với đủ vật dụng cần thiết của một ẩn sĩ.
Vì
thế vị ấy vội ra đi, và đến một khu rừng rộng chừng ba dặm, vị ấy dựng
một am ẩn sĩ có một gian dành để ở ban đêm và một gian để ở ban ngày, có một hồ nước, một cái giếng,
nhiều cây ăn trái và chuẩn bị đầy đủ mọi vật dụng cần thiết cho một vị tu khổ
hạnh rồi ra về.
Khi
Bồ-tát thấy cảnh này, ngài biết đây là lễ vật cúng dường
của Thiên chủ Sakka. Vì thế ngài bước vào lều, cởi trang phục của mình ra, mặc
vào bộ y bằng vỏ cây màu đỏ, cả y trên lẫn y dưới
và đắp tấm da hươu đen một bên vai, buộc mới tóc được bện chặt của ngài lại, rồi mangđòn gánh lên
vai kia, cầm cây gậy và bước ra khỏi lều. Ngài đi quanh quẩn trong bộ y khổ hạnh ấy và đắc thắng nói to:
-
Ôi cực lạc! Ôi cực lạc!
Rồi
trở về lều, ngồi kiết-già trên tấm thảm vải, ngài chứng đắc Năm Thắng trí (Năm Thần thông).
Buổi
chiều ngài bước ra lượm vài lá cây kàra gần đó, nhúng vào bình bát nước của Thiên chủ Sakka cúng dường ngài,
không có tý muối, chút bơ hay gia vị gì cả. Ngài ăn lá cây như thể ăn cao lương mỹ vị, rồi trong
khi ngài quán sát Tứ Vô lượng tâm (Từ, bi, hỷ, xả), ngài quyết định an trú ở đó.
Trong
lúc ấy vua Kàsi nghe lời gã Sunanda tâu, liền triệu tập vị tể tướng vào, ra
lệnh thu xếp cuộc hành trình, vua phán:
60. Thắng đủ
ngựa vào các cỗ xe,
Buộc cân đai cả đám voi kia,
Tù và, trống nhỏ khua vang khắp,
Ðánh dậy trống to cả tứ bề!
61. Trống cao ầm ỹ tận không gian,
Trống nhỏ âm vang thật dịu dàng,
Tất cả kinh thành theo gót trẫm,
Ta đi lần nữa đón hoàng nam.
62. Các vương phi, tất cả hoàng gia,
Vệ-xá, Bà-la-môn trẻ, già,
Hết thảy thắng cương xe ngựa sẵn,
Ta đi đón Thái tử về nhà.
63. Các vị cởi voi, cỡi mã xa,
Bộ binh, vệ sĩ của hoàng gia,
Mọi người chuẩn bị lên đường gấp,
Ta đến đón Vương tử lại nhà.
64. Thần dân thành thị đến thôn quê,
Khắp nẻo đường đông đảo tựu tề,
Tất cả sẵn sàng theo gót trẫm,
Ta đi đón Thái tử quay về.
Buộc cân đai cả đám voi kia,
Tù và, trống nhỏ khua vang khắp,
Ðánh dậy trống to cả tứ bề!
61. Trống cao ầm ỹ tận không gian,
Trống nhỏ âm vang thật dịu dàng,
Tất cả kinh thành theo gót trẫm,
Ta đi lần nữa đón hoàng nam.
62. Các vương phi, tất cả hoàng gia,
Vệ-xá, Bà-la-môn trẻ, già,
Hết thảy thắng cương xe ngựa sẵn,
Ta đi đón Thái tử về nhà.
63. Các vị cởi voi, cỡi mã xa,
Bộ binh, vệ sĩ của hoàng gia,
Mọi người chuẩn bị lên đường gấp,
Ta đến đón Vương tử lại nhà.
64. Thần dân thành thị đến thôn quê,
Khắp nẻo đường đông đảo tựu tề,
Tất cả sẵn sàng theo gót trẫm,
Ta đi đón Thái tử quay về.
Thế
rồi đám quản xa ra lệnh thắng yên cương ngựa xong, đem xa giá đến trước cung môn, rồi thông báo để
vua biết.
*
Bậc
Ðạo Sư tả cảnh này như sau:
65.
Ngựa Sindh dòng giống tuyệt cao sang
Nai nịt yên cương trước ngọ môn,
Các quản xa trình tin tức đến:
"Cả đoàn chờ yết kiến long nhan".
Nai nịt yên cương trước ngọ môn,
Các quản xa trình tin tức đến:
"Cả đoàn chờ yết kiến long nhan".
Nhà
vua phán:
66.
"Bầy ngựa bất kham hãy loại ra,
Ðừng đem ngựa yếu đến xe ta".
Lệnh vua như vậy vừa ban xuống,
Tuân phục tức thì đám quản xa.
Ðừng đem ngựa yếu đến xe ta".
Lệnh vua như vậy vừa ban xuống,
Tuân phục tức thì đám quản xa.
Quần
hầu bảo đám quản xa:
-
Ðừng đem theo các loại ngựa như thế.
Trước
khi đi đón con, vua triệu tập bốn đẳng cấp trong
triều, mười tám hội đoàn và toàn quânđội cũng tập họp trong ba ngày. Vào ngày
thứ tư, sau khi đã đem tất cả đoàn tùy tùng lênđường, vua ngự giá
đến thảo am ẩn sĩ. Ngài được Vương tử đón tiếp
tại đó và đáp lễ con theo đúng
nghi thức.
*
Bậc Đạo Sư tả cảnh này như sau:
67. Lúc
ấy vương xa đã sẵn sàng,
Không còn trì hoãn, đấng quân vương
Bước lên, gọi các bà phi hậu:
"Tất cả cùng ta tiến bước đường".
68. Với quạt đuôi trâu, mão đội đầu,
Lọng vua màu trắng ở trên cao,
Ngài lên ngự giá vương xa ấy,
Trang điểm ngọc vàng tuyệt mỹ sao.
69. Rồi nhà vua lập tức đăng trình
Cùng gã quản xa ở cạnh mình,
Vội vã ngài đi ngay đến chốn
Te-mi-ya trú thật thanh bình.
70. Vương tử Te-mi thấy phụ vương
Ðến đây, lộng lẫy, đại huy hoàng,
Quanh mình chiến sĩ đoàn hầu cận,
Vì vậy ngài lên tiếng nói rằng:
71. "- Phụ vương, con chắc được an bình,
Cha có đủ tin tức tốt lành,
Con chắc các vương phi, mẫu hậu
Thảy đều khang kiện ở triều đình?"
72. "- Này con, cha vẫn được an bình,
Cha có đủ tin tức tốt lành,
Tất cả các vương phi, mẫu hậu,
Quả đều khang kiện ở triều đình".
73. "- Con chắc cha không uống rượu men,
Rượu nồng các loại thảy đều kiêng,
Trí tâm cha vẫn luôn thành khẩn
Bố thí và hành động chính chuyên?"
74. "- Thật vậy, cha không đụng rượu men,
Rượu nồng các loại thảy đều kiêng,
Trí tâm cha vẫn luôn thành khẩn
Bố thí và hành động chính chuyên.
75. "-Bầy ngựa và voi của phụ vương,
Con mong đều mạnh khỏe hùng cường,
Không con nào phải mang thân bệnh,
Không có yếu hèn hoặc bất tường".
76. "-Vâng, các bầy voi của phụ vương,
Và bầy ngựa mạnh khỏe, hùng cường,
Không con nào phải mang thân bệnh
Không có yếu hèn hoặc bất tường".
77. "- Biên thùy cùng địa phận trung ương,
Tất cả đều trù mật, lạc an,
Xin hỏi các nơi này có đủ
Các ngân khố với các kho tàng?
78. Phụ vương, nay trẻ đón chào mừng,
Hạnh ngộ giờ đây với phụ thân,
Hãy đặt vương sàng ra tại chỗ
Ðể ngài an tọa, hỡi ba quân!"
Không còn trì hoãn, đấng quân vương
Bước lên, gọi các bà phi hậu:
"Tất cả cùng ta tiến bước đường".
68. Với quạt đuôi trâu, mão đội đầu,
Lọng vua màu trắng ở trên cao,
Ngài lên ngự giá vương xa ấy,
Trang điểm ngọc vàng tuyệt mỹ sao.
69. Rồi nhà vua lập tức đăng trình
Cùng gã quản xa ở cạnh mình,
Vội vã ngài đi ngay đến chốn
Te-mi-ya trú thật thanh bình.
70. Vương tử Te-mi thấy phụ vương
Ðến đây, lộng lẫy, đại huy hoàng,
Quanh mình chiến sĩ đoàn hầu cận,
Vì vậy ngài lên tiếng nói rằng:
71. "- Phụ vương, con chắc được an bình,
Cha có đủ tin tức tốt lành,
Con chắc các vương phi, mẫu hậu
Thảy đều khang kiện ở triều đình?"
72. "- Này con, cha vẫn được an bình,
Cha có đủ tin tức tốt lành,
Tất cả các vương phi, mẫu hậu,
Quả đều khang kiện ở triều đình".
73. "- Con chắc cha không uống rượu men,
Rượu nồng các loại thảy đều kiêng,
Trí tâm cha vẫn luôn thành khẩn
Bố thí và hành động chính chuyên?"
74. "- Thật vậy, cha không đụng rượu men,
Rượu nồng các loại thảy đều kiêng,
Trí tâm cha vẫn luôn thành khẩn
Bố thí và hành động chính chuyên.
75. "-Bầy ngựa và voi của phụ vương,
Con mong đều mạnh khỏe hùng cường,
Không con nào phải mang thân bệnh,
Không có yếu hèn hoặc bất tường".
76. "-Vâng, các bầy voi của phụ vương,
Và bầy ngựa mạnh khỏe, hùng cường,
Không con nào phải mang thân bệnh
Không có yếu hèn hoặc bất tường".
77. "- Biên thùy cùng địa phận trung ương,
Tất cả đều trù mật, lạc an,
Xin hỏi các nơi này có đủ
Các ngân khố với các kho tàng?
78. Phụ vương, nay trẻ đón chào mừng,
Hạnh ngộ giờ đây với phụ thân,
Hãy đặt vương sàng ra tại chỗ
Ðể ngài an tọa, hỡi ba quân!"
Nhà
vua vì tỏ lòng cung kính đối với bậc Ðại Sĩ nên không muốn ngự trên long sàng. Bậc
Ðại Sĩ liền nói:
-
Nếu phụ vương không muốn ngự long sàng, hãy đem tọa sàng kết bằng lá trải cho ngài.
Rồi
ngài ngâm kệ:
79. Xin
hãy ngự trên thảm lá này,
Trải cho đẹp ý phụ vương đây,
Quân hầu lấy nước nơi này đến
Ðể rửa tay chân Chúa thượng ngay.
Trải cho đẹp ý phụ vương đây,
Quân hầu lấy nước nơi này đến
Ðể rửa tay chân Chúa thượng ngay.
Nhưng
nhà vua vì lòng cung kính con ngài nên không chịu ngồi trên giường lá, chỉ ngồi
dướiđất. Lúc ấy Bồ-tát vào thảo am lấy ra cây kàra, vừa mời vua cha, vừa ngâm
kệ:
80. Con không có muối, lá cây này
Là thực phẩm con sống mỗi ngày,
Cha đã đến đây làm khách quý,
Xin vui lòng nhận thức ăn vầy.
Là thực phẩm con sống mỗi ngày,
Cha đã đến đây làm khách quý,
Xin vui lòng nhận thức ăn vầy.
Vua
cha đáp:
81. Lá cây không phải món cha ăn,
Ðem đến cho cha chén gạo trong,
Nấu với thịt hầm thơm dịu ngọt
Ðể làm thành một món canh ngon.
Ðem đến cho cha chén gạo trong,
Nấu với thịt hầm thơm dịu ngọt
Ðể làm thành một món canh ngon.
Ngay
lúc ấy, vương hậu Candàdevì được các vương phi hộ
tống vừa đến nơi liền ôm chân con đảnh lễ, ngồi xuống một bên, đầm đìa nước mắt. Nhà vua bảo bà:
-
Này ái hậu, hãy xem thức ăn của vương nhi.
Và
vua đặt vài ngọn lá trong tay bà cùng các vương phi
kia. Các bà này cầm lá và kêu:
-
Ôi vương tử, ngài ăn uống như thế kia sao,
ngài chịu khổ hạnh biết dường nào.
Rồi
họ ngồi xuống, lúc ấy nhà vua bảo:
-
Ôi vương nhi thật kỳ diệu thay!
Và
vua ngâm kệ:
82. Quả
thật diệu kỳ đối với ta
Vương nhi cô độc phải lìa nhà,
Sống bằng thực phẩm nghèo hèn vậy,
Tuy thế con không đổi sắc da.
Vương nhi cô độc phải lìa nhà,
Sống bằng thực phẩm nghèo hèn vậy,
Tuy thế con không đổi sắc da.
Vương
tử đáp:
83.
Trên thảm lá này được trải ra,
Con nằm cô độc ở rừng già,
Tọa sàng quả thật đầy an lạc,
Vì thế con không đổi sắc da.
84. Không đoàn vệ sĩ ác canh phòng
Bao bọc chung quanh với kiếm trần,
Sàng tọa thật là an lạc quá,
Nên màu da trẻ vẫn tươi hồng.
85. Con chẳng tiếc thương gì quá khứ,
Cũng không than khóc chuyện tương lai,
Con chờ hiện tại đang đi tới,
Nên sắc da con giữ được hoài.
86. Khóc than quá khứ đã qua rồi,
Còn chuyện tương lai bất định thôi,
Việc ấy làm khô sinh lực trẻ,
Như khi người cắt cỏ xanh tươi.
Con nằm cô độc ở rừng già,
Tọa sàng quả thật đầy an lạc,
Vì thế con không đổi sắc da.
84. Không đoàn vệ sĩ ác canh phòng
Bao bọc chung quanh với kiếm trần,
Sàng tọa thật là an lạc quá,
Nên màu da trẻ vẫn tươi hồng.
85. Con chẳng tiếc thương gì quá khứ,
Cũng không than khóc chuyện tương lai,
Con chờ hiện tại đang đi tới,
Nên sắc da con giữ được hoài.
86. Khóc than quá khứ đã qua rồi,
Còn chuyện tương lai bất định thôi,
Việc ấy làm khô sinh lực trẻ,
Như khi người cắt cỏ xanh tươi.
Nhà
vua nghĩ thầm: "Thôi để ta tấn phong cho
vương nhi rồi đem con về triều với ta". Vì thế ngài ngâm kệ mời vương tử
về chung hưởng ngai vàng:
87. Con
hỡi, các bầy tượng, mã, xa,
Bộ binh, kỵ sĩ của hoàng gia,
Lâu đài cung điện đầy hoan lạc,
Cha sẽ cho con tất cả mà.
88. Và các hậu cung, cha cũng ban
Với bao vinh hiển, mọi cao sang,
Con là vua ở ngôi duy nhất
Ngự trị, không ai ở cạnh con.
89. Mỹ nhân tài giỏi múa, đàn, ca,
Ðiêu luyện bao cung cách thướt tha
Ru cõi lòng con vào khoái lạc,
Sao còn thơ thẩn mãi rừng già?
90. Con gái của bao vị địch quân,
Tự hào hầu hạ cạnh con luôn,
Ðến khi sinh được nhiều vương tử,
Con hãy làm tu sĩ ẩn thân.
91. Con đầu lòng, kế vị cha đây,
Trong tuổi đầu xuân rực rỡ vầy,
Hãy tận hưởng ngai vàng trọn vẹn,
Con làm gì ở thảo am này?
Bộ binh, kỵ sĩ của hoàng gia,
Lâu đài cung điện đầy hoan lạc,
Cha sẽ cho con tất cả mà.
88. Và các hậu cung, cha cũng ban
Với bao vinh hiển, mọi cao sang,
Con là vua ở ngôi duy nhất
Ngự trị, không ai ở cạnh con.
89. Mỹ nhân tài giỏi múa, đàn, ca,
Ðiêu luyện bao cung cách thướt tha
Ru cõi lòng con vào khoái lạc,
Sao còn thơ thẩn mãi rừng già?
90. Con gái của bao vị địch quân,
Tự hào hầu hạ cạnh con luôn,
Ðến khi sinh được nhiều vương tử,
Con hãy làm tu sĩ ẩn thân.
91. Con đầu lòng, kế vị cha đây,
Trong tuổi đầu xuân rực rỡ vầy,
Hãy tận hưởng ngai vàng trọn vẹn,
Con làm gì ở thảo am này?
Bồ-tát đáp lại:
92.
Không, trẻ muốn từ giã thế gian,
Tránh bao phù phiếm ở phàm trần,
Cuộc đời khổ hạnh con yêu nhất,
Khuyên nhủ như vầy mọi trí nhân.
93. Không, con trẻ muốn xuất trần gian,
Ẩn sĩ đơn thân ở thảo am,
Con sẽ đi theo đời khổ hạnh,
Con không thiết phú quý, ngai vàng.
94. Con ngắm bé trai, miệng trẻ thơ
Vừa kêu bập bẹ "mẹ" cùng "cha",
Lớn lên thành một chàng trai tráng,
Rồi cũng già nua, phải chết mà.
95. Cũng vầy, thiếu nữ độ hoa cười,
Vui vẻ, đẹp xinh trước mọi người,
Phút chốc úa tàn vì lưỡi hái
Tử thần cắt bỏ tựa măng tươi.
96. Mọi người nam nữ dẫu còn xuân,
Phút chốc úa tàn, vậy thế nhân
Ai đặt lòng tin vào cuộc sống
Bị lừa phỉnh bởi tuổi xuân hồng?
97. Ðêm tàn, nhường chỗ ánh bình minh,
Phút chốc cũng thu ngắn lộ trình,
Như cá ở vùng khô cạn nước,
Nghĩa gì tuổi trẻ của nhân sinh?
98. Ðời này bị đánh ngã, đau thương,
Luôn bị canh phòng bởi địch quân,
"Chúng" mãi đi qua đầy ác ý,
Sao còn nói mão miện, ngai vàng?
99. Ai đánh ngã đời sống thế gian?
Nào ai canh giữ thật hung tàn?
Nào ai ác ý đi qua mãi?
Hãy nói chuyện huyền bí rõ ràng.
100. - Thần chết đánh tan thế giới này,
Tuổi già canh giữ cửa ta đây,
Chính đêm tối vẫn trôi qua mãi,
Ðạt thành mục đích chóng hay chầy.
101. Như khi bà nọ bên khung cửi
Ngồi dệt vải trong suốt cả ngày,
Công việc của bà dần ít lại,
Ðời ta tàn lụi cũng như vầy.
102. Như thể dòng sông cuồn cuộn trôi
Vẫn luôn trôi chảy chẳng hề lui,
Dòng đời thế tục là như vậy,
Cũng cứ luôn đi tới mãi thôi.
103. Như thể dòng sông cuốn thật xa
Những cây bật gốc ở đôi bờ,
Con người cũng chịu lao đầu tới
Hủy hoại do thần chết, tuổi già.
Tránh bao phù phiếm ở phàm trần,
Cuộc đời khổ hạnh con yêu nhất,
Khuyên nhủ như vầy mọi trí nhân.
93. Không, con trẻ muốn xuất trần gian,
Ẩn sĩ đơn thân ở thảo am,
Con sẽ đi theo đời khổ hạnh,
Con không thiết phú quý, ngai vàng.
94. Con ngắm bé trai, miệng trẻ thơ
Vừa kêu bập bẹ "mẹ" cùng "cha",
Lớn lên thành một chàng trai tráng,
Rồi cũng già nua, phải chết mà.
95. Cũng vầy, thiếu nữ độ hoa cười,
Vui vẻ, đẹp xinh trước mọi người,
Phút chốc úa tàn vì lưỡi hái
Tử thần cắt bỏ tựa măng tươi.
96. Mọi người nam nữ dẫu còn xuân,
Phút chốc úa tàn, vậy thế nhân
Ai đặt lòng tin vào cuộc sống
Bị lừa phỉnh bởi tuổi xuân hồng?
97. Ðêm tàn, nhường chỗ ánh bình minh,
Phút chốc cũng thu ngắn lộ trình,
Như cá ở vùng khô cạn nước,
Nghĩa gì tuổi trẻ của nhân sinh?
98. Ðời này bị đánh ngã, đau thương,
Luôn bị canh phòng bởi địch quân,
"Chúng" mãi đi qua đầy ác ý,
Sao còn nói mão miện, ngai vàng?
99. Ai đánh ngã đời sống thế gian?
Nào ai canh giữ thật hung tàn?
Nào ai ác ý đi qua mãi?
Hãy nói chuyện huyền bí rõ ràng.
100. - Thần chết đánh tan thế giới này,
Tuổi già canh giữ cửa ta đây,
Chính đêm tối vẫn trôi qua mãi,
Ðạt thành mục đích chóng hay chầy.
101. Như khi bà nọ bên khung cửi
Ngồi dệt vải trong suốt cả ngày,
Công việc của bà dần ít lại,
Ðời ta tàn lụi cũng như vầy.
102. Như thể dòng sông cuồn cuộn trôi
Vẫn luôn trôi chảy chẳng hề lui,
Dòng đời thế tục là như vậy,
Cũng cứ luôn đi tới mãi thôi.
103. Như thể dòng sông cuốn thật xa
Những cây bật gốc ở đôi bờ,
Con người cũng chịu lao đầu tới
Hủy hoại do thần chết, tuổi già.
Khi
nghe lời thuyết giảng của bậc Ðại Sĩ, vua sinh nhàm chán cuộc sống thế tục, chỉ
muốn xuất gia, liền bảo:
-
Ta không muốn trở về kinh thành nữa, ta sẽ sống đời tu hành tại đây, nếu con ta chịu về thành ta sẽ truyền trao
cho cây lọng trắng này.
Vì
thế vua cố thử mời mọc lần nữa để vương tử trở lại ngai
vàng:
104.
Con hỡi, các bầy tượng, mã, xa,
Bộ binh, ky sĩ của hoàng gia,
Lâu đài cung điện đầy hoan lạc,
Cha sẽ cho con tất cả mà.
105. Và các hậu cung, cha cũng ban
Với bao vinh hiển, mọi cao sang,
Con là vua ở ngôi duy nhất
Ngự trị, không ai ở cạnh con.
106. Mỹ nhân tài giỏi múa, đàn, ca,
Ðiêu luyện bao cung cách thướt tha,
Ru cõi lòng con vào khoái lạc,
Sao còn thơ thẩn mãi rừng già?
107. Con gái của bao vị địch quân
Tự hào hầu hạ cạnh con luôn,
Ðến khi sinh được nhiều vương tử,
Con hãy làm tu sĩ ẩn thân.
108. Công khố và kho báu của cha,
Bộ binh, ky mã của hoàng gia,
Ðền đài cung điện đầy hoan lạc,
Cha sẽ cho con tất cả mà.
109. Nô lệ từng bầy phụng sự luôn,
Vương phi, mỹ hậu để yêu thương,
Ngai vàng tận hưởng, đầy khang kiện,
Sao ở mãi đây chốn thảo đường?
Bộ binh, ky sĩ của hoàng gia,
Lâu đài cung điện đầy hoan lạc,
Cha sẽ cho con tất cả mà.
105. Và các hậu cung, cha cũng ban
Với bao vinh hiển, mọi cao sang,
Con là vua ở ngôi duy nhất
Ngự trị, không ai ở cạnh con.
106. Mỹ nhân tài giỏi múa, đàn, ca,
Ðiêu luyện bao cung cách thướt tha,
Ru cõi lòng con vào khoái lạc,
Sao còn thơ thẩn mãi rừng già?
107. Con gái của bao vị địch quân
Tự hào hầu hạ cạnh con luôn,
Ðến khi sinh được nhiều vương tử,
Con hãy làm tu sĩ ẩn thân.
108. Công khố và kho báu của cha,
Bộ binh, ky mã của hoàng gia,
Ðền đài cung điện đầy hoan lạc,
Cha sẽ cho con tất cả mà.
109. Nô lệ từng bầy phụng sự luôn,
Vương phi, mỹ hậu để yêu thương,
Ngai vàng tận hưởng, đầy khang kiện,
Sao ở mãi đây chốn thảo đường?
Nhưng
bậc Ðại Sĩ tỏ ra không chút gì ham thích ngai vàng:
110.
Sao kiếm giàu sang chẳng vững bền,
Sao mong cầu vợ cũng quy tiên,
Sao suy nghĩ mãi về xuân sắc,
Thoáng chốc xuân xanh sẽ hết liền?
Còn lại tuổi già hăm dọa đó
Bao giờ cũng đứng cạnh triền miên.
111. Ðâu lạc thú đem đến cuộc đời,
Ðẹp giàu, ngự thiện, thú vui chơi,
Thê nhi có nghĩa gì con nữa?
Xiềng xích con nay giải thoát rồi.
112. Ðiều con biết: mọi chốn đi đường
Số phận luôn canh giữ chẳng ngừng,
Lạc thú sang giàu đâu ích lợi
Cho người thấy móng vuốt ma thần?
113. Hôm nay làm việc bạn cần làm,
Ai chắc ngày mai có ánh quang?
Thần chết chính là viên đại tướng
Không cho ai bảo đảm an toàn.
114. Trộn luôn rình rập lấy kho tàng,
Con đã thoát bao mối buộc ràng,
Cha hãy trở về vương vị cũ,
Con màng gì nữa với giang san?
Sao mong cầu vợ cũng quy tiên,
Sao suy nghĩ mãi về xuân sắc,
Thoáng chốc xuân xanh sẽ hết liền?
Còn lại tuổi già hăm dọa đó
Bao giờ cũng đứng cạnh triền miên.
111. Ðâu lạc thú đem đến cuộc đời,
Ðẹp giàu, ngự thiện, thú vui chơi,
Thê nhi có nghĩa gì con nữa?
Xiềng xích con nay giải thoát rồi.
112. Ðiều con biết: mọi chốn đi đường
Số phận luôn canh giữ chẳng ngừng,
Lạc thú sang giàu đâu ích lợi
Cho người thấy móng vuốt ma thần?
113. Hôm nay làm việc bạn cần làm,
Ai chắc ngày mai có ánh quang?
Thần chết chính là viên đại tướng
Không cho ai bảo đảm an toàn.
114. Trộn luôn rình rập lấy kho tàng,
Con đã thoát bao mối buộc ràng,
Cha hãy trở về vương vị cũ,
Con màng gì nữa với giang san?
Khi
Bậc Ðại Sĩ chấm dứt bài giảng đầy thực tiễn của ngài,
không những chỉ nhà vua và vương hậu nghe theo ngài, mà cả mười sáu ngàn cung
phi cũng muốn sống đời tu hành. Rồi vua ban
lệnh đi khắp kinh thành, cùng với tiếng trống vang
dậy rằng ai muốn làm ẩn sĩ đều được đi tu với vương
tử ngài.
Vua
bảo mở cửa kho báu ra, truyền viết chiếu chỉ trên một chiếc dĩa vàng, dựng trên
một cột tre, ban lệnh rằng các bình châu báu của vua sẽ được đem chưng bày ra nhiều nơi và kẻ nào muốn
lấy cũng được.
Dân
chúng bỏ nhà mở hết mọi cửa ngõ, như mở hội chợ, và ra đường vây quanh nhà vua. Vua cùng đám dân chúng ấy đều thề nguyền sống khổ hạnh
trước Bậc Ðại Sĩ. Am ẩn sĩ được Thiên chủ Sakka cho dựng lên suốt ba dặm đường. Bậc Ðại Sĩ bước qua các túp lều làm bằng lá cành cây này, chỉ định các lều ở giữa dành cho đám phụ nữ vì họ bản tánh rụt rè. Còn những lều
bên ngoài dành cho phái nam. Vào ngày Trai giới, họ đều đứng ở vùng đất ấy, tụ tập lại, ăn trái cây do Vissakamma
trồng trước đây, và họ giữ giới luật tu hành. Bậc Ðại Sĩ biết rõ tâm mỗi người
nào đang chìm đắm vào dục tưởng, sân tưởng hay hại tưởng, liền ngồi trên không
mà thuyết Pháp cho từng người, và trong khi nghe Pháp, họ chóng tăng trưởng các
Thắng trí và các Thiền chứng.
Một
vị vua láng giềng hay tin vua Kàsi đã trở thành vị khổ hạnh, liền quyết định lập vương quốc của mình tại Bàlani. Vì thế
vua ấy vào kinh thành, thấy khắp nơi trang hoàng rực rỡ. Vua bước vào cung
chiêm ngưỡng đồ thất bảo và nghĩ thầm
chắc phải có chuyện nguy hiểm gì đó quanh ngôi báu này. Vua bảo đi triệu vào vài kẻ đang say rượu và hỏi họ vị vua trước đây rời cung điện bằng cung môn nào.
Họ
tâu lên:
-
Bằng đông môn.
Vì
thế vua thân hành ra cổng thành ấy và đi thẳng tới dọc theo bờ sông. Bậc Ðại Sĩ biết vua ấyđến, bước ra đón vua và ngồi
trên không thuyết Pháp. Rồi lúc đó vị vua định chiếm
nước này lại nguyện xuất gia cùng với hội chúng của mình. Và việc này lại xảy
ra một lần nữa cho một vị vua khác.
Như
vậy có cả ba quốc độ không người cai trị,
voi ngựa được thả đi lang thang khắp các khu rừng. Xe ngựa gãy tan tành vứt
trong rừng, tiền bạc trong các kho báu nhiều như cát bụi, tung vãi quanh vùng
am ẩn sĩ. Các cư dân tại đó chứng đắc tám Thiền
chứng và lúc mạng chungđều được sinh lên Phạm thiên giới. Ngoài ra, ngay cả
ngựa voi có tâm được an tịnh nhờ chiêm
ngưỡng các bậc Hiền trì, cuối cùng được tái sinh vào sáu cõi thiên ở dục giới.
*
Khi bậc
Ðạo Sư đã thuyết Pháp thoại này xong, Ngài bảo:
- Không
phải chỉ ngày nay, mà ngày xưa kia ta cũng đã từ bỏ ngai vàng và xuất gia
sống đời khổ hạnh.
Rồi
Ngài nhận diện Tiền thân:
- Nữ
thần trong chiếc lọng là Uppalavannà (Liên Hoa Sắc), người lái xe là Sàriputta
(Xá-lợi-phất), cha mẹ ta là vương tộc ngày nay, triều đình là hội chúng của đức Phật và Hiền giả què câm
Mùgapakka chính là Ta.
-ooOoo-
539.
Chuyện Đại vương Mahàjanaka (Tiền thân Mahà-Janaka)
Chàng
là ai chiến đấu anh hùng...,
Bậc Ðạo
Sư kể chuyện này trong khi đang ở tại Jetavana (Kỳ Viên) về Ðại sự xuất thế
cao cả của Ngài.
Một
ngày kia, các Tỷ-kheo ngồi tại Chánh pháp đường bàn luận về việc xuất thế
của đức Như Lai. Bậc Ðạo Sư đến và thấy vấn đề này, Ngài bảo:
- Ðây
không phải là lần đầu tiên Như Lai thực hành Ðại sự Xuất thế, trước kia Như Lai
cũngđã làm như vậy.
Rồi
Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Ngày
xưa có một vị vua tên là Mahàjanaka trị vì ở Mithilà trong quốc độ Videha. Ngài có hai con trai là Aritthajanaka
và Polajanaka. Ngài phong thái tử làm vua kế nghiệp và vương tử thứ hai làm Ðại
tướng quân. Sau đó, khi vua Mahàjanaka
qua đời, Aritthajanaka lên ngôi vua và lại phong
vương đệ làm vị kế nghiệp.
Một
ngày kia có một nô lệ vào tâu vua rằng vương đệ muốn giết ngài. Nhà vua nghe tâu chuyện đó nhiều lần, đâm ra nghi ngờ, ra lệnh cầm tù
Polajanaka trong gông cùm và canh giữ chàng kỹ ở một nơi không xa hoàng cung.
Vương tử phát nguyện:
-
Nếu ta là kẻ thù của anh ta, thì cứ cho các xiềng xích và cửa ngõ không ai mở
ra được; nếu không, thì xin các xiềng xích cửa ngõ
hãy mở ra hết.
Lập
tức các xiềng xích đứt ra từng mảnh và cửa
ngõ bật tung. Vương tử liền thoát ra, đi đến một làng ở biên thùy và sống ở đó.
Dân
chúng nhận ra vương tử, liền đến hầu hạ chàng, vì thế
nhà vua không thể nào ra lệnh bắt chàng được. Dần dà chàng trở thành người cai trị xóm làng ở biên địa ấy. Với đám tùy tùngđông đảo, chàng nghĩ
thầm: "Ngày trước ta không phải là kẻ thù của anh ta, nhưng nay ta lại là
kẻ thù của anh ta rồi". Thế rồi chàng trở lại Mithilà với đám hầu cận đông đảo đóng quân phía ngoài kinh
thành.
Dân
chúng hay tin vương tử trở về, liền đem voi ngựa đến đón chàng, và dân chúng các thành thị khác cũng đến tụ tập quanh vương tử. Sau đó chàng gửi một
thông điệp cho anh của chàng: "Ngày xưa ta không
phải là kẻ thù của ngươi, nhưng nay ta chính là kẻ thù của ngươi đó. Hãy trao lại ta cây lọng trắng của vua,
không thì ta gây chiến".
Khi
vua sắp ra chiến trường, ngài giã từ chánh hậu:
-
Này ái khanh, không ai biết trước được thắng bại ở sa trưởng. Nếu ta có mệnh hệ nào, ái khanh phải
bảo vệ vương nhi trong bụng thật cẩn thận.
Rồi
ngài ra đi và binh lính của
vương tử Polajallaka đã sớm kết liễu đời ngài trong chiến địa. Tin nhà vua tử trận gây đại hỗn loạn khắp kinh thành. Vương hậu hay tin
dữ vội thu góp tư trang quý giá nhất vào trong một chiếc giỏ, trải khăn và gạo
trên mặt, ăn mặc dơ bẩn và cải
trang, đội giỏ lên đầu và trốn đi vào lúc bất ngờ không ai hay biết.
Bà đi ra cửa bắc nhưng bà không biết đường, vì bà chưa hề đi đâu cả, lại không biết nhắm hướng địa bàn.
Trước kia bà có nghe nói đến kinh thành
Kàlacampà, nên bà ngồi chờ hỏi thăm xem có ai đi đến đến Kàlacampà không.
Lúc
bấy giờ hài nhi trong bụng bà không phải đứa trẻ tầm thường, mà đó là Bậc Ðại Sĩ tái thế, sau khi đã thành tựu các công hạnh Viên mãn (Ba-la-mật),
nên Thiên giới Sakka rúng động vì uy lực của vị
ấy. Thiên chủ Sakka xem xét duyên cớ và nghĩ rằng có lẽ một Bậc Ðại Sĩ tài đức đang được cưu mang trong bụng chánh hậu, nên
ngài phải đi xem sao. Thế là ngài
làm phép hiện ra một chiếc xe có phủ trần và đặt một chiếc giường lên, rồi đứng đợi trước cửa ngôi nhà vương hậu đang ngồi, giả dạng làm một lão già lái xe ngựa
và hỏi có ai muốn đi đến Kàlacampà không.
-
Cha ơi, con muốn đi đến đó.
-
Thế thì leo lên mà ngồi, thưa bà.
-
Cha ơi, con có thai gần ngày nên không leo được con muốn ngồi đằng sau, cho con chỗ để chiếc giỏ này của con
thôi.
-
Bà mẹ ơi, nói gì vậy? Không ai biết lái xe như lão đâu đứng sợ, cứ leo lên và ngồi xuống.
Nhờ
thần lực của Thiên chủ, mặt đất trồi lên cao đưa bà leo lên đến tận phía sau xe. Khi nằm trên giường, bà đoán biết đây phải là một vị thần. Vừa đặt mình xuống chiếc giường thần, bà liền ngủ
ngay. Sau chừng ba mươi dặm đường, Sakka Thiên chủ đến một con sông, đánh thức bà dậy, bảo:
-
Bà mẹ ơi, hãy dậy mà tắm sông, đầu giường có một cái áo
choàng, cứ mặc vào, trong xe có bánh, cứ ăn nhé.
Bà
làm theo lời Thiên chủ rồi lại lên giường nằm đến chiều tối. Khi đến Campà, bà thấy cổng thành,
tháp chuông và thành lũy, bà hỏi thành này tên gì, Thiên chủ đáp:
-
Thành Campà đó, bà mẹ ơi?
-
Cha nói gì thế, từ kinh thành của con đến Campà không phải sáu mươi dặm đường đó sao?
-
Ðúng vậy, bà mẹ ơi, nhưng lão biết đường tắt.
Thế
rồi ngài để bà xuống xe ở cổng
nam.
-
Bà mẹ ơi, làng của lão ở đằng kia kìa, bà mẹ cứ
vào kinh thành đó.
Nói
xong Thiên chủ Sakka biến đi, trở lại cõi trời.
Vương
hậu ngồi xuống một thềm nhà bên đường. Lúc bấy giờ có
một Bà-la-môn dạy kinh Vệ-đà, ở tại thành Campà, đang cùng năm trăm đệ tử đi tắm, chợt thấy vương
hậu ngồi đó, dáng điệu xinh đẹp và thanh lịch. Và nhờ thần lực của Bậc Ðại Sĩ
trong bụng bà, nên người này thấy mến yêu bà ngay như đối với một cô em gái, liền bảo các đồ đệ đợi
bên ngoài, một mình đi vào thềm nhà, hỏi bà:
-
Này cô em, cô ở xóm làng nào?
Bà đáp:
-
Ta là Chánh hậu của vua Aritthajanaka ở kinh thành Mithilà.
-
Tại sao bà đến đây?
-
Vua mới bị em ngài giết chết, ta sợ quá phải đến đây để cứu mạng đứa con sắp ra đời.
-
Thế bà có họ hàng tại đây không?
-
Không ai cả, cha à.
-
Ðừng lo gì cả, ta là một Bà-la-môn miền Bắc thuộc gia đình có thân thế lớn, ta là một đại sư danh tiếng khắp xa gần, ta sẽ chăm sóc bà
như em gái ta vậy, hãy gọi ta là anh và ôm chân ta mà la khóc to lên nào!
Bà
liền khóc lóc thảm thiết, gục dưới chân ông ta, và họ an ủi lẫn nhau. Các đệ tử của ông thầy chạy đến hỏi cớ sự ra sao.
-
Ðây là em gái út của ta, cô ấy sinh ra lúc ta đã đi xa nhà.
-
Ồ sư phụ đừng buồn, bây giờ sư
phụ đã gặp lại sư muội rồi.
Ông
thầy liền bảo đem lại một xe lớn có
mui trên, mời bà lên ngồi và đưa về nhà mình, dặn họ
bảo bà vợ ông ta rằng đây là em gái mình và
phải đón tiếp tử tế. Bà vợ vị Bà-la-môn này đem nước ấm cho bà tắm xong, dọn giường cho bà
nằm. Người Bà-la-môn đi tắm về, vào giờ cơm
ông cho gọi cô em gái ra cùng ăn và chăm sóc bà chu đáo trong nhà ông.
Chẳng
bao lâu bà hạ sinh một con trai, họ đặt tên hài nhi theo tên tổ phụ là vương tử Mahàjanaka. Khi lớn
lên, cậu bé thường chơi đùa với các thiếu niên
khác, và khi chúng trêu ghẹo cậu để khoe dòng dõi chính thống quý tộc (Khattiya) của chúng, cậu
thường đánh lại chúng bằng sức
mạnh siêu đẳng và lòng dũng cảm
của mình.
Khi
chúng kêu khóc và được hỏi ai đánh chúng,
chúng thường trả lời:
-
Con bà góa.
Vương
tử suy nghĩ: "Chúng cứ gọi ta là con bà góa mãi, ta sẽ hỏi mẹ xem
sao".
Một
hôm cậu hỏi mẹ:
-
Mẹ ơi, con là con của ai?
Bà
nói dối cậu, bảo rằng vị Bà-ba-môn là cha cậu. Khi cậu đánh chúng bạn, chúng lại gọi cậu là con bà góa,
cậu trả lời vị Bà-la-môn là cha của cậu, chúng vặn lại:
-
Vị Bà-la-môn là gì của bạn?
Cậu
suy nghĩ: "Mấy tên này bảo ta: Vị Bà-la-môn là gì của ta. Mẹ ta không muốn
giải thích việc này cho ta, bà không muốn nói thật vì danh dự của bà, thôi ta
phải xin bà nói sự thật cho ta rõ".
Thế
rồi khi bú sữa mẹ, cậu cắn vú bà và bảo:
-
Mẹ hãy cho con biết cha con là ai, nếu không con sẽ cắn đứt vú mẹ đấy.
Bà
không thể dối cậu được nữa, đành đáp:
-
Con ơi, con là con vua Aritthajanaka ở thành Mithila đó, cha con bị chú Polajanaka giết, mẹ phải đem
con đến đây để cứu mạng con; vị Bà-la-môn này xem mẹ như em gái và săn sóc mẹ
chu đáo.
Từ đó cậu không tức giận khi ai gọi cậu là con bà
góa nữa. Trước năm mười sáu tuổi, cậu đã thuộc ba tập kinh Vệ-đà và nhiều môn
học khác. Khi đến mười sáu tuổi, cậu
rất khôi ngô tuấn tú. Cậu nghĩ thầm: "Ta sẽ chiếm lại ngai vàng của cha
ta". Thế rồi cậu hỏi mẹ:
-
Mẹ có tiền không mẹ? Nếu không, con sẽ đi buôn kiếm tiền và dành lại ngai vàng của cha con.
-
Con ơi, mẹ đến đây không phải hai
tay trắng đâu, mẹ có để dành ngọc ngà châu báu kim cương đủ để chiếm lại ngai vàng. Hãy đem chúng đi giành lại ngôi vua, đừng tính đi buôn nữa.
-
Thưa mẹ, hãy cho con một nửa số châu báu đó, con sẽ đi đến Suvannabhùmi (Xứ vàng) và làm giàu tại đó xong mới đi lấy lại ngai vàng.
Cậu
xin bà một nửa số châu báu và cùng với số vốn liếng đi buôn của cậu, cậu đem theo chiếc tàu buôn một
số thương nhân đi đến Suvannabhùmi. Cậu
từ giã mẹ và nói cho bà biết nơi cậu sắp đến.
-
Con ơi, đi biển may ít rủi
nhiều, con đừng đi. Con có đủ vàng bạc để chiếm lại ngôi báu mà.
Nhưng
cậu nói với mẹ rằng cậu muốn đi, nên cậu từ giã bà và
lên tàu ra khơi. Cùng ngày ấy, vua Polajanaka phát trọng bệnh không ngồi dậy được. Còn chiếc tàu buôn chở cả bảy đoàn lữ hành cùng đám gia súc của họ, trong bảy ngày đi được bảy trăm dặm đường. Nhưng vì quá nặng nề
không thể chịu đựng được nữa, ván tàu
nứt ra, nước ùa vào mỗi lúc một cao thêm. Tàu bắt đầu chìm giữa biển cả trong lúc các thủy thủ la
khóc thảm thiết và cầu cứu các thần linh.
Riêng
bậc Ðại Sĩ không hề kêu khóc cầu cứu gì cả. Biết rằng con tàu đã tận số, ngài trộnđường với bơ tươi ăn thật no
nê, rồi bôi dầu vào áo quần sạch, thắt chặt đồ đạc quanh mình cậu và đứng dựa cột buồm. Khi con tàu chìm, chiếc cột buồm vẫn đứng thẳng. Người vật trên tàuđều làm mồi cho cá
và rùa trạnh. Nước biển nhuộm màu máu cả một vùng.
Nhưng
bậc Ðại Sĩ đứng trên cột buồm, định hướng thành Mithilà, rồi bay bổng lên từ đỉnh cột buồm, vận dụng hết sức mạnh băng qua
bầy cá rùa biển ấy và rơi xuống cách con tàu chừng khoảng một trăm bốn mươi
cubit (1 cubit: 45cm). Cũng vào ngày đó vua Polajanaka từ trần.
Sau đó, bậc Ðại Sĩ vượt dòng sóng biếc, rẽ sóng như một khối vàng ròng. Một
tuần trôi qua như chỉ một ngày. Khi đã thấy bờ, ngài liền súc miệng và nhịn ăn. Lúc bấy giờ tiên nữ Mammekhalà (Ngọc Ðới) được Bốn vị Thiên vương cai quản thế gian phong
làm thần giữ biển. Các vị ấy bảo nàng:
-
Những con người có đạo hạnh như hiếu thảo
với mẹ không đáng bị chết chìm dưới biển. Hãy tìm thử và cứu họ.
Nhưng
trong bảy ngày liền, nàng chẳng nhìn ra biển và có người cho là tâm trí nàng đã ngẩn ngơ vì ham hưởng lạc thú thiên giới. Có
người lại cho là nàng bận đi dự hội ở thiên đình. Tuy thế, đến ngày thứ bảy nàng cũng nhìn ra biển và tự
nhủ: "Hôm nay là ngày thứ bảy rồi ta không nhìn ra biển, ai đang tiến tới kia?" Khi thấy Bậc Ðại Sĩ , nàng nghĩ thầm: "Nếu vương tử
Mahàjanaka đã chết chìm dưới biển
thì lẽ ra ta đã phải đi dự hội tại thiên đình rồi".
Vì
thế này hóa hình thật lộng lẫy đứng trên không gần chỗ
Bồ-tát và ngâm vần kệ thứ nhất để thử năng lực của
ngài:
1.
Chàng là ai chiến đấu anh hùng
Giữa đại dương xa hẳn đất bằng,
Bạn hữu là ai chàng tín nhiệm
Ðến bên chàng giúp một tay cùng?
Giữa đại dương xa hẳn đất bằng,
Bạn hữu là ai chàng tín nhiệm
Ðến bên chàng giúp một tay cùng?
Bồ-tát đáp lời:
-
Ðây là ngày thứ bảy ta ở trên đại dương, ngoài ta ra
không có bóng người thứ hai nào cả. Aiđang nói với ta vậy kìa?
Rồi
nhìn lên không trung, ngài ngâm vần kệ thứ hai:
2. Biết
phận sự ta ở cõi trần,
Khi ta nỗ lực, hỡi Thiên thần,
Nơi đây giữa đại dương xa đất,
Ta đấng nam nhi gắng hết lòng.
Khi ta nỗ lực, hỡi Thiên thần,
Nơi đây giữa đại dương xa đất,
Ta đấng nam nhi gắng hết lòng.
Vì
muốn nghe Pháp lành, nữ thần liền ngâm vần kệ thứ ba:
3. Ðây giữa biển sâu rộng chẳng cùng,
Bến bờ xa tít mắt vời trông,
Sức chàng tận dụng thành mây khói,
Giữa đại dương, chàng gặp tử thần.
Bến bờ xa tít mắt vời trông,
Sức chàng tận dụng thành mây khói,
Giữa đại dương, chàng gặp tử thần.
Bồ-tát
trả lời:
-
Tại sao nàng nói như vậy? Nếu ta mất lòng trong lúc ta gắng hết sức mình thì
dẫu sao đi nữa ta cũng không còn
bị ai chê trách.
Rồi
ngài ngâm kệ:
4. Ai
làm gắng hết sức nam nhân,
Ðối với người thân, chẳng lỗi lầm,
Thiên đế cũng không đòi trả nợ,
Chẳng hề ân hận ở trong lòng.
Ðối với người thân, chẳng lỗi lầm,
Thiên đế cũng không đòi trả nợ,
Chẳng hề ân hận ở trong lòng.
Kế đó nữ thần ngâm kệ:
5.
Chiến đấu như vầy ích lợi sao,
Phí công vô ích được gì nào?
Báo đền không có gì thành đạt,
Chỉ có tử thần đổi khổ đau.
Phí công vô ích được gì nào?
Báo đền không có gì thành đạt,
Chỉ có tử thần đổi khổ đau.
Thế
là Bồ-tát ngâm các vần kệ sau để cho nữ thần thấy nàng
nhận xét thiếu sáng suốt:
6. Ai
nghĩ không gì để đấu tranh,
Và không chiến đấu hết lòng mình,
Bại vong là lỗi cần chê trách,
Vì chính lòng hèn yếu bất thành.
7. Con người dự định việc trên đời,
Làm việc mình xem tốt tuyệt vời,
Dự định thành công hay thất bại,
Tương lai chỉ rõ cuối cùng thôi.
8. Nữ thần chẳng thấy đó hay chăng,
Chính việc ta nay quyết định phần:
Bao kẻ chết chìm, ta được sống,
Và nàng đang đứng cạnh trên không.
9. Vậy ta chiến đấu hết sức ta
Qua giữa đại dương thẳng đến bờ,
Trong lúc sức tàn, ta vẫn gắng,
Quyết không lùi đến lúc nguy cơ.
Và không chiến đấu hết lòng mình,
Bại vong là lỗi cần chê trách,
Vì chính lòng hèn yếu bất thành.
7. Con người dự định việc trên đời,
Làm việc mình xem tốt tuyệt vời,
Dự định thành công hay thất bại,
Tương lai chỉ rõ cuối cùng thôi.
8. Nữ thần chẳng thấy đó hay chăng,
Chính việc ta nay quyết định phần:
Bao kẻ chết chìm, ta được sống,
Và nàng đang đứng cạnh trên không.
9. Vậy ta chiến đấu hết sức ta
Qua giữa đại dương thẳng đến bờ,
Trong lúc sức tàn, ta vẫn gắng,
Quyết không lùi đến lúc nguy cơ.
Nữ
thần nghe những lời lẽ anh dũng đó, liền ngâm vần kệ tán
thán ngài:
10.
Chàng đang chiến đấu thật hùng cường,
Giữa biển mênh mông thật bạo tàn,
Chẳng thối lui, chối từ nhiệm vụ,
Gắng công nơi phận sự chờ chàng,
Hãy đi đến chốn lòng chàng muốn,
Ðứng để gian nan cản bước đường.
Giữa biển mênh mông thật bạo tàn,
Chẳng thối lui, chối từ nhiệm vụ,
Gắng công nơi phận sự chờ chàng,
Hãy đi đến chốn lòng chàng muốn,
Ðứng để gian nan cản bước đường.
Sau đó nữ thần hỏi ngài muốn đưa đi đâu, ngài đáp:
-
Tới kinh thành Mithilà.
Nàng
liền tung ngài lên không như một tràng hoa, rồi ôm ngài vào lòng như đứa con thân yêu, và vụt lên giữa không gian.
Bồ-tát ngủ suốt bảy ngày, thân thể ướt đầm nước muối và rúngđộng vì sự tiếp xúc với thần tiên này. Rồi nữ
thần mang ngài đến Mithilà, đặt ngài nằm nghiêng bên hữu trên bệ đá dùng để tế lễ trong một vườn xoài, giao cho các nữ thần trong ngôi vườn
phò trợ ngài rồi trở về nơi cũ.
Lúc
bấy giờ vua Polajanaka không có vương tử, chỉ có một công chúa thông thái và
hiền đức, tên là Sìvalidevì. Quần thần hỏi nhà vua
khi ngài sắp băng hà:
-
Tâu Ðại vương, chúng thần sẽ trao ngôi báu cho kẻ nào khi Ðại vương về chầu
trời?
Nhà
vua bảo:
-
Hãy giao lại cho kẻ nào làm đẹp lòng công chúa
Sìvalì, hoặc người nào biết được đâu là phíađầu của
chiếc ngự sàng hình vuông, hoặc người nào giương được chiếc cung cần sức mạnh của cả ngàn người,
hoặc người nào tìm ra được mười sáu kho báu.
-
Tâu Ðại vương, xin cho chúng thần biết danh sách mười sáu kho báu ấy.
Nhà
vua liền lập lại danh sách ấy:
11. Kho
báu mặt trời mọc buổi mai,
Kho tàng kia lại ở phương đoài,
Kho tàng trong với kho ngoài ấy,
Kho báu không trong cũng chẳng ngoài.
12. Kho ở nơi lên xuống của ta,
Ở nơi có bốn trụ sà-la,
Ở đầu răng với đầu đuôi ấy,
Và ở vòng dây yo-ja-na,
Ở các đầu cành cây cổ thụ,
Ở trứng nước lạnh ke-bu-ka.
13. Mười sáu kho châu báu ngọc vàng,
Phải tìm nơi để các kho tàng,
Chiếc cung cần một ngàn nam tử,
Làm đẹp lòng công chúa, ngự sàng.
Kho tàng kia lại ở phương đoài,
Kho tàng trong với kho ngoài ấy,
Kho báu không trong cũng chẳng ngoài.
12. Kho ở nơi lên xuống của ta,
Ở nơi có bốn trụ sà-la,
Ở đầu răng với đầu đuôi ấy,
Và ở vòng dây yo-ja-na,
Ở các đầu cành cây cổ thụ,
Ở trứng nước lạnh ke-bu-ka.
13. Mười sáu kho châu báu ngọc vàng,
Phải tìm nơi để các kho tàng,
Chiếc cung cần một ngàn nam tử,
Làm đẹp lòng công chúa, ngự sàng.
Ngoài
các kho báu trên, vua còn nêu danh sách các kho báu khác. Sau khi vua từ trần,
các đại thần làm lễ tống táng xong, vào ngày thứ bảy,
họ hội họp lại và quyết định:
-
Ðại vương ban lệnh chúng ta giao ngôi báu cho kẻ nào làm đẹp lòng con gái ngài, nhưng ai là kẻ có khả
năng làm vừa ý công chúa đây?
Họ đồng đáp:
-
Viên đại tướng là một kẻ được vua sủng ái.
Thế
rồi họ cho triệu vị này đến. Vị này liền đến trước cung môn và báo cho công chúa biết ông
ta đã đến chầu. Công chúa hiểu duyên cớ gì ông ta đến và để thử xem ông ta có đủ tài trí xứngđáng với chiếc lọng của hoàng
gia không, nàng cho triệu ông ta vào. Nghe lệnh công chúa và ước mong làm đẹp lòng nàng, ông liền chạy lên bệ rồng và đứng cạnh nàng. Muốn thử ông, nàng bảo:
-
Chạy ra ngoài sân, nhanh lên!
Ông
ta vùng lên chạy, tưởng là công chúa hài lòng lắm. Công chúa lại bảo:
-
Ðến đây.
Ông
ta vội chạy đến. Công chúa thấy ông
ta thiếu hẳn tài trí, nàng nói:
-
Ðến xoa chân ta.
Ông
ta liền ngồi xuống xoa chân công chúa cho nàng hài lòng. Thế là nàng đá vào ngực ông ta té lăn rồi bảo đám thị nữ:
-
Ðánh tên khùng mù quáng ngu ngốc này và lôi cổ nó ra.
Chúng
dạ vang tuân lệnh. Rồi chúng nói với ông:
-
Thưa Ðại tướng. . .
Ông
ta đáp:
-
Thôi đừng nói nữa, nàng ấy không phải là người.
Sau đó viên quan giữ kho tàng đến, nàng cũng làm nhục ông ta như vậy. Lần lượt
các viên quan giữ kho, giữ lọng, giữ kiếm đều bị nàng hạ nhục.
Thế
rồi quần thần quyết định:
-
Không kẻ nào làm đẹp lòng công chúa, vậy
hãy gả nàng cho kẻ nào giương được cây cung cần sức
mạnh của cả ngàn người.
Nhưng
không ai giương cung nổi cả. Sau đó họ bảo:
-
Hãy gả nàng cho người nào biết được đâu là đầu của chiếc ngự sàng hình vuông.
Nhưng
không một ai biết cả.
-
Vậy thì gả nàng cho kẻ nào tìm được mười sáu kho tàng.
Nhưng
rồi cũng chẳng ai tìm ra. Sau đó quần thần họp lại bảo
nhau:
-
Ngôi báu không thể nào không có vua trị, vậy phải làm gì bây giờ?
Lúc đó vị tế sư của hoàng gia bảo họ:
-
Ðừng lo, ta phải đem ra một chiếc xe hoa,
hễ vị nào được xe hoa rước về là
sẽ có đủ uy lực cai trị cõi Diêm-phù-đề.
Họ
chấp thuận, ra lệnh cả kinh thành trang hoàng thật lộng lẫy, cho bốn con ngựa
màu đỏ tía buộc vào chiếc xe hoa, phủ kín màn vải
lên chúng, gắn năm phù hiệu của hoàng gia vào và một đám tùy tùng vây quanh bốn phía xe. Bấy giờ
tiếng kèn khua vang dội trước xe, chỉ có một người lái xe, ngoài ra không có ai
ở trong xe cả. Sau đó, vị tế sư ra lệnh
khua chiêng trốngđằng sau, và sau khi rảy nước trong chiếc bình bằng vàng lên
dây cương và roi ngựa, vị này ra lệnh cho xe đi tìm vị vua đủ tài đức cai trị quốc độ.
Chiếc
xe hoa oai vệ đi quanh hoàng cung rồi
tiến ra đường cái. Vị đại tướng
cùng nhiều viên quan trong triều đều tưởng rằng xe đang đi tới phía nhà mình. Nhưng rồi xe cứ đi thẳng ngang qua mọi phố phường trang nghiêm
diễn hành quanh kinh thành, ra khỏi đông môn và tiến tới ngự viên. Khi ấy xe đi quá nhanh, đám hầu cận bảo xe dừng lại, nhưng
vị tế sư bảo:
- Đừng dừng lại, cứ để nó đi một trăm dặm tùy
thích.
Xe
tiến vào ngự viên, trịnh trọng đi vòng quanh bệ đá và dừng lại như thể sẵn sàng cho người bước
lên. Vị tế sư ngắm Bồ-tát đang nằm đó và bảo các
vị đại thần:
-
Thưa các ngài, ta thấy có người nằm đó, ta không biết người đó có đủ tài trí xứng đáng với chiếc lọng trắng của hoàng gia không.
Nếu vị này là người có tài thánh thì sẽ không thèm nhìn ta đâu, nhưng nếu đó là một kẻ hạ tiện thì sẽ giật
mình khiếp sợ khi nhìn thấy ta, vậy hãy đánh chiếng trống lên cả nào.
Vì
thế họ khua dậy hàng trăm thứ trống kèn chẳng khác nào tiếng gầm thét của biển
cả. Bậc Ðại Sĩ lúc đó thức giấc vì nghe
tiếng ồn ào, mở khăn che đầu ra nhìn quanh, thấy đám đông rầm rộ. Ngài nghĩ có lẽ chiếc lọng
trắng đã đến tay ngài nên lại che đầu và quay sang nằm phía bên tả. Vị tế sư mở chân ngài ra xem,
ngắm các tướng mạo của ngài và bảo:
-
Ðừng nói một châu thiên hạ mà làm gì, vị này có đủ uy lực cai trị cả bốn châu.
Thế
là ông ta ra lệnh đáng chiêng trống lại
lần nữa.
Bồ-tát
mở khăn trùm mặt ra, quay người sang bên hữu và nhìn đám đông. Vị tế sư trấn an mọi người xong, chắp
hai tay lại, cúi xuống trước ngài cung kính nói:
-
Xin Ðại vương đứng dậy, vương quốc này
thuộc quyền ngài rồi.
Bồ-tát
trả lời:
-
Thế đức vua đâu?
-
Vua đã băng hà.
-
Ngài không có vương tử, vương đệ gì sao?
-
Tâu Ðại vương, không.
-
Thôi được, thế thì ta nhận ngai vàng.
Rồi
ngài đứng dậy, ngồi xếp bằng trên bệ đá. Quần thần làm lễ quán đảnh (rảy nước thánh lênđầu để phong vương) cho
ngài tại đó và thế là ngài trở
thành vua Mahàjanaka. Rồi ngài bước lên xe về thành với vẻ uy nghi lẫm liệt của
bậc đế vương. Ngài vào cung, bước lên ngai vàng, ban
chức tước cho vị đại thần và các quan lại
khác.
Lúc
bấy giờ công chúa muốn thử tài của ngài qua cách xử sự đầu tiên, liền cho gọi một thị vệđến bảo:
-
Ngươi hãy tâu với Ðại vương là công chúa Sìvalì muốn mời ngài đến lập tức.
Vị
vua tài trí này làm như không nghe lời gã, cứ tiếp tục phát họa cung điện:
-
Phải thế này mới được.
Biết
không thể nào làm nhà vua chú ý tới mình, gã trở lại tâu công chúa:
-
Tâu công chúa, Ðại vương nghe công chúa nói vậy mà cứ tiếp tục phát họa sơ đồ hoàng cung thôi, ngài chẳng quan tâm gì đến công chúa cả.
Công
chúa tự nhủ: "Ðây phải là người có tâm hồn cao cả lắm". Và nàng cho
một sứ giả thứ hai rồi thứ ba đến nữa. Sau cùng vua
vào cung, dáng điệu thong dong thư
thái, ngáp dài dáng như sư tử. Khi ngài đến gần, công chúa không thể nào đứng yên được trước vẻ uy nghi của ngài, liền bước lên đưa tay ra cho ngài vịn. Ngài cầm lấy tay nàng đi lên bệ vàng và sau khi ngự trên vương sàng, dưới
cây lọng trắng, ngài hỏi các đại thần:
-
Khi tiên đế thăng hà, ngài có chỉ
dạy các ngươi điều gì không?
Họ đáp:
-
Vương quốc phải được giao cho kẻ nào có
thể làm đẹp lòng công chúa.
-
Thế công chúa đã đưa tay cho ta vịn khi ta đến gần nàng, như vậy
ta đã làm đẹp lòng nàng rồi, còn điều gì khác nữa?
-
Tiên đế bảo vương quốc phải được trao lại cho kẻ biết
được phía đầu của ngự sàng hình vuông này.
Vua đáp:
-
Ðiều này khó nói thật, nhưng cũng có thể biết được nhờ sáng kiến.
Thế
là ngài rút ra một cây kim vàng trên đầu ngài và đưa đưa cho công chúa,
bảo:
- Đặt cái này vào cho đúng chỗ.
Nàng
cầm lấy kim đặt vào đầu của chiếc ngự sàng.
Thấy
vậy, họ đưa ra câu tục ngữ:
-
Nàng trao tặng chàng thanh kiếm.
Nhờ
dấu hiệu này, ngài biết đâu là phía đầu ngự sàng, nhưng cứ vờ làm như ngài không
nghe họ nói. Ngài hỏi họ nói gì, và khi họ lập lại câu đó. Ngài bảo:
-
Biết đầu chiếc ngự sàng cũng không kỳ diệu gì.
Rồi
ngài hỏi:
-
Còn gì để thử tài nữa.
Họ đáp:
-
Tâu Ðại vương, tiên đế ra lệnh trao ngôi báu
cho người nào giương được cây cung cần sức
mạnh của cả ngàn người.
Khi
họ đem cây cung đến theo lệnh ngài. Ngài giương nó
lên ngay lúc đang ngồi trên long sàng
như thể đó là cái khung xe chỉ
của đàn bà.
-
Cái gì nữa cứ nói đi - Ngài bảo.
-
Tiên đế ra lệnh trao vương quốc cho kẻ nào tìm ra được mười sáu kho tàng.
-
Danh sách đâu?
Các đại thần kể lại danh sách đã nói trên. Trong lúc
nghe họ nói, ngài thấy ý nghĩa dần dần sáng tỏ ra như thể trăng hiện lên trên
bầu trời.
-
Hôm nay chưa phải lúc, để ngày mai ta sẽ đi lấy các kho báu.
Ngày
hôm sau ngài họp quần thần lại và hỏi:
-
Tiên đế trước đây có cúng dường các vị Ðộc Giác Phật không?
Khi
nghe họ bảo có, ngài nghĩ thầm: "Mặt trời ở đây không phải là mặt trời thật, mà các vị Ðộc
Giác Phật thường được gọi là mặt trời vì
hình dáng tương tự như thế; vậy kho tàng phải ở nơi tiên đế thường đến gặp các vị này". Rồi ngài bảo
họ:
-
Khi các vị Ðộc Giác Phật đến, tiên đế thường gặp các Ngài ở đâu?
Họ
tâu lại nơi này nơi nọ. Ngài ra lệnh đào chỗ đó lên và tìm ra kho
tàng.
-
Thế khi tiên đế tiễn các vị Ðộc Giác Phật ra về, tiên đế đứng ở đâu để tạ từ?
Họ
tâu lại và ngài ra lệnh đào chỗ đó lên. Quần thần reo hò vang dậy tỏ lòng hân
hoan đồng nói:
-
Khi nghe nói chỗ mặt trời mọc, dân chúng trước kia đã quanh quẩn đào đất về phía mặt trời mọc
thật, rồi khi nghe phía mặt trời lặn, họ lại đào đất phía đó, nhưng đây mới đúng là kho tàng châu
báu, thật là kỳ diệu!
Khi
họ bảo:
-
Kho tàng bên trong.
Ngài
liền cho đào lên kho tàng ở bậc
thềm nhà bên trong đại môn của hoàng cung.
-
Kho tàng bên ngoài.
Ngài
liền cho đào kho tàng ở bên ngoài
thềm.
-
Không ở trong cũng không ở ngoài.
Ngài
cho đào kho tàng ở dưới thềm.
-
Ở nơi bước lên.
Ngài
cho đào kho tàng ở nơi đặt chiếc thang bằng vàng để nhà vua ngự lên vương tượng.
-
Ở nơi bước xuống.
Ngài
cho lấy ra kho tàng ở nơi nhà vua ngự xuống từ vương tượng.
-
Ở bốn cột trụ lớn bằng gỗ sàla.
Có
bốn chân chống lớn dưới vương sàng, làm bằng gỗ sàla, nơi triều thần phủ phục
trên sân chầu, từ đó ngài cho lấy ra bốn
bình đầy châu báu.
-
Vòng dây cương yojana.
Lúc
bấy giờ yojana là vòng dây cương xe ngựa, thế là ngài cho đào quanh long sàng cỡ bằng một vòng dây cương
ngựa, rồi lấy ra các bình châu báu.
-
Kho tàng ở đầu răng.
Ở
nơi vương tượng đứng, ngài lấy ra hai
bình châu báu ngay trước hai ngà voi.
-
Ở mút đuôi.
Từ
nơi vương mã đứng, ngài lấy ra những
bình châu báu nằm chỗ đối diện với cái đuôi
của vương mã.
Trong
nước kebuka.
Lúc
bấy giờ, nước được gọi là kebuka, thế
là ngài cho tát hết nước trong hồ của hoàng cung và lấy lên kho báu.
-
Kho báu ở ngọn cây.
Ngài
lấy ra các bình báu vật chôn trong khoảng tàng cây sàla che bóng trưa giữa vườn
ngự uyển. Như vậy ngài đã lấy ra đủ mười sáu kho báu và hỏi xem còn nữa không, họ đồng đáp:
-
Không còn.
Dân
chúng vô cùng hoan hỷ. Nhà vua lại bảo:
-
Ta sẽ đem châu báu này ra bố thí.
Thế
là ngài bảo dựng lên năm sảnh đường bố thí giữa kinh thành và tại các cung môn
rồi ban lệnh đại chẩn tế. Sau đó ngài
truyền đi mời mẹ ngài và người
Bà-la-môn từ Kalacampà về tuyên dương tán thán công đức của hai vị.
Trong
những ngày đầu tiên trị nước, vua
Mahàjanaka, con trai của vua Aritthajanaka, cai trị khắp mọi quốc độ ở Videha. Dân chúng bảo nhau:
-
Hoàng đế thật tài đức, chúng ta muốn yết kiến long nhan.
Thế
là cả kinh thành xôn xao muốn yết kiến tân vương, đem đến kinh đô đủ lễ vật từ khắp nơi. Họ chuẩn
bị đại lễ tại kinh đô, phủ lên hào lũy cả hoàng cung một lớp hồ vữa in dấu tay
của họ, treo đầy hương liệu và tràng
hoa, tung vãi ngũ cốc rang, hoa, hương trầm mù mịt cả bầu trời và soạn sẵn đủ thức ăn uống. Khi mang lễ vật vào dâng lên vua,
họ đứng vây quanh với đủ loại phẩm vật cứng, mềm,
mọi thức uống, trái cây.
Ðám đại thần ngồi một bên, một bên là các Bà-la-môn,
một phía nữa là các thương nhân giàu có, một phía nữa là các vũ nữ xinh đẹp, các Bà-la-môn danh ca có tài về lễ nhạc,
hát vang những khúc hoan ca, với hàng trẫm nhạc cụ được khua động, cho nên hoàng cung vang dậy lên
một âm thanh ầm ỹ như giữa lòng đại dương Yugandhara.
Khi vua nhìn quanh mọi nơi, hết thảy đều rúng động.
Bồ-tát
ngồi dưới cây lọng trắng, ngắm cảnh huy hoàng rực rỡ chẳng khác nào cung của
Sakka Thiên chủ, và ngài hồi tưởng những chiến đấu gian nan của ngài trên đại dương. "Dũng cảm làđiều chính đáng cần
phải biểu dương, nếu ta không biểu lộ lòng dũng cảm trên đại dương thì làm sao ta được huy hoàng như ngày nay?" Một nỗi hoan
hỷ khởi lên trong lòng ngài trong lúc hồi tưởng quá khứ, khiến ngài lập tức bật
lên một tiếng kêu to đắc thắng.
Sau đó ngài hoàn thành Thập vương pháp (mười nhiệm
vụ của một anh quân), cai trị rất đúng pháp và thường cúng dường các vị Ðộc Giác Phật. Cùng với thời
gian này, hoàng hậu Sìvalì hạ sinh một hoàng nam đầy đủ các tướng tốt lành và được đặt tên là Dìghàvu-Kumàra (Vương tử Trường
Thọ).
Khi
hoàng tử lớn lên, nhà vua phong con làm kẻ phó vương.
Một
ngày kia, người giữ vườn ngự uyển đem dâng vua đủ loại hoa quả. Vua rất đẹp ý và muốn làm vinh dự
cho gã, ngài bảo gã trang hoàng ngôi vườn ngự uyển rồi ngài sẽ đến viếng. Người làm vườn vâng lời ngài dạy,
xong tâu vua. Ngài liền ngự vương tượng có đám cận thần theo hầu, đi vào cổng ngự viên.
Bấy
giờ gần đó có hai cây xoài xanh
tươi, một cây không trái, còn một cây đầy trái rất ngon ngọt. Trước đây vua chưa nếm trái nào nên không
ai dám hái cả. Ngay khi nhà vua đi ngang qua trên mình
voi ngài hái một trái ăn thử. Lúc quả xoài đụng đầu lưỡi ngài một mùi hương cao quý xông
lên khiến ngài nghĩ thầm: "Khi trở về, ta sẽ hái thêm nhiều trái
nữa". Nhưng khiđược biết vua đã nếm trái đầu tiên rồi thì mọi người từ thái tử đến các người quản tượng đều tụ tập lại ăn xoài,
còn những người không ăn trái thì lại lấy gậy
phá cây, ngắt lá cho đến lúc cây tơi tả, xơ
xác trong lúc cây kia vẫn đứng sững tươi đẹp như một ngọn núi ngọc bích. Khi ra
khỏi ngự viên, thấy vậy vua liền hỏi các đại thần. Họ tâu:
-
Khi đám người này thấy Hoàng thượng đã "ngự" trái đầu tiên rồi, thì họ phá cây.
-
Nhưng cây kia không mất một ngọn lá nào.
-
Nó không thiệt hại gì vì nó không có quả.
Vua
vô cùng xúc động: "Cây này giữ được màu xanh tươi vì nó không có quả, trong lúc
cây bạn nó bị tan tành vì có quả. Vương quốc này cũng như cây có quả kia, còn đời người tu hành chẳng khác nào cây không trái.
Chính người có của cải mới sợ hãi, chứ kẻ mình trần thân trụi thì chẳng phải sợ
gì. Ta sẽ giống như cây không trái kia, chứ chẳng giống cây có trái nọ tý nào.
Ta quyết sẽ từ bỏ tất cả cảnh huy hoàng lại, từ bỏ thế gian và trở thành vị khổ
hạnh". Quyếtđịnh vậy xong, ngài mới vào thành, đứng ở cửa cung, cho mới vị đại tướng vào bảo:
-
Này Tướng quân, từ hôm nay đừng cho ai yết kiến ta,
trừ một thị giả đem cơm cho ta và một thị giả khác đem nước và bàn chải cho ta súc miệng. Còn khanh
hãy cùng các Chánh phán quan lão thần trong triều lo cai trị nước. Từ nay ta sẽ
sống tu hành như một ẩn sĩ đệ tử Phật trên tháp
hoàng cung.
Nói
xong, ngài đi lên đỉnh tháp hoàng cung một mình và sống đời tu sĩ theo đạo Phật.
Thời
gian qua, dân chúng tụ tập trong sân chầu mà không yết kiến Bồ-tát được, họ bảo nhau:
-
Ngài chẳng giống Ðại vương của ta ngày trước.
Rồi
họ ngâm kệ:
14.
Chúa thượng, Ðại vương cõi thế gian,
Ðổi thay thật khác trước hoàn toàn,
Hoan ca, ngài chẳng lưu tâm đến,
Vũ nữ, ngài không thiết ngó ngàng.
15. Hươu nai, ngự uyển, đám thiên nga
Chẳng quyến rũ đôi mắt hững hờ,
Tĩnh tọa, ngài thành câm lặng quá,
Ðể bao việc nước cứ trôi qua.
Ðổi thay thật khác trước hoàn toàn,
Hoan ca, ngài chẳng lưu tâm đến,
Vũ nữ, ngài không thiết ngó ngàng.
15. Hươu nai, ngự uyển, đám thiên nga
Chẳng quyến rũ đôi mắt hững hờ,
Tĩnh tọa, ngài thành câm lặng quá,
Ðể bao việc nước cứ trôi qua.
Họ
lại hỏi thị giả và người hầu cận của vua:
-
Ðại vương có bao giờ nới chuyện với quý vị không?
-
Không bao giờ cả - Họ đáp.
Rồi
họ kể lại chuyện đức vua với tâm trí luôn
luôn trầm mặc, xa rời mọi dục lạc. Ngài nhớ lại các bậc hiền hữu của ngài, các
vị Ðộc Giác Phật, và tự nhủ: "Ai có thể chỉ cho ta biết nơi an trú của các
Hiền nhân đã giải thoát mọi tham
ái và đầy đủ mọi công đức này?" .
Rồi
ngài cảm khái ngâm lớn ba vần kệ:
16.
Tránh ngoại cảnh, chuyên chú lạc tâm,
Thoát ràng buộc, sợ hãi phàm trần,
Ðâu vườn tiên giới, già cùng trẻ,
Ðồng trú bao Hiền Thánh trí nhân?
17. Bỏ lại đằng sau mọi dục tham,
Ta tôn sùng các Thánh vinh quang,
Giữa đời điên đảo vì cuồng vọng,
Chư vị ly tham, bước tịnh an.
18. Các Ngài phá hết lưới ma thần,
Cạm bẫy kẻ lừa dối đã giăng,
Thoát mọi buộc ràng, thanh thản bước,
Ai đưa ta đến chỗ Ngài chăng?
Thoát ràng buộc, sợ hãi phàm trần,
Ðâu vườn tiên giới, già cùng trẻ,
Ðồng trú bao Hiền Thánh trí nhân?
17. Bỏ lại đằng sau mọi dục tham,
Ta tôn sùng các Thánh vinh quang,
Giữa đời điên đảo vì cuồng vọng,
Chư vị ly tham, bước tịnh an.
18. Các Ngài phá hết lưới ma thần,
Cạm bẫy kẻ lừa dối đã giăng,
Thoát mọi buộc ràng, thanh thản bước,
Ai đưa ta đến chỗ Ngài chăng?
Ngài
sống đời ẩn sĩ tu hành trong cung vua được bốn tháng, cuối cùng ngài quyết tâm từ
bỏđời thế tục. Ngài thấy cung vua chẳng khác nào một tầng địa ngục ở giữa các thế gian, và ba cõi sinh hữu
(Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới) đang bốc cháy. Trong tâm trạng ấy, ngài bỗng phát họa cảnh kinh
thành Mithilà cùng với ý tưởng: "Bao giờ thì đến lúc ta từ giã kinh thành Mithilà huy hoàng
rực rỡ như cung trời Sakka (Ðế Thích) này để đi vào rừng Himavat (Tuyết Sơn) khoác áo khổ hạnh?"
19. Khi
nào rời bỏ Mi-thi-là,
Lộng lẫy nguy nga quả thật là,
Bao kiến trúc sư đà tạo dựng
Công trình đồ sộ đẹp lòng ta.
20. Chiến lũy, cung môn, các dãy thành,
Phố phường giăng trải khắp chung quanh,
Ngựa, bò, xe chạy từng đoàn lũ,
Hồ nước, vườn hoa thật đẹp xinh.
21. Kinh thành danh vọng khắp xa gần,
Rộn rịp bao binh sĩ, tướng quân,
Mình khoác chiến bào da hổ báo,
Vẫy cờ, khí giới sáng tưng bừng.
22. Bà-la-môn mặc lụa Kà-si
Sực nức trầm hương, điểm ngọc chi,
Cung điện và cung phi mỹ nữ
Mang đầy mão miện, đủ hoàng y.
23. Bao giờ ta bỏ chúng, đi ra
Tìm cực lạc đơn độc xuất gia,
Mang phấn tảo y, bình nước uống,
Bắt đầu đời hạnh phúc riêng ta?
24. Bao giờ ta lạc bước vào rừng,
Ăn trái cây hoang dã đón mừng,
Hòa điệu lòng ta vào độc trú
Như người hòa điệu thất huyền cầm?
25. Tâm ta giải thoát khỏi mong cầu
Lợi lạc đời này hoặc kiếp sau,
Như thể thợ giày làm guốc gỗ
Bào mòn các cạnh láng trơn mau.
Lộng lẫy nguy nga quả thật là,
Bao kiến trúc sư đà tạo dựng
Công trình đồ sộ đẹp lòng ta.
20. Chiến lũy, cung môn, các dãy thành,
Phố phường giăng trải khắp chung quanh,
Ngựa, bò, xe chạy từng đoàn lũ,
Hồ nước, vườn hoa thật đẹp xinh.
21. Kinh thành danh vọng khắp xa gần,
Rộn rịp bao binh sĩ, tướng quân,
Mình khoác chiến bào da hổ báo,
Vẫy cờ, khí giới sáng tưng bừng.
22. Bà-la-môn mặc lụa Kà-si
Sực nức trầm hương, điểm ngọc chi,
Cung điện và cung phi mỹ nữ
Mang đầy mão miện, đủ hoàng y.
23. Bao giờ ta bỏ chúng, đi ra
Tìm cực lạc đơn độc xuất gia,
Mang phấn tảo y, bình nước uống,
Bắt đầu đời hạnh phúc riêng ta?
24. Bao giờ ta lạc bước vào rừng,
Ăn trái cây hoang dã đón mừng,
Hòa điệu lòng ta vào độc trú
Như người hòa điệu thất huyền cầm?
25. Tâm ta giải thoát khỏi mong cầu
Lợi lạc đời này hoặc kiếp sau,
Như thể thợ giày làm guốc gỗ
Bào mòn các cạnh láng trơn mau.
Lúc
bấy giờ ngài sinh vào thời kỳ con người thọ đến muôn tuổi. Vì vậy sau khi trị nước bảy ngàn năm, ngài làm ẩn
sĩ, ngài còn ba ngàn năm nữa và lúc bắt đầu sống đời khổ hạnh, ngài vẫn còn ở hoàng cung bốn tháng kể tử
ngày thấy cây xoài, nhưng rồi ngài tự nhủ ở am ẩn sĩ tốt hơn ở hoàng cung.
Thế
là ngài bí mật bảo người hầu cận tìm cho ngài vài chiếc y vàng và một bình bát
bằng đất bán ở chợ. Ngài cho mời người hớt tóc vào
cạo bỏ râu tóc ngài, xong mặc một y vàng bên trong, một y vàng bên ngoài, đắp một y nữa lên vai. Rồi cầm chiếc gậy, ngài đi lui tới nhiều lần trên gác hoàng cung với
những bước chân ngất ngưỡng của một vị Ðộc Giác Phật. Ngày hôm ấy ngài còn ở đây, nhưng sáng sớm hôm sau, ngài bắt đầu đi xuống.
Hoàng
hậu Sìvalì cho gọi bảy trăm cung nữ được sủng ái vào bảo:
-
Ðã lâu lắm rồi, cả bốn tháng tròn kể từ khi chúng ta gặp Thánh thượng lần cuối,
hôm nay chúng ta sẽ giáp được mặt rồng. Vậy các
nàng hãy trang điểm mình thật đẹp, làm sao cố mê hoặc Thánh thượng để ngài tham đắm dục lạc không thoát ra nổi.
Ðược
các cung nữ trang sức lộng lẫy hộ tống, hoàng hậu bước lên hoàng cung để yết kiến vua. Nhưng dù thấy ngài đi xuống, bà không nhận ra ngài, cứ tưởng đó là một vị Ðộc Giác Phật đến giáo hóa vua. Bà đảnh lễ và đứng qua một bên; rồi Bồ-tát bước xuống khỏi hoàng cung. Nhưng
hoàng hậu, khi lên lầu ngắm các lọn tóc của vua màu ong nghệ rớt trên long
sàng, cùng các vật dụng tắm rửa của ngài, liền thét lên:
-
Ðó không phải vị Ðộc Giác Phật đâu, có lẽ đó là Thánh
thượng tôn quý của ta rồi. Thôi ta phải van xin ngài trở lại.
Thế
là từ gác hoàng cung đi xuống sân rồng, hoàng
hậu cùng các cung phi xõa tóc ra rũ rượi trên lưng, đấm ngực đi theo nhà vua than khóc thảm thiết:
-
Ôi Ðại vương, sao ngài nỡ làm vậy?
Cả
kinh thành náo động lên, dân chúng ùa
theo đức vua khóc lóc:
-
Thánh thượng đã làm ẩn sĩ rồi, ta còn
tìm đâu ra một vị anh quân như vậy nữa?
*
Lúc
ấy bậc Ðạo Sư tả cảnh các cung phi khóc lóc và nhà vua cứ bỏ mặc họ mà đi, đã ngâm kệ này:
26. Kìa đứng bảy trăm vị thứ phi
Dang tay cầu khẩn, dáng sầu bi,
Ðiểm trang đầy ngọc vàng châu báu:
"Ðại đế sao ngài nỡ bỏ đi?"
27. Giã từ tất cả bảy trăm nàng
Xinh đẹp, thanh tao, lại dịu dàng,
Ðại đế đi theo lời ước nguyện
Với lòng kiên định quyết không sờn.
28. Giã từ chén rượu lễ đăng quang,
Dấu xưa vương giả cảnh huy hoàng,
Hôm nay ngài lấy bình bằng đất,
Sự nghiệp mới đang phải khởi đường.
Dang tay cầu khẩn, dáng sầu bi,
Ðiểm trang đầy ngọc vàng châu báu:
"Ðại đế sao ngài nỡ bỏ đi?"
27. Giã từ tất cả bảy trăm nàng
Xinh đẹp, thanh tao, lại dịu dàng,
Ðại đế đi theo lời ước nguyện
Với lòng kiên định quyết không sờn.
28. Giã từ chén rượu lễ đăng quang,
Dấu xưa vương giả cảnh huy hoàng,
Hôm nay ngài lấy bình bằng đất,
Sự nghiệp mới đang phải khởi đường.
Hoàng
hậu Sìvalì thấy khóc than không thể cản bước vua được, liền nghĩ một cách khác. Bà cho triệu viên đại tướng quân đến ra lệnh đốt lửa trước mặt
vua, giữa đám nhà hoang phế, nằm trên hướng vua đi tới chất cao cỏ rác thành từng đống, khói tỏa mịt mù khắp nơi. Vị này tuân
lệnh. Rồi bà chạy đến chân vua, quỳ xuống chân
ngài, tâu rằng kinh thành Mithilà đang bốc cháy qua hai vần kệ này:
29.
Thật là khủng khiếp, lửa hoành hành,
Kho báu, kho hàng cháy thật nhanh,
Vàng, bạc, ngọc, sò lần lượt cháy,
Thảy đều tiêu hủy đến tan tành.
30. Xiêm y lộng lẫy, ngà, da, đồng,
Tất cả gặp chung phận phủ phàng,
Tâu Chúa thượng, xin mau trở lại
Cứu tài sản trước lúc tiêu vong.
Kho báu, kho hàng cháy thật nhanh,
Vàng, bạc, ngọc, sò lần lượt cháy,
Thảy đều tiêu hủy đến tan tành.
30. Xiêm y lộng lẫy, ngà, da, đồng,
Tất cả gặp chung phận phủ phàng,
Tâu Chúa thượng, xin mau trở lại
Cứu tài sản trước lúc tiêu vong.
Bồ-tát
trả lời:
-
Ô hay, hoàng hậu nói gì vậy? Kẻ nào có của cải mới lo bị đốt cháy, chứ ta có gì đâu?
31. Ta
chẳng có đâu của cải gì,
Sống không lo lắng hoặc sầu bi,
Mi-thi-la có nguy cơ cháy,
Ta cũng chẳng còn cháy vật chi!
Sống không lo lắng hoặc sầu bi,
Mi-thi-la có nguy cơ cháy,
Ta cũng chẳng còn cháy vật chi!
Nói
xong ngài đi ra phía bắc môn, các
cung phi cũng theo sau. Hoàng hậu Sìvali ra lệnh bảo họ chỉ cho ngài xem các
làng mạc bị tàn phá, đất bị bỏ hoang và họ
lại chỉ cho ngài thấy nhiều người mang khí giới chạy đi cướp bóc khắp nơi, trong khi một số người
khác được phết sơn đỏ lên người và khiêng đi trên các tấm ván như thể bị thương hay đã chết rồi. Dân chúng la hét lên:
-
Tâu Ðại vương, trong khi ngài gìn giữ giang sơn chúng phá phách giết hại đồng bào như vậyđó.
Thế
là hoàng hậu ngâm vần kệ van xin vua trở về:
32. Bọn
giữ rừng đang bỏ đất hoang,
Xin ngài về cứu độ toàn dân,
Giang sơn đừng để ngài không trị,
Ðành sụp đổ vô vọng nát tan.
Xin ngài về cứu độ toàn dân,
Giang sơn đừng để ngài không trị,
Ðành sụp đổ vô vọng nát tan.
Nhà
vua suy nghĩ: "Khi ta đang cai trị, không có
cướp bóc nào nổi lên phá hoại đất nước cả, chắc đây là
trò bịa đặt của hoàng hậu
Sìvalì". Vì vậy ngài ngâm các vần kệ này như thể ngài không biết bà nói
gì:
33. Ta
chẳng có đâu của cải gì,
Sống không lo lắng hoặc sầu bi,
Giang sơn có thể nằm hoang vắng,
Nhưng chính ta không thiệt hại chi.
34. Chúng ta không có của gì riêng,
Sống chẳng lo âu, chẳng muộn phiền,
Thọ hưởng niềm vui trong cực lạc
Khác gì một vị Quang âm Thiên.
Sống không lo lắng hoặc sầu bi,
Giang sơn có thể nằm hoang vắng,
Nhưng chính ta không thiệt hại chi.
34. Chúng ta không có của gì riêng,
Sống chẳng lo âu, chẳng muộn phiền,
Thọ hưởng niềm vui trong cực lạc
Khác gì một vị Quang âm Thiên.
Dù
ngài nói vậy, dân chúng vẫn đi theo ngài, ngài tự
nhủ: "Họ không muốn trở về, vậy ta phải buộc họ trở về". Rồi khi ngài đi được chừng nửa dặm, ngài quay lui hỏi vị Ðại
thần:
-
Ðất nước này của ai đây?
-
Tâu Ðại vương, đất nước của Ðại vương.
-
Vậy thì hãy trừng phạt kẻ nào vượt khỏi ranh giới này.
Nói
xong ngài vạch một lằn ranh bằng cây gậy của ngài. Không một kẻ nào dám vi phạm
ranh giới này cho nên dân chúng đứng sau lằn ranh la
khóc ầm ỹ. Hoàng hậu cũng không thể vượt lằn ranh, chỉ biết nhìn theo nhà vua đang đi xa dần, quay lưng về phía bà. Rồi bà
không ngăn được sầu khổ, đấm ngực khóc lóc, ngã xuống, cố vượt qua khỏi lằn
ranh. Dân chúng la to:
-
Quân canh giữ đã phá lằn ranh rồi.
Thế
là họ theo gương hoàng hậu bước qua.
Bậc
Ðại Sĩ đi về phía bắc rừng
Himavat (Tuyết Sơn), hoàng hậu cũng đi theo ngài, kéo theo cả binh sĩ cùng đoàn voi ngựa để cỡi. Vua không ngăn chặn họ được nên cứ tiếp tục cuộc hành
trình chừng sáu mươi dặm nữa.
Lức
bấy giờ có một ẩn sĩ tên gọi Nàrada ở trong Kim cốc núi Himavat đã chứng được năm Thắng trì. Sau bảy ngày nhập định, vị ấy xuất Thiền và đắc thắng reo lên:
-
Ôi cực lạc! Ôi cực lạc!
Rồi
trong khi vị ấy dùng thiên nhãn nhìn xem có ai trong cõi Diêm-phù-đề này đang đi tìm cực lạc như vậy không, chợt vị ấy
thấy Bồ-tát Mahàjanaka. Vị ấy nghĩ: "Ông vua này đã làm đại sự xuất thế, nhưng lại không ngăn được đám đông dân chúng do
hoàng hậu Sìvalì dẫn đường; chúng có thể gây
cản trở cho ngài. Vậy ta phải khích lệ sao cho nhà vua giữ chí nguyện vững vàng
hơn nữa".
Rồi
vị ấy dùng thần lực đứng trên không trước
mặt vua ngâm kệ để giúp tăng cường quyết
tâm của ngài:
35. Do đâu huyên náo ở đằng kia
Như thể là đình đám hội hè,
Sao đám đông này đang tụ tập,
Xin ngài ẩn sĩ nói cho nghe?
Như thể là đình đám hội hè,
Sao đám đông này đang tụ tập,
Xin ngài ẩn sĩ nói cho nghe?
Vua
liền đáp:
36. Ta đã vượt ranh giới, xuất gia,
Cho nên dân chúng đến đây mà,
Ta xa đời với lòng an lạc,
Người đã biết rồi, sao hỏi ta?
Cho nên dân chúng đến đây mà,
Ta xa đời với lòng an lạc,
Người đã biết rồi, sao hỏi ta?
Vị
ẩn sĩ ngâm vần kệ để xác nhận ý chí của
vua:
37.
Ðừng nghĩ rằng ngài đã vượt ranh ,
Vẫn còn dao động ở trong mình,
Vẫn còn cừu địch ngay đằng trước,
Chiến thắng ngài chưa thể đạt thành.
Vẫn còn dao động ở trong mình,
Vẫn còn cừu địch ngay đằng trước,
Chiến thắng ngài chưa thể đạt thành.
Bậc
Ðại Sĩ lớn tiếng tuyên bố:
38.
Không dục lạc dầu thuộc loại nào
Làm sờn ý chí vững bền đâu,
Cừu nhân nào cản đường ta được,
Trong lúc ta đang tới đích mau?
Làm sờn ý chí vững bền đâu,
Cừu nhân nào cản đường ta được,
Trong lúc ta đang tới đích mau?
Sau đó ẩn sĩ ngâm vần kệ nêu rõ các chướng ngại:
39. Hôn
trầm, phóng dật theo tham dục,
Mê đắm, tâm bất mãn, hận sân,
Thân đón bọn này như khách quý,
Tất nhiều chướng ngại phải đa mang.
Mê đắm, tâm bất mãn, hận sân,
Thân đón bọn này như khách quý,
Tất nhiều chướng ngại phải đa mang.
Bậc
Ðại Sĩ liền khen ngợi vị ấy qua vần kệ:
40. Ðạo
sĩ, lời khuyên đáng bậc hiền,
Cám ơn người đã nói lời trên,
Trả lời ta hỏi như người muốn:
Xin nói là ai đó, họ tên?
Cám ơn người đã nói lời trên,
Trả lời ta hỏi như người muốn:
Xin nói là ai đó, họ tên?
Ẩn
sĩ đáp:
41. Ta đây danh hiệu Na-ra-da,
Từ chốn ẩn cư tiên giới ta,
Vừa đến, nói điều này với bạn:
Kết giao bậc trí tối ưu mà.
42. Thực hành bốn pháp tối cao thay,
Tìm cực lạc trong Thánh đạo này,
Dù thiếu thứ gì, ngài cũng mặc,
Sống bằng nhẫn nhục, tịnh an đầy.
43. Ngã tưởng dù là thấp hoặc cao
Ðều không xứng với bậc hiền đâu,
Hãy xem giới luật và tri kiến
Pháp bảo hộ cho cuộc Thánh cầu.
Từ chốn ẩn cư tiên giới ta,
Vừa đến, nói điều này với bạn:
Kết giao bậc trí tối ưu mà.
42. Thực hành bốn pháp tối cao thay,
Tìm cực lạc trong Thánh đạo này,
Dù thiếu thứ gì, ngài cũng mặc,
Sống bằng nhẫn nhục, tịnh an đầy.
43. Ngã tưởng dù là thấp hoặc cao
Ðều không xứng với bậc hiền đâu,
Hãy xem giới luật và tri kiến
Pháp bảo hộ cho cuộc Thánh cầu.
Rồi
Nàrada bay về cõi an trú của mình. Sau đó một ẩn sĩ khác tên Migàjina, vừa mới xuất Thiền định, đang chiêm ngưỡng bậc Ðại Sĩ và quyết định khuyến khích ngài bảo đám dân chúng ra về, nên vị này hiện ra trên
không trước mặt ngài và ngâm các vần kệ sau:
44. Các đám ngựa voi, các cỗ xe,
Thần dân thành thị lẫn thôn quê,
Ja-na-ka đã lìa xa chúng,
Bình bát đất làm ngài thỏa thuê.
45. Hãy nói, phải chăng các đại thần,
Chư hầu, quyến thuộc hoặc thân bằng,
Làm ngài thương tổn vì lừa phản,
Ngài chọn đây làm chỗ trú chân?
Thần dân thành thị lẫn thôn quê,
Ja-na-ka đã lìa xa chúng,
Bình bát đất làm ngài thỏa thuê.
45. Hãy nói, phải chăng các đại thần,
Chư hầu, quyến thuộc hoặc thân bằng,
Làm ngài thương tổn vì lừa phản,
Ngài chọn đây làm chỗ trú chân?
Bồ-tát đáp:
46.
Hiền nhân, không thể có khi nào,
Bất cứ nơi nào, hoặc cớ sao
Ta đã làm sai cho chúng bạn,
Hoặc là bạn khiến ta buồn đau.
47. Thấy đời tan nát bởi đau thương,
Tăm tối vì lầm lỗi, khổ buồn,
Thấy nạn nhân gông xiềng, giết chết,
Bơ vơ trong lưới khổ khôn lường,
Ta tìm lời dạy cho mình vậy,
Khổ hạnh từ đây khởi bước đường.
Vị khổ hạnh muốn nghe thêm nữa, liền hỏi ngài:
48. Không ai muốn khổ hạnh lang thang
Nếu chẳng đạo sư chỉ lối đường,
Dù cách thực hành hay lý thuyết,
Ai là sư phụ nói cho tường.
Bất cứ nơi nào, hoặc cớ sao
Ta đã làm sai cho chúng bạn,
Hoặc là bạn khiến ta buồn đau.
47. Thấy đời tan nát bởi đau thương,
Tăm tối vì lầm lỗi, khổ buồn,
Thấy nạn nhân gông xiềng, giết chết,
Bơ vơ trong lưới khổ khôn lường,
Ta tìm lời dạy cho mình vậy,
Khổ hạnh từ đây khởi bước đường.
Vị khổ hạnh muốn nghe thêm nữa, liền hỏi ngài:
48. Không ai muốn khổ hạnh lang thang
Nếu chẳng đạo sư chỉ lối đường,
Dù cách thực hành hay lý thuyết,
Ai là sư phụ nói cho tường.
Bậc
Ðại Sĩ đáp:
49.
Hiền giả, chưa hề trước đến giờ
Ta nghe lời nói động tâm ta
Từ môi đạo sĩ hay du sĩ
Khuyên bảo ta làm khổ hạnh gia.
Ta nghe lời nói động tâm ta
Từ môi đạo sĩ hay du sĩ
Khuyên bảo ta làm khổ hạnh gia.
Bồ-tát
nói cho vị ấy đầy đủ chi tiết lý do
ngài xuất thế:
50. Ta đã
nhàn du chốn ngự viên,
Một ngày mùa hạ đại trang nghiêm
Với bao ca khúc và đàn địch
Tràn ngập không gian khắp mọi miền.
51. Nơi kia ta thấy một cây xoài
Ðứng cạnh bức tường gốc rễ phơi
Vì bọn phàm nhân tìm hái trái,
Toàn thân xơ xác, lá tơi bời.
52. Giật mình rời cảnh tượng oai hùng,
Dừng bước ngắm cây, mắt lạ lùng
So sánh cây xoài này có trái
Với cây không trái mọc kề gần.
53. Cây có trái kia đứng lụi tàn,
Mọi cành trơ trụi, lá tan hoang,
Cây không trái đứng xanh, cường tráng,
Tàn lá vẫy trong gió nhẹ nhàng.
54. Cây đầy trái cũng giống như vua,
Lắm địch thủ mong giết hại ta,
Và cướp của ta bao trái ngọt
Trong thời gian ngắn phô bày ra.
55. Voi bị giết vì chính bộ ngà,
Cọp beo bị giết bởi vì da,
Bơ vơ, không cửa nhà, bằng hữu,
Người đại phú sau rốt hiểu ra:
Tài sản chính là tai họa lớn;
Hai cây xoài ấy chính thầy ta,
Từ hai cây ấy ta tìm được
Bài học dạy ta sống xuất gia.
Một ngày mùa hạ đại trang nghiêm
Với bao ca khúc và đàn địch
Tràn ngập không gian khắp mọi miền.
51. Nơi kia ta thấy một cây xoài
Ðứng cạnh bức tường gốc rễ phơi
Vì bọn phàm nhân tìm hái trái,
Toàn thân xơ xác, lá tơi bời.
52. Giật mình rời cảnh tượng oai hùng,
Dừng bước ngắm cây, mắt lạ lùng
So sánh cây xoài này có trái
Với cây không trái mọc kề gần.
53. Cây có trái kia đứng lụi tàn,
Mọi cành trơ trụi, lá tan hoang,
Cây không trái đứng xanh, cường tráng,
Tàn lá vẫy trong gió nhẹ nhàng.
54. Cây đầy trái cũng giống như vua,
Lắm địch thủ mong giết hại ta,
Và cướp của ta bao trái ngọt
Trong thời gian ngắn phô bày ra.
55. Voi bị giết vì chính bộ ngà,
Cọp beo bị giết bởi vì da,
Bơ vơ, không cửa nhà, bằng hữu,
Người đại phú sau rốt hiểu ra:
Tài sản chính là tai họa lớn;
Hai cây xoài ấy chính thầy ta,
Từ hai cây ấy ta tìm được
Bài học dạy ta sống xuất gia.
Ẩn
sĩ Migàjina nghe lời vua nói thế, liền khuyên nhủ ngài nên nhất tâm, rồi trở về
nơi trú của mình.
Khi
ẩn sĩ đi rồi, hoàng hậu Sìvalì liền quỳ xuống chân vua
và tâu:
56. Ở
trên vương tượng hoặc vương xa,
Kỵ mã, bộ binh khắp mọi nhà,
Tất cả thần dân đều khóc lớn:
"Ðại vương đã xuất thế ly gia!"
57. Xin trấn an lòng chúng trĩu buồn,
Hoàng nhi ngài hãy đợi phong vương,
Rồi xa trần thế như ngài muốn
Khổ hạnh đơn thân tiến bước đường.
Kỵ mã, bộ binh khắp mọi nhà,
Tất cả thần dân đều khóc lớn:
"Ðại vương đã xuất thế ly gia!"
57. Xin trấn an lòng chúng trĩu buồn,
Hoàng nhi ngài hãy đợi phong vương,
Rồi xa trần thế như ngài muốn
Khổ hạnh đơn thân tiến bước đường.
Bồ-tát đáp:
58. Ta
bỏ đằng sau đám cận thần,
Thân bằng, quyến thuộc khắp non sông,
Nhưng còn vương tộc Vi-đề ấy
Huấn luyện Di-ghà để trị dân
Hoàng hậu Mi-thi-là chớ sợ,
Quần thần sẽ hỗ trợ kề gần.
Thân bằng, quyến thuộc khắp non sông,
Nhưng còn vương tộc Vi-đề ấy
Huấn luyện Di-ghà để trị dân
Hoàng hậu Mi-thi-là chớ sợ,
Quần thần sẽ hỗ trợ kề gần.
Hoàng
hậu kêu lên:
-
Tâu Ðại vương, Ðại vương đã làm ẩn sĩ, vậy thần
thiếp phải làm gì bây giờ?
Nhà
vua liền bảo:
-
Ta khuyên hoàng hậu thế này, hãy gắng thực hiện lời ta.
Rồi
ngài nói với bà như sau:
59. Nếu
dạy hoàng nhi lúc trị dân
Sai lầm trong ý tưởng, lời, thân,
Sau bà sẽ gặp nhiều đau khổ,
Vận mạng này đây đã định phần.
Vật bố thí dành cho khất sĩ
Bậc Hiền bảo đấy chúng ta cần.
Sai lầm trong ý tưởng, lời, thân,
Sau bà sẽ gặp nhiều đau khổ,
Vận mạng này đây đã định phần.
Vật bố thí dành cho khất sĩ
Bậc Hiền bảo đấy chúng ta cần.
Ngài
khuyên nhủ hoàng hậu như thế xong, cùng đàm đạo với bà trên đường đi cho đến khi mặt trời lặn.
Hoàng
hậu cho cắm trại vào một nơi thích hợp, còn nhà vua đến một gốc cây ngủ quá đêm. Ngày hôm sau, khi
tắm rửa xong, ngài lại tiếp tục ra đi. Hoàng hậu ra lệnh cho binh lính phảiđi theo và bà cũng theo
ngài.
Vào
giờ khất thực, họ đến kinh thành Thùna.
Lúc đó có một người đàn ông mua một miếng thịt lớn ở
hàng thịt xong đem nướng chín trên vĩ
và đặt trên một tấm thớt chờ nguội. Nhưng trong khi
gã bận rộn việc khác thì một con chó đến tha thịt đi mất. Người ấy đuổi theo đến cửa Nam kinh thành,
nhưng vì mệt quá phải dừng lại.
Vua
và hoàng hậu đang đi đến trước mặt
con chó, nó hoảng sợ khi thấy hai vị nên làm rơi miếng thịt và chạy mất. Bậc
Ðại Sĩ thấy vậy, liền nghĩ: "Nó đã làm rớt miếng thịt và chạy trốn, không màng đến thịt nữa, mà chủ nhân thì chả biết là ai,
thật không có của bố thí nào tốt hơn cái này, ta phải ăn mới được".
Thế
rồi ngài lấy bình bát đất ra, cầm miếng thịt,
phủi bụi dơ, đặt vào bình bát, tìm một nơi dễ chịu mát mẻ, có nước chảy rồi ăn thịt.
Hoàng
hậu nghĩ thầm: "Nếu đức vua xứng đáng ngồi
trên ngai vàng thì ngài đã không ăn vật thừa đầy bụi bặm của chó, thật bây giờ
ngài không còn là quân vương của ta nữa". Rồi bà nói to:
-
Ðại vương ôi! Ngài ăn miếng thịt ghê tởm
như vậy sao?
-
Ấy chính sự ngu dại mù quáng của bà làm cho bà không thấy được giá trị đặc biệt của vật bố thí này.
Rồi
ngài thận trọng quan sát chỗ miếng thịt đã rơi xuống và ăn thịt ngon lành như
thể cao lương mỹ vị của thần tiên xong rửa miệng và tay chân.
Lúc
ấy hoàng hậu nói giọng khiển trách ngài:
60. Tứ
thời ăn cứ đến xoay vần,
Nếu nhịn ăn, người phải bỏ thân,
Tuy thế, một người dòng quý tộc
Sẽ không nếm vật bẩn kinh hồn!
61. Ngài đã làm đây việc trái sai,
Ðại vương ôi, đáng thẹn cho ngài,
Lấy ăn đồ vật thừa từ chó
Việc bất xứng kia đã phạm rồi!
Nếu nhịn ăn, người phải bỏ thân,
Tuy thế, một người dòng quý tộc
Sẽ không nếm vật bẩn kinh hồn!
61. Ngài đã làm đây việc trái sai,
Ðại vương ôi, đáng thẹn cho ngài,
Lấy ăn đồ vật thừa từ chó
Việc bất xứng kia đã phạm rồi!
Bậc
Ðại Sĩ đáp:
62. Vật
thừa từ chó hoặc từ người
Ta chắc chẳng là của cấm ai,
Nếu được vật kia theo đúng pháp,
Thức ăn hợp lý, sạch mà thôi!
Ta chắc chẳng là của cấm ai,
Nếu được vật kia theo đúng pháp,
Thức ăn hợp lý, sạch mà thôi!
Ðang
lúc nói chuyện, vua và hoàng hậu đi đến cổng thành. Trẻ con đang chơi đùa ở đó, một cô bé đang sảy
cát trong một cái sàn sảy thóc nhỏ. Trên tay cô bé có một chiếc vòng không gây
tiếng động nào, còn tay kia có hai chiếc vòng kêu reng
reng. Nhà vua thấy vậy nghĩ thầm: "Sìvalì cứ đi theo ta mãi, kẻ khổ hạnh còn có vợ thật là
tai hại, người đời sẽ chê trách ta và
bảo rằng ngay cả khi ta đã xa lìa thế tục mà ta
lại không xa vợ được. Vậy nếu cô gái này
khôn ngoan, cô bé có thể nói cho Sìvalì hiểu tại sao nàng phải quay về và xa
lìa ta cho rồi. Ta sẽ nghe chuyện cô này và bảo Sìvalì phải đi ngay". Rồi ngài bảo:
63. Cô bé nép mình dưới mẹ hiền,
Với vòng nho nhỏ ấy đeo trên,
Vì sao chỉ một tay rung nhạc,
Trong lúc tay kia mãi lặng yên?
Với vòng nho nhỏ ấy đeo trên,
Vì sao chỉ một tay rung nhạc,
Trong lúc tay kia mãi lặng yên?
Cô
bé đáp:
64. Hai
vòng đeo ở cánh tay tôi,
Chẳng phải một vòng, khất sĩ ôi!
Vì xúc phạm nhau gây tiếng động,
Việc này do chính chiếc vòng đôi.
65. Nhưng chú ý xem tay phía này,
Chiếc vòng độc nhất nó đeo vầy
Ðứng yên tại chỗ, không lên tiếng,
Im lặng chỉ vì chẳng có hai.
66. Chính chiếc vòng đôi tạo tiếng ồn,
Một vòng độc nhất ấy thì không,
Ngài tìm hạnh phúc? Nên đơn độc:
Hạnh phúc chỉ người sống độc thân.
Nghe lời cô gái, ngài hiểu ý và bảo hoàng hậu:
67. Hãy nghe lời nói của cô này,
Cô gái làm ta hổ thẹn đầy,
Ví thử nghe lời bà thỉnh nguyện:
Lỗi lầm chính kẻ thứ hai gây.
68. Ðây hai đường: chọn một cho bà;
Còn lối kia, ta chọn chính ta,
Ðừng gọi ta là chồng vậy nữa,
Bà không còn vợ: hãy chia xa!
Chẳng phải một vòng, khất sĩ ôi!
Vì xúc phạm nhau gây tiếng động,
Việc này do chính chiếc vòng đôi.
65. Nhưng chú ý xem tay phía này,
Chiếc vòng độc nhất nó đeo vầy
Ðứng yên tại chỗ, không lên tiếng,
Im lặng chỉ vì chẳng có hai.
66. Chính chiếc vòng đôi tạo tiếng ồn,
Một vòng độc nhất ấy thì không,
Ngài tìm hạnh phúc? Nên đơn độc:
Hạnh phúc chỉ người sống độc thân.
Nghe lời cô gái, ngài hiểu ý và bảo hoàng hậu:
67. Hãy nghe lời nói của cô này,
Cô gái làm ta hổ thẹn đầy,
Ví thử nghe lời bà thỉnh nguyện:
Lỗi lầm chính kẻ thứ hai gây.
68. Ðây hai đường: chọn một cho bà;
Còn lối kia, ta chọn chính ta,
Ðừng gọi ta là chồng vậy nữa,
Bà không còn vợ: hãy chia xa!
Hoàng
hậu nghe ngài nói thế, liền xin ngài đi rẽ về phía tay phải tốt hơn, còn bà đi về phía trái. Nhưng chỉ đi được một đoạn, bà
không ngăn chặn được sầu khổ, liền trở lại với ngài và cùng ngài đi vào thành.
*
Bậc
Ðạo Sư giải thích chuyện này và nói như sau:
Cùng
với những lời này trên môi, hai vị đi vào thành Thùna.
Sau
khi đã vào thành, Bồ-tát tiếp tục đi khất thực, đến cửa nhà một người làm cung
tên, trong khi đó hoàng hậu đứng một bên. Bấy giờ người thợ đang nung đỏ mũi tên trên một lò than rồi nhúng
ướt tên đó trong một ít bột hồ
chua, nheo một mắt lại, còn mắt kia nhắm mũi tên cho thẳng. Bồ-tát nghĩ:
"Nếu người này khôn ngoan thì có thể giải thích cho ta rõ chuyện này. Ðể
ta hỏi gã thứ xem". Rồi ngài đến gần gã.
*
Bậc
Ðạo Sư tả cảnh này qua vần kệ:
69. Ðến
nhà khất thực kẻ làm tên,
Người ấy nheo con mắt đứng lên,
Và với mắt kia nhìn một hướng
Ðể làm cho thẳng mũi tên rèn.
Người ấy nheo con mắt đứng lên,
Và với mắt kia nhìn một hướng
Ðể làm cho thẳng mũi tên rèn.
Lúc
ấy Bậc Ðại Sĩ bảo gã:
70. Một
mắt sao ngươi cứ nhắm hoài,
Chỉ nhìn một mắt chẳng hề sai?
Xin ngươi giải thích hành vi ấy:
Ngươi nghĩ nó hoàn thiện mắt ngươi?
Chỉ nhìn một mắt chẳng hề sai?
Xin ngươi giải thích hành vi ấy:
Ngươi nghĩ nó hoàn thiện mắt ngươi?
Gã đáp lại:
71. Tầm
mắt hai tròng mở rộng ra
Chỉ làm lạc hướng nhãn quan ta,
Nếu ngài duy nhất nhìn đường thẳng,
Ðích xác định, ngài nhắm đúng mà.
72. Ðiều gây rối loạn chính hai tròng,
Chỉ một tròng thôi thì lại không,
Muốn hạnh phúc? Ngài cần đơn độc,
Người đơn độc hạnh phúc vô song!
Sau mấy lời khuyên nhủ này, gã yên lặng.
Chỉ làm lạc hướng nhãn quan ta,
Nếu ngài duy nhất nhìn đường thẳng,
Ðích xác định, ngài nhắm đúng mà.
72. Ðiều gây rối loạn chính hai tròng,
Chỉ một tròng thôi thì lại không,
Muốn hạnh phúc? Ngài cần đơn độc,
Người đơn độc hạnh phúc vô song!
Sau mấy lời khuyên nhủ này, gã yên lặng.
Bậc
Ðại Sĩ lại tiếp tục đi khất thực, khi đã thọ
lãnh đủ loại thức ăn, liền đi ra khỏi thành tìm chỗ
mát mẻ có nước chảy ngồi xuống. Khi đã ăn uống xong xuôi, ngài
cất bình bát vào chiếc bị và bảo Sìvalì:
73. Bà
nghe lời gã nhắm tên vầy
Chẳng khác gì cô gái trước đây,
Gã sẽ làm cho ta rối trí
Với bao hổ thẹn ngập đầu này.
Nếu ta nhượng bộ bà cầu thỉnh:
Gây lỗi chính là kẻ thứ hai.
74. Ðây hai đường: chọn một cho bà,
Còn lối kia ta chọn chính ta,
Ðừng gọi ta là chồng vậy nữa,
Ta không có vợ: giã từ bà!
Chẳng khác gì cô gái trước đây,
Gã sẽ làm cho ta rối trí
Với bao hổ thẹn ngập đầu này.
Nếu ta nhượng bộ bà cầu thỉnh:
Gây lỗi chính là kẻ thứ hai.
74. Ðây hai đường: chọn một cho bà,
Còn lối kia ta chọn chính ta,
Ðừng gọi ta là chồng vậy nữa,
Ta không có vợ: giã từ bà!
Dù
nghe lời ngài nói vậy, hoàng hậu vẫn đi theo ngài, nhưng bà hiểu bà không thể nào thuyết phức vua quay
trở về được nữa, còn đám dân chúng cũng cứ tiếp tục theo sau bà. Lúc
bấy giờ có một khu rừng không xa đó mấy, bậc Ðại Sĩ thấy bóng cây đổ xuống tối mờ, ngài muốn bảo hoàng hậu quay
về, nên khi thấy cỏ mùnja mọc bên lề đường, ngài ngắt một cọng cỏ, bảo bà:
-
Này Sìvalì, thân cây cỏ này không thể nối lại được nữa, vậy từ nay mối liên lạc giữa ta và bà
cũng không bao giờ nối lại được nữa đâu.
Rồi
ngài ngâm lớn nửa vần kệ:
75. Như
cỏ mun-ja đã lớn này,
Sì-va-lì, độc trú từ đây ...
Sì-va-lì, độc trú từ đây ...
Khi
hoàng hậu nghe thế, bà nói:
-
Từ nay ta cũng không liên lạc gì với vua Mahàjanaka nữa.
Rồi
không thể ngăn được sầu khổ, bà đấm ngực la khóc và ngất
xỉu bên vệ đường. Bồ-tát thấy bà đã bất tỉnh mê man rồi, lập tức đi sâu vào rừng, cẩn thận xóa mờ dấu chân của
ngài. Các quan đại thần chạy đến rảy
nước vào thân thể hoàng hậu, xoa bóp tay chân của bà một lát thì bà hồi tỉnh.
Bà hỏi:
-
Ðại vương đâu rồi?
-
Thế Hoàng hậu không biết sao? Họ tâu.
-
Ði tìm Hoàng thượng ngay - Hoàng hậu bảo họ.
Nhưng
dù họ đi quanh quẩn khắp nơi, họ cũng không tìm thấy
ngài đâu. Vì thế bà than khóc thảm thiết, và sau khi
bảo dựng đền thờ nơi ngài đứng trước kia, bà cúng dường hương hoa rồi trở
về.
Bồ-tát
trong núi Himavat, trong bảy ngày ngài chứng đắc năm Thắng trí và tám Thiền chứng, rồi ngài không trở lại cõi đời này nữa. Hoàng hậu bảo dựng đền thờ ở các nơi ngài đã đến và nói chuyện với người thợ làm tên, với cô bé gái, nơi ngài đã ăn miếng thịt, nơi ngài nói chuyện với hai ẩn sĩ Migàjina và
Nàrada; xong bà làm lễ cúng dường hương hoa.
Rồi được binh lính hộ tống, bà vào thành Mithilà cử
hành lễ phong vương cho hoàng tử trong vườn xoài, và ra lệnh đem hoàng tử cùng binh lính vào thành. Còn phần
bà, sau khi chọn đời khổ hạnh của một nữ
ẩn sĩ, bà sống ở trong vườn xoài và hành trì các pháp môn đưa đến Thiền định cho đến khi bà chứng đắc Thiền định và được sinh vào cảnh giới Phạm thiên.
*
Sau khi
kể Pháp thoại xong, Bậc Ðạo Sư nói với các Tỷ-kheo:
- Ðây
không phải lần đầu tiên Như Lai làm Ðại sự Xuất thế, mà xưa kia Như Lai cũng đã làm như vậy.
Rồi
Ngài nhận diện tiền thân:
- Lúc
ấy vị nữ hải thần là Uppalavannà (Liên Hoa Sắc), Hiền giả Nàrada là Sàriputta
(Xá-lợi-phất), Hiền giả Migàjina là Moggalàna (Mục-kiền-liên), cô gái là công
chúa Khemà, người làm tên là Ànanda (A-nan), hoàng hậu Sìvalì là mẹ của Ràhula
(Ràhulamàtà), hoàng tử Dìghàvu là Ràhula (La-hầu-la). Cha mẹ của Bồ-tát là hai
vị trong vương tộc ngày nay và vua Mahà janaka chính là Ta.
-ooOoo-
HẾT TẬP IX
0 Komentar