Chương XX
Phẩm Bảy Mươi Bài Kệ
Phẩm Bảy Mươi Bài Kệ
-ooOoo-
531.
Chuyện Đại Đế Kusa (Tiền thân Kusa)
Quốc độ này hoan lạc ngập tràn . .
.,
Đây là
câu chuyện bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Jetavana (Kỳ Viên) về một Tỷ-kheo
thối thất.
Chuyện
kể rằng vị ấy thuộc dòng quý tộc, sống ở Sàvatthi (Xá-vệ), vì nhiệt tâm tin vào
Chánh pháp nên ông xuất gia tu tập.
Một
ngày kia, ông vào thành Sàvatthi để khất thực, lại gặp một nữ nhân xinh đẹp liền
đem lòng say mê ngay khi mới thấy nàng. Bị tham dục chi phối, ông sống trong đau khổ, cứ để lông tóc, móng
tay chân mọc dài ra, mặc các y trong lẫn y ngoài đều dơ bẩn, và héo mòn dần đến độ xanh xao khác nào cây
liễu rũ với các đường gân nổi lên khắp mình mẩy.
Cũng
giống như trên thiên giới, khi một vị Thiên tử nào sắp đọa khỏi kiếp sống Thiên thần,
thường để lộ ra năm dấu hiệu quen thuộc, đó là: Các vòng hoa của vị
ấy mang héo dần, xiêm y dơ bẩn, thân thể trở nên xấu xí, mồ hôi ở nách đổ ra và vị ấy không còn thấy
lạc thú gì trong Thiên cung nữa.
Trường
hợp các Tỷ-kheo ở thế gian cũng vậy; khi thối thất tín tâm trong Chánh pháp, có
năm dấu hiệu tương tự hiện ra: hoa tín tâm héo úa, y chân chánh dơ bẩn, do bất
mãn và các hậu quả của cái danh bất thiện mà thân thể các vị ấy trở nên xấu xí
dần, mồ hôi bất tịnh cứ tuôn rađầm đìa khiến họ không còn thấy lạc thú gì trong đời độc cư dưới gốc cây rừng
nữa.
Đó là
những dấu hiệu đã xuất hiện ở vị này. Vì thế Tăng chúng đưa ông đến yết kiến
bậc Đạo Sư, và thưa:
- Bạch
Thế Tôn, kẻ này đang thối thất.
Bậc Đạo Sư hỏi có đúng không, và
khi nghe ông thú nhận là đúng, Ngài bảo:
- Này
Tỷ-kheo, đừng làm nô lệ cho tham dục. Đây là một ác nữ nhân, ông hãy
chế ngự dục tham của ông đối với kẻ ấy, hãy hân hoan trong Chánh pháp. Chính vì mê say
một nữ nhân, mà các bậc hiền trí ngày xưa, mặc dù có đủ uy lực phi thường, cũng đã
mất hết quyền năng và phải chịu khốn đốn đến suy tàn.
Nói vậy
xong, Ngài kể một câu chuyện quá khứ.
*
Ngày
xưa tại quốc độ Malla, trong kinh
thành Kusàvati, vua Okkàka cai trị rất chân chánh.Đứng đầu mười sáu ngàn phi
tần của ngài là Chánh hậu Silavatì. Bấy giờ bà không sinh con cái gì nên dân
chúng trong kinh đô cùng các triều thần
tụ họp tại cửa cung, than vãn rằng quốcđộ này sẽ bị diệt vong.
Vua
mở cửa sổ ra phán hỏi:
-
Trong triều đại trẫm, không có ai
làm điều gì bất công trái đạo. Tại sao các ngươi trách móc trẫm?
Họ đáp:
-
Tâu Đại vương, quả đúng vậy, không ai làm gì trái đạo lý cả, nhưng Đại vương không có hoàng nam để nối dõi; một kẻ ngoại bang sẽ chiếm lấy vương
quốc và hủy diệt đất nước này. Vậy xin Đại vương hãy cầu tự để có hoàng nam trị nước cho đúng pháp.
-
Thế khi muốn cầu tự, trẫm phải làm gì?
-
Trước tiên, xin Đại vương hãy truyền đưa ra đường một đám cung nữ ca múa hạ đẳng suốt
trong một tuần lễ, xem đó như một lễ cúng tế thần, rồi nếu có một nàng nào sinh được con trai thì tốt lắm. Nếu không thì xin hãy đưa một đám nữ nhạc trung lưu và cuối cùng là đám nữ nhạc thượng hạng. Chắc hẳn giữa đám đông
như thế sẽ có một nàng đầy đủ đức độ để sinh
con trai.
Vua
liền làm theo lời họ khuyên ngài, và cứ đến mỗi ngày thứ bảy trong tuần, ngài hỏi thăm đám người ấy trở về
cung, sau khi đã hưởng thú vui chơi thỏa thích, xem có nàng nào thọ thai chưa.
Và khi tất cả bọn họ đáp:
-
Tâu Hoàng thượng, không có ai.
Bấy
giờ vua thất vọng kêu lên:
-
Ta chẳng có được hoàng nhi nào cả.
Dân
chúng trong kinh thành lại trách móc vua như trước. Vua bảo:
-
Tại sao các ngươi lại trách trẫm, theo lời các ngươi thỉnh cầu, nhiều đám nữ nhân đã được đưa ra trình diễn ngoài đường, nhưng không nàng nào thọ thai cả. Vậy
trẫm phải làm sao bây giờ?
Họ đáp:
-
Tâu Hoàng thượng, chắc hẳn đám nữ nhân này đều vô hạnh và thiếu đức cả. Chúng không đủ công đức để sinh con
trai. Song vì chúng chưa thọ thai, vậy hoàng thượng đừng nản lòng, Chánh hậu Silavatì là một nữ nhân đầy đủ đức hạnh; xin hãy đưa chánh hậu ra đường, lệnh bà sẽ sinh hoàng
nam.
Vua
vui lòng chấp thuận, truyền lệnh đánh trống công bố rằng vào ngày thứ bảy kể từ hôm ấy, dân chúng
phải tề tựu lại và vua sẽ đưa Chánh hậu Silavatì
ra đường làm tế lễ. Rồi vào ngày thứ bảy, vua
truyền lệnh trang điểm chánh hậu thật lộng
lẫy và rước bà từ cung ra đường phố biểu diễn.
Do
uy lực công đức của bà, cung thất
của Sakka (Đế Thích) Thiên chủ nóng dần lên. Thiên chủ Sakka xem xét việc này
có ý nghĩa gì, và nhận thấy Chánh hậu đang khao khát một hoàng nam, liền suy nghĩ:
-
Ta phải ban cho chánh hậu một hoàng nam.
Rồi
trong khi tìm hiểu xem có vị nào trên thiên giới xứng đáng làm con bà không, Thiên chủ chợt trông thấy
Bồ-tát.
Truyện
kể rằng, vào thời ấy, sau khi đã hưởng hết thọ mạng ở
cõi trời Ba mươi ba, ngài (Bồ-tát) ước mong được tái sinh ở một cảnh giới cao hơn. Sakka Thiên chủ đền gần cửa cung ngài, triệu ngài ra bảo:
-
Này Hiền giả, ngài sẽ phải đến cõi nhân gian, và
thọ sinh làm hoàng nam của Chánh hậu vua Okkaka.
Rồi
Thiên chủ lại mời được một Thiên tử khác đến và bảo:
-
Hiền giả cũng sẽ làm hoàng nam của Chánh hậu.
Và
muốn rằng không có một nam nhân nào được phép làm tổn hại đức hạnh của chánh hậu, nên Sakka Thiên chủ giả
dạng làm một lão Bà-la-môn, đi đến cửa cung.
Đám
dân chúng, sau khi tắm rửa trang điểm cho mình xong, mỗi người đều thầm mong trong trí là sẽ chiếm được hoàng hậu nên tề
tựu ngay tại hoàng môn, nhưng khi thấy Sakka Thiên chủ họ cười ầm lên, hỏi ngài
tại sao đến đây. Thiên chủ bảo:
-
Tại sao lại trách lão? Thân lão già rồi, song dục tình vẫn không giảm xuống,
nên lão đến đây với hy vọng đem được hoàng hậu về với lão, giả sử lão chiếm được bà.
Cùng
với những lời này, Thiên chủ dùng thần lực tiến lên phía trước cả đám người ấy, và vì công đức của ngài tỏa ra, không ai có thể đứng trước mặt ngài được, và ngay lúc chánh hậu mới bước ra khỏi
cung, được trang điểm cực kỳ rực rỡ uy nghi, ngài liền
nắm lấy tay bà và đưa đi mất.
Thế
rồi đám người kia đứng trơ ra đó mạ lỵ ngài, bảo:
-
Thật là nhục nhã, một lão Bà-la-môn đã biến đi mất cùng một bà hoàng hậu dung sắc tuyệt thế.
Lão cũng chẳng biết chuyện gì là cân xứng với lão nữa.
Chánh
hậu cũng suy nghĩ: "Một ông già đang bắt ta đi mất đây", bà cũng nổi giận và lại cảm
thấy ghê tởm.
Còn
vua đứng ở cửa sổ mở rộng, nhìn ra xem ai sẽ cướp được hoàng hậu mang đi, và chợt thấyđó là ai rồi, thì ngài hết sức
bất bình.
Khi
Sakka Thiên chủ vừa cùng bà thoát ra khỏi cổng thành, ngài liền dùng thần lực
hóa hiện ra một ngôi nhà ngay gần đó, cửa đã mở sẵn cùng với một bó củi khô. Bà hỏi:
-
Chỗ ở của lão đây chăng?
-
Tâu lệnh bà phải, trước kia lão ở đây chỉ một mình, nay có cả đôi ta. Lão sẽ đi quanh đây kiếm ít gạo về trong lúc ấy xin lệnh bà nằm nghỉ trên đống củi này.
Nói
vậy xong, ngài vỗ nhẹ trên người bà, khiến bà rúng động vì sự tiếp xúc với Thiên chủ, rồi ngài đặt bà nằm xuống đó, ngài vừa đụng vào người bà là bà thiếp đi ngay. Sau đó, ngài dùng thần lực siêu phàm đưa bà lên cõi trời Ba mươi ba và đặt bà xuống trên thiên tọa trong một cung điện lộng lẫy nguy nga.
Vào
ngày thứ bảy, ngay khi vừa thức giấc, bà ngắm cảnh huy hoàng này và hiểu rằng đây không phải là một Bà-la-môn, mà chắc hẳn là chính Sakka Thiên chủ. Vào
lúc này Sakka Thiên chủ đang ngự trên bảo tọa dưới cây San hô, được đoàn Thiên nữ ca múa vây quanh.
Bà
liền bước ra khỏi thiên sàng, đi đến gần đảnh lễ Thiên chủ và kính cẩn đứng một bên. Sauđó Thiên chủ bảo:
-
Ta ban cho bà một điều ước; hãy chọn đi.
-
Vậy xin Thiên chủ ban cho thần thiếp một hoàng nam.
-
Này hoàng hậu, không chỉ một mà thôi đâu. Ta sẽ ban hai vương tử
cho bà. Một người thông minh trí tuệ nhưng xấu xí, người kia đẹp tướng song lại ngu đần, bà muốn có đứa con nào trước?
-
Xin đứa con thông minh trước. Bà đáp.
- Được lắm. Ngài bảo.
Rồi đưa cho bà một cọng cỏ Kusa (Cát tường), một
chiếc thiên y cùng với gỗ chiên-đàn, mộtđóa thiên hoa San hô và cây đàn Kokanada màu đỏ cánh sen.
Xong
xuôi ngài đưa bà trở lại mội cung
của hoàng gia, đặt bà nằm xuống trên
cùng một vương sàng với vua và chỉ lấy ngón tay ngài đụng vào người của bà là ngay lúc ấy Bồ-tát nhập
mẫu thai, còn Thiên chủ lập tức trở về cõi của ngài ngay. Bà hoàng hậu hiền đức biết rằng bà đã thọ thai.
Lát
sau vua tỉnh giấc thấy bà, liền hỏi ai đã đem bà đi.
-
Tâu Thánh thượng, chính Sakka Thiên chủ.
-
Kia chính mắt trẫm thấy một lão già Bà-la-môn mang khanh đi mất, tại sao khanh muốn đánhlừa trẫm?
-
Tâu Thánh thượng, xin hãy tin thần thiếp, chính Sakka Thiên chủ đã đưa thiếp lên thiên giới.
-
Trẫm không tin khanh đâu.
Lúc
ấy bà đưa vua xem cọng cỏ Kusa mà Thiên chủ đã tặng bà và nói:
-
Bây giờ xin Thánh thượng tin lời thần thiếp.
Vua
nghĩ thầm: "Cỏ Kusa hái được khắp nơi", nên ngài vẫn không tin bà. Bà liền đưa cho vua xem các Thiên y của bà. Thấy vậy ngài tin bà và bảo:
-
Này ái hậu, nếu Thiên chủ đem khanh đi thì khanh đã có thai chưa?
-
Tâu Thánh thượng, thần thiếp đã có thai.
Vua
rất hoan hỷ và truyền cử hành lễ mừng thai phụ.
Mười
tháng sau, bà hạ sinh một hoàng nam, triều đình không đặt tên gì khác ngoài
tên ngọn cỏ Kusa. Vào thời gian vương tử Kusa biết chạy một mình, bà lại có
thai một Thiên tử thứ hai, họđặt tên là Jayampati. Hai vương tử được nuôi dưỡng theo cung cách cao sang trọng vọng.
Bồ-tát
thật vô cùng thông minh, không cần học với thầy nào cả, mà tự khả năng ngài đã tài giỏi thành thạo mọi môn học thuật.
Vì
vậy khi ngài được mười sáu tuổi, vua
nóng lòng trao quốc độ cho ngài, liền bảo chánh hậu:
-
Này ái hậu, khi trao vương quyền cho vương nhi, ta sẽ cử hành lễ thật trọng
thể, ta muốn nhìn thấy vương nhi được an vị trên ngai vàng khi ta còn sống. Nếu có công chúa ở xứ
nào trong cõi Diêm-phù-đề mà ái hậu yêu mến, thì khi rước nàng ấy về đây, ta sẽ phong cho nàng làm chánh hậu của vương nhi. Vậy hãy thăm dò
xem vương nhi có yêu mến công chúa xứ nào chăng?
Bà
ưng thuận ngay và cho một cung nữ đệ trình vấn đề lên thái tử để biết ý kiến ngài. Nàng ấyđến trình vương tử
mọi việc.
Nghe
nói vậy, bậc Đại Sĩ liền suy nghĩ:
"Ta không được tốt tướng, hễ một công chúa diễm lệ nào dù được rước về đây làm tân nương của ta thì khi
thấy mặt ta cũng sẽ nói: "Mình sẽ phải làm gì với một người chồng xấu xí
như thế này"; rồi nàng ấy trốn đi và chúng ta chỉ thêm mang nhục. Vậy ta còn phải cần gì cuộc
sống gia đình thế tục nữa? Ta
muốn phụng dưỡng song thân lúc còn sống và khi song thân từ trần, ta quyết xuất
gia làm ẩn sĩ". Vì thế ngài đáp:
-
Ta có cần gì quốc độ ngai vàng hay yến
tiệc hội hè đâu? Khi song thân ta từ trần, ta quyết xuất gia tu
hành.
Nàng
cung nữ ấy trở về và kể lại với chánh hậu chuyện ngài vừa nói.
Vua
rất buồn bực; sau vài ngày lại gửi một chiếu chỉ khác, nhưng vương tử vẫn không
chịu nghe theo. Sau ba lần từ chối lời đề nghị của vua cha; đến lần thứ tư ngài suy nghĩ: "Quyết
liệt phản đối mẹ cha mãi là điều không hợp lý, nên ta muốn bày một mưu kế gì đó".
Rồi
ngài triệu người thợ vàng trưởng đoàn vào, đưa cho gã một số vàng
và bảo gã làm bức tượng một nữ nhân. Khi gã đi rồi, ngài lấy thêm vàng và chính tay ngài nặn hình một nữ nhân.
Thật
vậy, mục đích của chư Phật bao
giờ cũng được thành tựu. Bức tượng tuyệt đẹp vượt ngoài mọi lời lẽ con người miêu tả nó. Sau đó, bậc Đại Sĩ truyền đem xiêm y khoác cho tượng
ấy vàđặt trong cung thất.
Khi
thấy bức tượng do người thợ vàng trưởng đoàn đem vào, ngài chê bai,
và bảo:
-
Ngươi hãy đi tìm xem bức tượng đặt trong hoàng cung.
Gã
thợ ấy bước vào, thấy bức tượng lên suy nghĩ: "Chắc đây phải là một Thiên nữ đến hưởng lạc thú cùng với vương tử".
Gã
bỏ đi ra khỏi phòng mà không dám đưa tay ra về phía bức tượng ấy, rồi gã nói:
-
Tâu điện hạ, trong cung ngài có một Thiên nữ cao quý
của chư Thiên, hạ thần không dámđến gần.
Ngài
bảo:
-
Hiền hữu, hãy đi đem bức tượng vàng ấy
về đây.
Được
bảo đến lần thứ hai, gã mới đi mang bức tượng về.
Hoàng
tử ra lệnh đem bức tượng do người
thợ vàng đúc đặt vào trong cung
thất bằng vàng; còn bức tượng do ngài nặn thì được trang hoàng thật đẹp đặt lên một chiếc xe, đem đệ trình mẫu hậu và bảo:
-
Khi nào con tìm ra được một nữ nhân như thế
này, con xin lấy nàng làm vợ.
Mẫu
hậu triệu các quốc sư vào bảo:
-
Này các hiền khanh, vương tử có đầy đủ công đức do Sakka
Thiên chủ ban cho ta, chàng phải tìm được một công chúa xứng đáng với chàng. Vậy các khanh hãy đem bức tượng này đặt vào vương xa phủ kín, đi khắp cõi Diêm-phù-đề, hễ thấy công chúa của
vua nào giống bức tượng thì hãy trao tượng cho vua ấy và bảo: "Quốc vương
Okkàka sẽ làm hôn lễ với công chúa của Đại vương". Rồi hãy thu xếp ngày trở về nước.
-
Thật tốt lành thay.
Họ đáp xong cầm bức tượng ra đi cùng một đoàn tùy tùng đông đảo. Trong cuộc hành trình ấy, dù đến kinh thành nào vào lúc hoàng hôn, đoàn người ấy cũng tụ tập lại rồi sau khi trang
hoàng xiêm y, vòng hoa, nữ trang cho bức tượng, họ đặt tượng lên chiếc loan xa đưa ra bến tắm, còn chính họ trở lui, đứng bên vệ đường nghe ngóng người qua lại có bàn tán gì chăng.
Dân
chúng thấy bức tượng vàng, bảo nhau:
-
Bức tượng này chỉ là một nữ nhân cũng thật vô cùng diễm lệ, chẳng khác một vị
Thiên nữ. Tại sao nàng đến đây, nàng từ đâu lại? Trong kinh thành này của ta, không có
ai sánh bằng nàng được.
Sau
khi tán dương sắc đẹp của tượng vàng, họ
lại đi đường họ.
Các
quốc sư bảo:
-
Nếu có một cô gái nào như thế ở đây, dân chúng sẽ bảo:
"Bức tượng này giống công chúa nọ, hoặc tiểu thư kia"; chắc tại đây không có cô gái nào như vậy cả.
Họ
liền đem bức tượng ra đi đến kinh thành khác; trên
bước giang hồ vô định, họ đến kinh thành
Sàgala ở quốc độ Madda.
Lúc
bấy giờ vua Madda có bảy công chúa đẹp dị thường như bầy tiên trên trời. Công chúa lớn nhất tên là
Pabhàvatì (Quang Huy), thân nàng chiếu tỏa ra các tia sáng như thể ánh bình
minh. Khi trời tối, trong phòng loan của nàng rộng chừng bốn cubit (1 cubit =
45 cm) không cần thắpđèn, cả căn phòng cũng sáng rực lên.
Lúc
bấy giờ, nàng có một bà nhũ mẫu lưng gù, sau khi đã bưng cơm lên hầu Pabhàvatì, lại muốn gội đầu cho nàng vào lúc trời sẩm tối, bà ra đi múc nước cùng với tám nữ tỳ, mỗi người mang
một bình đựng nước đến bến tắm,
chợt thấy bức tượng, bà tưởng đó là Pabhàvatì liền kêu
lên:
-
Cô bé này tệ thật, cứ giả vờ muốn gội đầu và bảo ta đi múc nước, lại lẻn đi
trước chúng ta, ra đứng ngoài đường kia kìa.
Đang
lúc giận dữ, bà kêu lên:
-
Tệ quá, nàng làm nhục gia phong, nàng ra đứng kia, trước cả bọn ta nữa. Nếu đức vua biết được, chúng ta sẽ
chết mất.
Nói
xong, bà đánh vào má bức tượng,
làm một khoảng lớn bằng lòng bàn tay bà bị nứt ra. Khi thấy đó là một bức tượng vàng, bà bật cười đến bảo các nữ tỳ:
-
Hãy đến xem ta đã làm gì kìa. Ta tưởng đó là dưỡng nữ của ta, nên ta đánh nó, bức tượng kia thật có đáng gì nếu đem so với con gái ta? Ta chỉ làm đau tay ta mà thôi.
Thế
là các sứ giả của vua chạy ngay nắm lấy bà bảo:
- Đây là chuyện gì bà bảo cho ta biết, con gái bà đẹp hơn tượng này sao?
-
Ta muốn nói đến Pabhàvatì, công chúa
của vua Madda, giá trị của tượng này không bằng một phần mười sáu của nàng ấy.
Họ
vui mừng trong dạ, tìm lối vào cung nhờ người trình vua rằng sứ giả của vua
Okkàka đang đứng ở cung môn.
Vua đứng dậy từ bảo tọa, ra lệnh cho họ vào chầu.
Khi vào, họ đảnh lễ vua và tâu:
-
Tâu Đại vương, bổn vương xin gửi lời hỏi thăm ngọc
thể có được khang an chăng?
Họ được tiếp đón nồng hậu và khi được hỏi tại sao đến đây, họ đáp:
-
Bổn vương của chúng thần có một hoàng nam, vương tử Kusa rất dũng cảm, đức vua muốn trao quốc độ cho con nên sai chúng thần đến xin Đại vương gá duyên công chúa Pabhàvatì
cho chàng và nhận bức tượng vàng này làm sính lễ.
Nói
xong, họ dâng lên tượng vàng ấy. Vua rất đẹp ý, nghĩ rằng được kết thân với một dòng vua cao quý như vậy
thật là vạn phúc. Các sứ giả lại tâu:
-
Tâu Đại vương, chúng thần không dám chậm trễ ở nán
lại đây, chúng thần phải về trình đức vua là chúng thần đã đi cầu hôn công chúa
được rồi, ngài sẽ đến đón dâu sau.
Vua
chấp thuận, tiếp đãi họ rất nồng hậu, sau đó để họ ra về. Họ về cung trình lại mọi việc
lênđức vua và hoàng hậu. Vua cùng đám tùy tùng đông đảo khởi hành từ
Kusàvati dần dần theo thời gian đi đến kinh thành
Sàgala.
Vua
Madda thân hành đón rước ngài vào thành
tiếp đãi rất trọng thể. Hoàng hậu Sìlavati là một nữ
nhân thông thái, liền suy nghĩ: "Do nguyên nhân gì mà có việc này?".
Sau
một hai ngày, bà bảo vua:
-
Chúng ta đang mong được gặp tân
nương.
Vua
chấp thuận truyền triệu công chúa vào. Nàng Pabhàvati được phục sức cực kỳ lộng lẫy vàđám cung nữ theo
hầu bước ra đảnh lễ mẫu hậu tương lai.
Vừa
trông thấy nàng, chánh hậu liền suy nghĩ: "Công chúa này tuyệt đẹp, còn con ta lại xấu xí, nếu nàng thấy con
ta, nàng sẽ không ở dù chỉ một ngày, và sẽ trốn đi ngay. Vậy ta phải bày mưu mới được".
Bà
liền nói với vua Madda:
-
Tân nương thực là đẹp đôi với hoàng nhi
ta. Tuy thế hoàng tộc ta có một tục lệ cổ truyền, nếu nàng tuân theo luật đó, chúng ta sẽ rước nàng về làm hoàng phi.
- Đó là tục lệ gì?
-
Trong dòng họ ta, người vợ không được phép nhìn chồng ban ngày cho đến bao giờ nàng thọ thai. Nếu nàng chịu làm
theo đúng như vậy, chúng ta sẽ đón nàng về.
Vua
hỏi công chúa:
-
Này con yêu quý, con có làm thế được chăng?
-
Tâu phụ vương, được. Nàng đáp.
Sau đó, vua Okkàka đem nhiều sính lễ tặng vua Madda và rước nàng
cùng ra đi, vua Madda tiễn đưa
công chúa về nhà chồng cùng với một đoàn hộ tống thật đông đảo. Còn vua
Okkàka, khi vừa tới thành Kusàvati, liền ban lệnh cho kinh thành trang hoàng
thật lộng lẫy, tất cả tù nhân đều được thả ra, và sau
khi làm lễ quán đảnh cho tân vương cùng
sắc phong nàng Pabhàvati làm chánh hậu, ngài truyền đánh trống loan báo triều đại vua Kusa ra đời.
Tất
cả các vua toàn cõi Diêm-phù-đề có công chúa đều gửi đến triều cống vua Kusa
hoặc có vương tử thì gửi đến làm cận thần để mong bầu bạn với ngài.
Bồ-tát
lại có cả đoàn nữ nhạc đông đảo và trị dân thật oai phong lẫm liệt. Tuy
vậy ngài khôngđược phép nhìn Pabhàvatì ban ngày, nàng cũng không được nhìn ngài, chỉ ban đêm ngài mớiđược tự do đi lại với nàng.
Vào
thời ấy, thân thể của nàng Pabhàvatì tỏa sáng lạ thường, song Bồ-tát phải rời hậu
cung khi trời còn tối. Vài ngày sau, ngài thưa với mẫu hậu rằng ngài muốn nhìn
thấy Pabhàvatì vào ban ngày. Bà từ chối , bảo ngài:
-
Con không nên ước muốn việc đó, phải đợi đến bao giờ
nàng có thai đã.
Ngài
van xin mẹ nhiều lần, vì thế bà bảo:
-
Thôi được, con hãy đến chuồng voi đứng đó giả làm người quản tượng. Mẹ sẽ đem nàng lạiđó, con sẽ tha hồ ngắm nàng, nhưng
hãy cẩn thận đừng để nàng biết con.
Ngài
thỏa thuận đi đến chuồng voi, mẫu
hậu truyền làm lễ hội voi và bảo Pabhàvatì:
-
Này con, ta hãy cùng đi xem bầy voi của đức
phu quân con.
Khi đem nàng lại đó, bà chỉ cho nàng tên của voi này, voi nọ; trong lúc Pabhàvatì đi sau lưng mẫu hậu, vua ném vào lưng nàng một
cục phân voi. Nàng tức giận bảo:
-
Ta sẽ bảo đức vua chặt đầu ngươi.
Nói
xong, nàng lại càu nhàu với mẫu hậu khiến bà phải dỗ dành nàng bằng cách xoa
lưng nàng.
Lần
thứ hai vua mong muốn nhìn thấy hoàng hậu, lại giả dạng làm người giữ ngựa
trong chuồng ngựa, cũng như lần trước, ngài ném cục phân ngựa vào mình nàng và
khi nàng bực tức, mẫu hậu lại dỗ dành nàng.
Một
ngày kia Pabhàvatì tâu với mẫu hậu là nàng mong muốn nhìn thấy bậc Đại Sĩ Bà từ chối lời thỉnh cầu của nàng và bảo:
-
Thôi con đừng ước muốn như vậy
nữa.
Nàng
lại cứ nài nỉ bà mãi, cuối cùng bà bảo:
-
Thôi được, ngày mai hoàng nhi sẽ làm đám rước trọng thể khắp kinh thành. Con cứ mở
cửa sổ mà nhìn.
Nói
xong, hôm sau, bà ra lệnh cho kinh thành trang hoàng rực rỡ, rồi truyền cho
hoàng tử Jayampati mặc hoàng bào, cỡi voi cử hành lễ khải hoàn rất trọng thể
khắp kinh thành.
Mẫu
hậu cùng đứng nơi cửa sổ với nàng
Pabhàvatì, bảo nàng:
-
Con hãy xem cảnh huy hoàng của đức phu quân con.
Nàng
bảo:
-
Con đã được một đấng vương quân thật xứng đôi vừa lứa với con.
Lòng
nàng vô cùng hoan hỷ. Song cũng ngày đó bậc Đại Sĩ giả dạng làm người quản tượng, ngồi sau vương tử
Jayampati, khi nhìn thấy Pabhàvatì cho thỏa lòng ao ước, ngài vui thích đưa tay làm bộ điệu trêu ghẹo nàng.
Khi
con voi đi qua, mẫu hậu hỏi nàng
có nhìn thấy đức vua chăng, nàng bảo:
-
Tâu mẫu hậu, có thấy, song sau lưng đức vua là người quản tượng rất thô lỗ đã lấy tay làmđiệu bộ trêu con; tại sao chúng
lại để một người xấu xí, có dáng xui xẻo như vậy
ngồi sau đức vua chứ?
-
Con ạ, chúng muốn sau đức vua phải có người
cận vệ.
Nàng
suy nghĩ: ‘‘Người quản tượng này thật to gan, không tỏ lòng kính trọng đức vua tí nào, hay đó chính là vua Kusa? Chắc chắn vì đức vua xấu xí nên họ không muốn cho ta thấy mặt
ngài".
Thế
là nàng rỉ tai bà nhủ mẫu lưng gù của nàng:
-
Này nhũ mẫu, lập tức đi ra xem thử đức vua
ngồi trước hay sau.
-
Làm thế nào ta biết được điều đó?
-
Nếu là đức vua thì ngài sẽ bước
xuống voi trước, nhũ mẫu sẽ biết được nhờ dấu hiệu này.
Bà
vú đi ra đứng xa xa nhìn thấy bậc Đại Sĩ bước xuống voi trước, và sau đó là vương tử Jayampati. Bậc Đại Sĩ nhìn quanh, hết phía này đến phía kia, nhợt trông thấy bà lão gù lưng,
biết ngay tại sao bà ta đã đến, liền triệu bà ta lại và nghiêm khắc bảo bà
ấy không được tiết lộ bí mật của
ngài, rồi cho bà ta về.
Bà
vú về và bảo hoàng hậu:
-
Vị ngồi phía trước đã xuống voi trước tiên.
Và
Pabhàvatì tin bà ta ngay.
Một
lần nữa, vua muốn thấy mặt nàng và cầu xin mẫu hậu sắp đặt việc ấy. Bà không thể từ chối ngài và bảo:
-
Thôi được rồi , con hãy vào ngự viên.
Ngài
vào đó giấu mình trong hồ sen đến tận cổ, đứng dưới nước lấy lá sen che đầu và hoa sen che mặt. Và mẫu hậu đem Pabhàvati vào ngự viên lức sẩm tối bảo nàng:
-
Này con hãy nhìn cây này, chim kia, nai nọ...
Như
thế bà dụ nàng đi mãi cho đến khi nàng tới gần bờ hồ sen.
Khi
nàng nhìn thấy hồ phủ đầy năm loại hoa sen, nàng muốn tắm, liền bước xuống mé nước cùng
các cung nữ. Trong lúc vui đùa nàng thấy hoa sen
kia, liền đưa tay ra hái. Lúc đó
vua rẽ lá sen ra, nắm lấy tay nàng bảo:
-
Ta là vua Kusa.
Vừa
thấy mặt ngài, nàng hét to:
-
Kìa con quỷ đang chụp lấy ta.
Rồi
nàng ngất đi ngay, vì thế vua thả
tay nàng ra.
Khi
tỉnh lại, nàng nghĩ thầm: "Chúng bảo vua Kusa đã nắm lấy tay ta, ngài chính là người đã ném vào ta một cục phân voi trong chuồng voi,
rồi một cục phân ngựa trong chuồng ngựa, cũng chính là người ngồi sau lưng voi
và trêu ghẹo ta. Ta còn làm gì nữa với một người chồng xấu xa dị dạng như vậy?
Nếu ta sống thì ta phải lấy người chồng khác mà thôi".
Thế
là nàng triệu tập các quan đại thần đã hộ giá nàng đến đây, và bảo họ:
-
Hãy chuẩn bị loan xa. Ngay hôm nay ta phải đào tẩu.
Họ
liền tâu chuyện này cùng đức vua. Ngài nghĩ thầm:
"Nếu nàng không trốn được, lòng nàng sẽ đau khổ tan nát; thôi để nàng đi, với tài năng của chính mình, rồi đây ta sẽ đưa nàng trở lại".
Thế
là ngài cho phép nàng ra đi, nàng liền về ngay
kinh thành vua cha nàng. Lúc ấy bậc Đại Sĩ đi từ ngự viên về thành và bước lên cung điện nguy nga của ngài.
Thật
ra chính là do kết quả một lời nguyền của nàng trong một đời trước mà nàng không ưng thuận Bồ-tát và cũng
vì một nghiệp quá khứ của ngài mà ngài phải chịu xấu xí như thế.
Chuyện
kể rằng ngày xưa tại ngoại ô thành Ba-la-nại, ở tại phố trên phố dưới, một gia đình nọ có hai con trai và một gia đình kia có một con gái. Bồ-tát là cậu em trong
hai anh em kia, rồi cô gái kết duyên với người anh. Còn cậu em không có gia
thất, nên vẫn sống chung với anh.
Một
ngày kia, nhà này nướng loại bánh hảo hạng, trong lúc Bồ-tát còn ở trong rừng,
nên họ để dành cho ngài một
chiếc, rồi chia bánh ra ăn hết. Lúc bấy giờ một
vị Độc Giác Phật đến khất thực ở nhà ấy. Người chị dâu của Bồ-tát nghĩ rằng
nàng sẽ nướng một chiếc bánh khác cho cậu em, nên đem chiếc bánh để dành phần cậu đưa cho vị Độc Giác Phật.
Ngay
lúc ấy cậu trở về từ khu rừng, nàng bảo:
-
Này chú em, đừng giận tôi đã đưa phần của chú cho vị Độc Giác Phật rồi.
Cậu
em đáp:
-
Chị đã ăn hết phần mình rồi lại đem cho phần ta đi, còn bảo sẽ làm cái bánh khác cho ta đấy!
Cậu
liền giận dữ bước ra lấy lại chiếc bánh từ bình bát của vị khất sĩ.
Nàng
vội trở về nhà mẹ mình lấy một bơ tươi mới tan, có màu như hoa Champac (hoa Sứ) đổ đầy vào bình bát ấy, nó liền tỏa ra một làn
ánh sáng. Thấy vậy nàng cầu nguyện:
-
Lạy Thánh giả, ước gì khi con tái sinh, thân thể con sẽ phát ra một luồng ánh
sáng, con sẽđược xinh đẹp và không bao giờ ở chung nhà với kẻ đê tiện này nữa.
Vì
kết quả lời nguyền ngày xưa này, nàng không muốn gặp lại cậu nữa. Và Bồ-tát khi
thả chiếc bánh lại vào bình bát, đã khấn:
-
Lạy Thánh giả, dù nàng ở cách xa trăm dặm, cũng xin cho con có đủ uy lực bắt
nàng về làm vợ.
Vì
cậu đã giận dữ lấy chiếc bánh, nên kết quả của
nghiệp quá khứ ấy là cậu bị tái sinh rất xấu xí.
Phần
vua Kusa vô cùng đau khổ khi Pabhàvatì bỏ
ngài ra đi, đến độ các cung phi
khác, dù đã phụng sự ngài đủ mọi cách, ngài cũng không còn lòng dạ nào ngó
ngàng đến họ; toàn cungđiện ngài thiếu mất Pabhàvatì
trông thật vô cùng hiu quạnh. Sau đó ngài nghĩ thầm: "Lúc này chắc nàng đã về đến thành Sàvala"; và ngay sáng ngày hôm sau ngài tìm đến mẹ, và thưa:
-
Tâu mẫu hậu, con sẽ đi tìm Pabhàvatì về đây. Xin mẫu hậu trị vì quốc độ thay con.
Và
ngài ngâm vần kệ đầu:
1. Đất
nước này hoan lạc ngập tràn
Ngọc vàng châu báu, vật trang hoàng,
Thay con, mẫu hậu lên cai trị,
Con sẽ ra đi để kiếm nàng.
Ngọc vàng châu báu, vật trang hoàng,
Thay con, mẫu hậu lên cai trị,
Con sẽ ra đi để kiếm nàng.
Khi
nghe ngài nói vậy, mẫu hậu bảo:
-
Này vương nhi, con phải thật hết sức tỉnh giác, nữ nhân là giống có tâm bất
tịnh.
Sau đó, bà đổ đầy thực phẩm cao lương vào chiếc bát vàng và bảo:
-
Vương nhi để dành lương thực lúc đi đường.
Rồi
bà từ giã ngài. Cầm lấy bát thức ăn ấy xong, ngài đảnh lễ mẫu hậu rất cung
kính rồi nói to:
-
Nếu con còn sống, con sẽ có ngày gặp mẹ.
Và
ngài trở về cung thất của mình.
Ngài
trang bị năm thứ vũ khí cho mình, đặt một ngàn đồng tiền vào túi xách
xong cầm cái bát thức ăn, chiếc đàn Kokanada
và rời kinh thành. Ngài là người lực lưỡng, nên đến giữa trưa, ngài đã đi được năm mươi dặm đường. Sau khi ăn xong, còn nửa ngày ngài đi thêm năm mươi dặm đường nữa, vì thế chỉ trong
vòng một ngày ngài đã đi được cả trăm dặm đường.
Chiều
tối ngài tắm rửa và vào kinh thành Sàgala. Khi ngài vừa đến nơi thì do uy lực đức độ của ngài, nên Pabhàvati không thể nằm yên
trên vương sàng mà phải bước xuống nằm trên sàn nhà. Bồ-tát lúc ấy đã mệt lã vì cuộc hành trình, khi ngài đang lang thang trên đường ngài gặp một người đàn bà mời vào nhà nghỉ ngơi. Sau khi rửa chân
xong, bà ấy mời ngài đi ngủ.
Lúc
ngài đang ngủ, bà ấy lo dọn cơm cho ngài, rồi thúc
ngài dậy ăn cơm, ngài vô cùng đẹp ý nên đã cho bà ấy luôn cả ngàn đồng tiền và cái bát vàng. Để lại chỗ đó luôn cả năm loại vũ khí, ngài bảo:
-
Ta cần phải đi vài chỗ nữa.
Khi
cầm cây đàn lên, ngài đi đến chuồng voi và gọi các người quản tượng:
-
Hãy cho ta ở đây và ta sẽ chơi nhạc để các anh nghe.
Họ đồng ý. Ngài liền đi ra ngoài, và nằm xuống. Khi đã hết mệt mỏi, ngài đứng dậy mở đàn ra, vừa hát vừa nghĩ: "Dân
chúng trong kinh thành sẽ nghe tiếng đàn".
Trong
lúc Pabhàvati nằm trên sàn nhà, nàng nghe tiếng hát và suy nghĩ: "Tiếng đàn này không thể của ai khác ngoài vua
ấy", nàng biết chắc vua Kusa đã đến đây chỉ vì nàng. Vua
Madda cũng nghe tiếng đàn, liền nghĩ thầm:
"Gã kia chơi đàn thật du dương. Ngày
mai ta sẽ gọi gã vào cho làm nhạc công". Còn Bồ-tát suy nghĩ: "Ta
không thể nào thấy Pabhàvatì nếu ta ở đây, chỗ này không phải dành cho ta".
Sáng
hôm sau, ngài dậy thật sớm, ăn điểm tâm trong nhà
trọ xong, ngài bỏ đàn, và đi đến người thợ gốm của vua xin làm thợ học
việc. Một ngày kia, sau khi đổ đất sét vào đầy nhà, ngài hỏi người kia xem ngài có thể làm
một số bình đất được chăng, người
thợ gốm đáp:
- Được lắm.
Ngài
liền đặt cục đất lên bánh xe quay tròn. Khi đã quay được rồi, bánh xe quay nhanh đến giữa trưa.
Sau
khi làm đủ mọi loại bình đất lớn nhỏ, ngài bắt đầu làm một chiếc đặc biệt cho Pabhàvatì có nhiều hình vẽ trên đó. Thật vậy, mục đích của chư Phật bao giờ cũng
thành tựu. Ngài quyếtđịnh chỉ một mình Pabhàvatì được thấy các hình vẽ này thôi. Khi ngài phơi
khô và nung các bình xong, ngôi nhà đầy cả đồ gốm.
Người
thợ gốm ấy đem nhiều mẫu hàng đến cung vua. Vua thấy đồ gốm liền hỏi ai đã làm
ra chúng.
-
Tâu Đại vương, chính hạ thần.
-
Trẫm chắc không phải ngươi làm được, vậy thì ai làm?
-
Tâu Đại vương, người thợ học việc của hạ thần.
-
Không thể là thợ của ngươi được, phải thầy của
ngươi mới đúng. Ngươi hãy học nghề với người ấy. Từ nay hãy để người ấy làm bình gốm cho các công chúa của
trẫm.
Vua
ban cho gã một ngàn đồng tiền và bảo:
-
Hãy trao tiền này cho người ấy, và đưa các bình nhỏ đến các công chúa.
Gã
cầm các bình nhỏ đến trao các công chúa,
và thưa:
-
Những thứ này làm riêng để các công nương chơi.
Các
công chúa đều có mặt để nhận quà
tặng.
Sau đó, người thợ gốm trao cho Pabhàvatì cái bình mà
bậc Đại Sĩ đã làm riêng cho nàng. Khi cầm lên, nàng
nhận ra ngay hình vẽ nàng và nhũ mẫu lưng gù, và biết đó là công trình bằng tay của không ai khác
ngoài vua Kusa, nàng tức giận bảo:
-
Ta không cần cái này, đem cho ai muốn lấy nó
đi.
Các
công chúa kia thấy nàng giận dữ đều cười bảo:
- Đại tỷ tưởng đó là công trình của vua Kusa,
chính người thợ gốm làm nó chứ có phải vua ấyđâu, hãy nhận đi.
Nàng
không bảo cho các em biết vị vua ấy đã đến đây và làm đồ gốm.
Còn
người thợ gốm trao ngàn đồng vàng ấy cho Bồ-tát,
và bảo:
-
Này con, đức vua rất hài lòng vì
con. Từ nay con phải làm đồ gốm cho các công
chúa, còn ta sẽ đem chúng đến tặng các
nàng.
Ngài
suy nghĩ: "Mặc dù ta ở đây, ta cũng không thể
thấy Pabhàvati được". Ngài liền
trả tiền lại người thợ gốm và đi đến nhà người đan giỏ cho vua.
Sau
khi trở thành thợ học việc với người này, ngài làm một chiếc quạt bằng lá thốt
nốt cho Pabhàvatì, trên đó ngài vẽ một chiếc
lọng trắng (biểu tượng của vương quyền), và lấy đề tài một phòng đại tiệc có nhiều hình người trong ấy, ngài vẽ
hình Pabhàvatì đang đứng giữa.
Người
thợ đan giỏ đem những thứ thủ công do vua Kusa làm đến cung điện. Vua thấy, hỏi ai làm chúng như
trước và ban một ngàn tiền vàng cho người này, rồi bảo:
-
Hãy trao những mẫu đồ đan lát này cho các
công chúa.
Ngài
lại trao chiếc quạt đặc biệt dành cho
Pabhàvatì. Lần này cũng vậy, không ai nhận ra các hình vẽ; song Pabhàvatì, khi
thấy chúng, liền hiểu ngay công trình của vua Kusa, và bảo:
-
Hãy đưa thứ này cho ai thích nó thì lấy đi.
Rồi
nàng giận dữ ném xuống đất.
Các
công chúa kia lại cười nàng. Còn người thợ đan giỏ đem tiền về trao cho Bồ-tát. Ngài nghĩ rằng nơi này cũng
không phải chỗ dành cho ngài ở được, nên ngài trả tiền
lại cho người đan giỏ rồi đi đến gặp
người giữ ngự viên của vua và trở thành thợ học việc.
Trong
khi làm đủ loại vòng hoa, ngài
làm một vòng đặc biệt dành cho
Pabhàvati, nổi bật với nhiều hình dáng khác nhau. Người giữ vườn lại đem đến cung điện.
Khi
vua thấy, bèn hỏi ai làm các kiểu vòng hoa này.
-
Tâu Đại vương, chính hạ thần.
-
Ta chắc ngươi không thể làm được, vậy ai?
-
Muôn tâu, chính chú thợ học việc của hạ thần.
-
Kẻ này không thể là thợ của nhà ngươi mà phải là tay thầy. Ngươi hãy học nghề
với người này, từ nay người này phải kết vòng hoa cho các công chúa và trao cho
gã ngàn đồng vàng này.
Khi
ban tiền cho người thợ, vua phán:
-
Hãy đem các vòng hoa đến dâng lên các công chúa của trẫm.
Còn
người giừ vườn lại dâng lên Pabhàvati vòng hoa mà Bồ-tát đã làm riêng tặng nàng. Ở đây nữa, nàng lại thấy giữa các hình ảnh khác
nhau, có cả hình nàng và vua, nàng lại nhận ra đó là công trình mỹ nghệ của vua Kusa, nên nàng
giận dữ ném xuống đất.
Các
công chúa em nàng cũng cười nhạo nàng như trước. Người làm vườn đem ngàn đồng tiền về trao cho Bồ-tát và kể hết mọi sự tình đã xảy ra. Ngài suy nghĩ: "Chỗ này cũng
không phải của ta". Ngài trả lại tiền cho người làm vườn rồi đi làm thợ học việc với hỏa đầu quân của vua.
Một
ngày kia, người đầu bếp đem đủ loại cao
lương mỹ vị đến dâng vua, vào trao cho Bồ-tát một miếng thịt để nấu cho phần ngài. Ngài nấu thịt tuyệt khéo, đến độ mùi thơm bay khắp kinh thành. Vua ngửi
mùi thơm, hỏi thử xem người đầu bếp còn nấu thêm món
thịt gì trong bếp chăng.
-
Tâu Đại vương, không. Song hạ thần có trao cho người
thợ học việc một miếng thịt xương đề nấu, chắc đó là mùi thịt mà Đại vương vừa ngửi.
Vua
truyền đem món thịt ấy đến và đặt một miếng lên đầu lưỡi, lập tức nó làm bừng dậy và rúng động cả bảy ngàn vị giác! Vua say mê lạc thú được thưởng thức các cao lương nên trao cho
người đầu bếp một ngàn đồng tiền và phán:
-
Từ nay ngươi phải đem ngự thiện dâng lên
trẫm và các công chúa do thợ học viện của ngươi nấu, ngươi đem phần của trẫm đến dâng trẫm, còn thợ học
việc của ngươi thì đem dâng phần các công
chúa.
Người
thợ về kể lại mọi sự; nghe thế ngài suy nghĩ: "Nay ước vọng của ta đã thành tựu. Ta sẽ gặp được Pabhàvatì rồi". Lòng đầy hân hoan, ngài trao ngàn đồng tiền cho người đầu bếp và hôm sau ngài nấu
các món ăn để dâng vua, còn
chính ngài đi lên nội cung, nơi
Pabhàvatì đang cư ngụ, gánh theo
một gánh thức ăn cho các công chúa.
Pabhàvatì
thấy ngài đi lên với gánh nặng như
vậy liền suy nghĩ: "Ngài đang làm công việc của
kẻ gia nô phục dịch thật không xứng đáng với ngài tý nào. Song nếu ta để yên, ngài sẽ tưởng tađồng ý như vậy, rồi
không chịu đi nơi khác, cứ ở tại đây mà nhìn ta chằm chặp. Ta phải lập tức nhục
mạ phỉ báng ngài và đuổi ngài đi, không cho ngài ở lại đây phút nào nữa!".
Thế
là nàng mở hé cửa ra, để một tay trên cánh
cửa, tay kia đè lên then cửa và ngâm
vần kệ nhì:
2.
Ku-sa, ngài phải chịu ngày đêm
Mang gánh nặng này thực chẳng nên,
Đất nước Ku-sa, mau trở lại,
Dị hình, ta chẳng chút ưa nhìn!
Mang gánh nặng này thực chẳng nên,
Đất nước Ku-sa, mau trở lại,
Dị hình, ta chẳng chút ưa nhìn!
Ngài
liền suy nghĩ: "Ta đã nghe được lời Pabhàvati nói rồi". Lòng mừng khấp
khởi, ngài vội ngâm ba vần kệ:
3.
Pab-hà, say đắm bởi dung nhan,
Đất nước ta đâu thiết ngó ngàng,
Mỹ quốc Mạch- đa, niềm lạc thú,
Bỏ ngai, ta sống để tìm nàng!
4. Quang Huy kiều nữ, mắt mơ màng,
Sao chiếm lòng ta đến dại cuồng?
Hiểu rõ giang sơn là đất mẹ,
Điên rồ phiêu bạt khắp mười phương!
5. Mình khoác tấm da rực sáng ngời,
Vòng lưng đai quấn ánh vàng tươi,
Tình nàng, kiều nữ, ta khao khát,
Ta chẳng màng ngôi báu ở đời!
Đất nước ta đâu thiết ngó ngàng,
Mỹ quốc Mạch- đa, niềm lạc thú,
Bỏ ngai, ta sống để tìm nàng!
4. Quang Huy kiều nữ, mắt mơ màng,
Sao chiếm lòng ta đến dại cuồng?
Hiểu rõ giang sơn là đất mẹ,
Điên rồ phiêu bạt khắp mười phương!
5. Mình khoác tấm da rực sáng ngời,
Vòng lưng đai quấn ánh vàng tươi,
Tình nàng, kiều nữ, ta khao khát,
Ta chẳng màng ngôi báu ở đời!
Khi
ngài đã nói vậy xong, nàng suy nghĩ: "Ta phỉ
báng ngài chỉ vì muốn làm cho ngài uất hận trong lòng; song ngài lại cố dùng
lời lẽ hòa dịu với ta. Giả sử ngài bảo: <Ta là vua Kusa>, và bắt lấy ta,
thì có ai cản ngài được? E rồi có kẻ nghe
lọt được câu chuyện giữa ta và ngài nóiđây".
Thế
là nàng vội đóng cửa lại và cài then
kỹ bên trong. Còn ngài cầm đòn gánh lên và đem thức ăn đến các công chúa kia. Pabhàvatì bảo
nữ tỳ lưng gù đem cho nàng các món ăn do vua Kusa nấu. Bà vú đem lại và bảo:
-
Công chúa ăn đi nào.
Pabhàvatì
nói:
-
Ta không muốn ăn những thức ăn do vua
ấy nấu đâu. Bà hãy ăn rồi đi lấy thức ăn
của bà nấu cho ta và đem lại đây. Song đừng
nói cho ai biết vua Kusa đã đến rồi đấy nhé.
Bà
vú lưng gù từ đó đem về ăn phần thức ăn
của công chúa, và đưa cho nàng phần thức ăn của bà ta. Cũng từ đó vua Kusa không thể nào thấy nàng được lại suy nghĩ: "Ta không biết Pabhà có
thương yêu ta chút nào chăng, ta muốn thử xem nàng ra sao".
Thế
là sau khi đưa thức ăn đến dâng các
công chúa kia, ngài lại gánh thức ăn lên vai, bước rađạp chân xuống sàn nhà cạnh cửa khuê phòng của
Pabhàvatì, làm cho các dĩa thức ăn đụng nhau kêu loảng
xoảng, rồi ngài vừa hét lên vừa ngã nhào xuống đất mê man bất tỉnh giữa đống đồ đạc.
Khi
nghe tiếng ngài kêu lớn, nàng mở cửa phòng ra nhìn, thấy ngài ngã quỵ dưới sức
nặng của gánh đồ ngài đang mang đi, nàng thầm nghĩ: "Đây là vị Đại vương ngự trị toàn cõi Diêm-phù-đề, thế mà
vì ta, ngài đã chịu bao khổ sở ngày đêm; bởi trước kia ngài được nâng niu chiều chuộng kỹ lưỡng nên nay đã ngã nhào do gánh nặng thức ăn mà ngài đang mang đây. Thôi để ta xem ngài còn sống không’’.
Rồi
bước ra khỏi phòng, nàng nghễnh cổ lên nhìn vào mồm ngài xem hơi thở ra sao.
Ngài phì nước bọt ra đầy miệng làm văng cả
lên người nàng. Nàng vội rút lui về phòng, và phỉ báng ngài, khi nàng đứng bên cửa hé mở, nàng ngâm kệ sau:
6. Rủi
thay phận kẻ mãi mong cầu
Thấy bị chối từ mọi ước ao,
Như Đại vương, theo đòi thắm thiết
Tình kia chẳng đáp được đâu nào!
Thấy bị chối từ mọi ước ao,
Như Đại vương, theo đòi thắm thiết
Tình kia chẳng đáp được đâu nào!
Nhưng
vì ngài đang si tình nàng đến độ điên cuồng, nên dù ngài bị nàng phỉ báng,
mạ ly đến đâu đi nữa, ngài vẫn không tỏ vẻ oán hận mà
chỉ ngâm kệ này:
7. Ai
chiếm được người dạ luyến thương,
Dù tình đáp lại hoặc đơn phương,
Chỉ thành công ấy làm khâm phục,
Thất bại là bi thảm đoạn trường!
Dù tình đáp lại hoặc đơn phương,
Chỉ thành công ấy làm khâm phục,
Thất bại là bi thảm đoạn trường!
Trong
khi ngài nói như vậy, nàng vẫn không động lòng thương, còn đáp lại với giọng cương quyết như để xua đuổi ngài đi bằng vần kệ sau:
8. Theo đuổi nữ nhi chẳng thuận lòng
Khác nào đào đá tảng trên đồng,
Lưỡi cày bằng gỗ giòn mau gẫy,
Hay đón gió bằng chiếc lưới không!
Khác nào đào đá tảng trên đồng,
Lưỡi cày bằng gỗ giòn mau gẫy,
Hay đón gió bằng chiếc lưới không!
Nghe
thế, vua ngâm tiếp ba vần kệ nữa:
9. Như đá trơ trơ, quả dạ nàng,
Bề ngoài hiền dịu tuyệt trần gian!
Không lời thăm hỏi dù ta đến
Theo đuổi tình ai vạn dặm đàng!
10 Nàng cứ cau mày lúc ngắm ta,
Sa sầm dáng điệu, chúa kiêu xa,
Còn ta, chỉ một tên đầu bếp
Trong chốn cung đình xứ Mạch-đa.
11. Hoàng phi, ví thử xót thương người,
Hạ cố ban ta một nụ cười,
Ta chẳng còn làm đầu bếp nữa:
Ku-sa chúa tể ngự trên đời!
Bề ngoài hiền dịu tuyệt trần gian!
Không lời thăm hỏi dù ta đến
Theo đuổi tình ai vạn dặm đàng!
10 Nàng cứ cau mày lúc ngắm ta,
Sa sầm dáng điệu, chúa kiêu xa,
Còn ta, chỉ một tên đầu bếp
Trong chốn cung đình xứ Mạch-đa.
11. Hoàng phi, ví thử xót thương người,
Hạ cố ban ta một nụ cười,
Ta chẳng còn làm đầu bếp nữa:
Ku-sa chúa tể ngự trên đời!
Nghe
ngài nói vậy, nàng nghĩ thầm: "Ông vua này thật cứ nói dai dẳng đến cùng. Ta phải tìm mưu nói dối để đuổi ngài đi nơi khác". Nàng liền ngâm kệ này:
12. Nếu
thầy tướng số nói không sai,
Thì chính tiên tri đúng thế này:
"Nàng bị chặt ra thành bảy mảnh,
Khi nàng lấy chúa Cát Tường đây.
Thì chính tiên tri đúng thế này:
"Nàng bị chặt ra thành bảy mảnh,
Khi nàng lấy chúa Cát Tường đây.
Nghe
vậy vua cãi lại ngay:
-
Này ái hậu, ta cũng đã hỏi ý các thầy tướng
số ở xứ ta và họ tiên đoán chẳng ai có thể làm
phu quân của ái hậu trừ vị chúa công có giọng như sư tử, là Đại đế Kusa, và theo trí hiểu biết của ta, ta
cũng thấy những điều trên như vậy.
Ngài
lại ngâm vần kệ khác:
13. Nếu
thầy tướng số khác cùng ta
Nói những lời chân thật, quả là:
Nàng chẳng tôn ai làm chúa tể
Của nàng, trừ Đại đế Ku-sa!
Nói những lời chân thật, quả là:
Nàng chẳng tôn ai làm chúa tể
Của nàng, trừ Đại đế Ku-sa!
Nghe
ngài nói vậy, nàng tự bảo: 'Ta không thể làm nhục ngài được! Vậy dù ngài chịu rời bỏ đi hay không thì có nghĩa lý gì đối với ta". Nàng liền đóng cửa lại để khỏi ló đầu ra nữa. Ngàiđành
gánh đồ đạc lên ra đi.
Tứ
ngày ấy, ngài không còn trông thấy nàng nữa và ngài trở nên vô cùng chán nản
với công việc bếp núc của ngài. Khi ăn điểm tâm xong, ngài phải chẻ củi, rửa bát dĩa, gánh nước rồi
nằm nghỉ ngơi trên đống thóc. Ngài dậy thật sớm lo nấu cháo, rồi đem thức ăn đi phục dịch, và ngài chịu đựng mọi sự hành hạ thân xác này chỉ vì quá si
tình nàng Pabhàvatì.
Một
ngày kia, ngài thấy bà vú lưng gù đi ngang qua cửa bếp, liền chào bà. Vì sợ Pabhàvatì, bà vú không dám đến gần ngài, chỉ làm ra vẻ đang vội vàng lắm. Thế là ngài chạy ngang đến gần bà ta, bảo:
-
Này bà già gù?
Bà
vú quay lại hỏi:
-
Ai đấy nhỉ? Già này chẳng dám nghe những gì ngài
nói đâu!
Ngài
liền bảo:
-
Cả hai chủ tớ ngươi thật quá ngang bướng! Dù ta ở gần các người lâu nay, ta cũng chẳng nghe già
nói gì về ngọc thể của nàng cả.
Bà
gù đáp:
-
Thế ngài có quà gì cho già này chăng?
Ngài
vội đáp:
-
Giả sử ta cho ngươi quà, ngươi có gắng sức làm sao Pabhàvatì nguôi lòng và cho
ta gặp mặt nàng chăng?
Nghe
bà vú ưng thuận, ngài bảo:
-
Nếu ngươi làm được việc ấy, ta sẽ chữa
cho lưng gù của ngươi thẳng lên, rồi tặng ngươi một vòng vàng đeo cổ.
Rồi để dụ bà vú, ngài ngâm năm vần kệ:
14.
Chuỗi vàng ta sẽ tặng cho già,
Khi đến Ku-sa, xứ sở nhà,
Ví thử Pa-bhà thân yểu điệu
Rủ lòng hạ cố đoái nhìn ta!
15. Chuỗi vàng ta sẽ tặng cho già,
Khi đến Ku-sa, xử sở nhà,
Ví thử Pa-bhà, nàng thục nữ,
Rủ lòng hạ cố nói cùng ta!
16. Chuỗi vàng ta sẽ tặng cho già,
Khi đến Ku-sa, xử sở nhà,
Ví thử Pa-bhà, nàng thục nữ,
Rủ lòng cười hé nụ cùng ta!
17. Chuỗi vàng ta sẽ tặng cho già,
Khi đến Ku-sa, đất nước nhà,
Ví thử Pa-bha thân yểu diệu,
Sẽ tươi cười diện kiến cùng ta!
18. Chuỗi vàng ta sẽ tặng cho già,
Khi đến Ku-sa, đất nước nhà,
Ví thử Pa-bhà nàng thục nữ,
Đưa tay âu yếm đặt vào ta!
Khi đến Ku-sa, xứ sở nhà,
Ví thử Pa-bhà thân yểu điệu
Rủ lòng hạ cố đoái nhìn ta!
15. Chuỗi vàng ta sẽ tặng cho già,
Khi đến Ku-sa, xử sở nhà,
Ví thử Pa-bhà, nàng thục nữ,
Rủ lòng hạ cố nói cùng ta!
16. Chuỗi vàng ta sẽ tặng cho già,
Khi đến Ku-sa, xử sở nhà,
Ví thử Pa-bhà, nàng thục nữ,
Rủ lòng cười hé nụ cùng ta!
17. Chuỗi vàng ta sẽ tặng cho già,
Khi đến Ku-sa, đất nước nhà,
Ví thử Pa-bha thân yểu diệu,
Sẽ tươi cười diện kiến cùng ta!
18. Chuỗi vàng ta sẽ tặng cho già,
Khi đến Ku-sa, đất nước nhà,
Ví thử Pa-bhà nàng thục nữ,
Đưa tay âu yếm đặt vào ta!
Nghe
lời ngài, bà vú bảo:
-
Thôi xin Đại vương đi cho rồi,
chỉ trong vài ngày nữa thôi, già này sẽ đưa nàng đặt vào tayĐại vương!
Đại vương sẽ thấy già này đắc lực ra sao.
Nói
vậy xong, bà già quyết định hành động ngay; vừa đi đến gặp Pabhàvati, bà làm bộ
lau chùi phòng nàng thật sạch, không còn sót một chút bụi nào, rồi cởi đôi hài của nàng ra, bà quét dọn cả phòng nàng.
Sau đó, bà già đặt một chiếc ghế cao cho bà ở ngay bực cửa (để giữ kỹ phía ngoài cửa), rồi
trải nệm trên một chiếc ghế thấp cho nàng, bà bảo:
-
Này công chúa yêu ơi, để già bắt chấy trên đầu nàng nhé!
Bà đặt nàng ngồi đó, kê đầu vào lòng bà, xoa nhẹ
cho nàng một lát rồi bảo:
-
Ô kìa, ta bắt được nhiều chấy quá?
Bà
già bắt được vài con chấy trên đầu bà, đặt lên đầu công chúa, rồi nói
về bậc Đại Sĩ với lời lẽ yêu thương, bà ca ngợi ngài qua vần kệ này:
19.
Công nương này chẳng thấy lòng vui
Nhìn chúa Ku-sa chút nữa rồi,
Dù chẳng thiếu gì, ngài phục dịch
Kiếm tiền như nấu bếp tôi đòi.
Nhìn chúa Ku-sa chút nữa rồi,
Dù chẳng thiếu gì, ngài phục dịch
Kiếm tiền như nấu bếp tôi đòi.
Pabhàvatì
liền nổi giận với bà gù ngay. Thế là bà vú già nắm cổ nàng đẩy vào phòng, còn bàđứng phía ngoài đóng cửa lại, đứng sát vào sợi dây thừng kéo
cửa. Pabhàvatì không thể tới gần chụp bà vú được, phải đứng sát cửa và mắng nhiếc bà vú qua vần kệ khác:
20. Mụ
già nô lệ lưng gù vầy
Sao dám buông lời quái dị thay!
Xứng đáng được ta truyền cắt lưỡi
Bằng thanh kiếm ngọt nhất đời này!
Sao dám buông lời quái dị thay!
Xứng đáng được ta truyền cắt lưỡi
Bằng thanh kiếm ngọt nhất đời này!
Bà
già gù cứ đứng sát như vậy vào sợi
dây thừng buông thả xuống và bảo:
-
Này, nàng chỉ là người vô dụng, lại đối xử tàn tệ thế kia, chứ sắc đẹp của nàng có ích lợi cho ai chăng?
Nói
xong, bà già cao giọng nêu rõ mọi công đức của Bồ-tát, vừa thét to bằng giọng khàn khàn của một người
lưng gù qua mười ba vần kệ sau:
21.
Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy gắng làm cho ngài đẹp ý,
Vinh quang ngài vĩ đại cao vời!
22. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
Triều ngài hưng thịnh nhất trên đời.
23. Pab-hà hởi, chớ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
Quyền uy ngài vĩ đại trên đời.
24. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
Quyền ngài cai trị rộng khắp nơi.
25. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
Ngài là vị Đại đế hùng oai.
26. Pab-hà hỡi, chờ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Giọng của ngài như sư tử hống,
Hãy làm toại ý đẹp lòng ngài.
27. Pab-hà hỡi, chờ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
Giọng ngài trong trẻo vút ngân dài.
28. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
Giọng ngài trầm lắng tận lòng ai!
29. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy cố làm cho ngài đẹp ý
Giọng ngài êm dịu quá, nàng ôi!
30. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy cố làm cho ngài đẹp ý
Giọng ngài như mật rót vào tai!
31. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy gắng làm cho ngài mãn nguyện,
Vì ngài có cả một trăm tài.
32. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy gắng làm cho ngài mãn nguyện
Ngài, vua Sát-đế-lỵ anh tài!
33. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy gắng làm cho ngài đẹp ý,
Ku-sa Đại đế, chính là ngài!
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy gắng làm cho ngài đẹp ý,
Vinh quang ngài vĩ đại cao vời!
22. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
Triều ngài hưng thịnh nhất trên đời.
23. Pab-hà hởi, chớ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
Quyền uy ngài vĩ đại trên đời.
24. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
Quyền ngài cai trị rộng khắp nơi.
25. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
Ngài là vị Đại đế hùng oai.
26. Pab-hà hỡi, chờ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Giọng của ngài như sư tử hống,
Hãy làm toại ý đẹp lòng ngài.
27. Pab-hà hỡi, chờ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
Giọng ngài trong trẻo vút ngân dài.
28. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy cố làm cho ngài đẹp ý,
Giọng ngài trầm lắng tận lòng ai!
29. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy cố làm cho ngài đẹp ý
Giọng ngài êm dịu quá, nàng ôi!
30. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy cố làm cho ngài đẹp ý
Giọng ngài như mật rót vào tai!
31. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy gắng làm cho ngài mãn nguyện,
Vì ngài có cả một trăm tài.
32. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy gắng làm cho ngài mãn nguyện
Ngài, vua Sát-đế-lỵ anh tài!
33. Pab-hà hỡi, chớ quý yêu người
Vì dáng bề ngoài, hảo tướng thôi.
Hãy gắng làm cho ngài đẹp ý,
Ku-sa Đại đế, chính là ngài!
Nghe
bà vú nói vậy, Pabhàvatì đe dọa:
-
Này mụ già gù lưng ơi, sao mụ la to thế kia? Nếu ta chụp được mụ thì ta sẽ cho mụ biết tay ta là chủ đấy nhé.
Bà
vú đáp:
-
Lâu nay già vị tình nàng nên đã không tâu trình phụ
vương về việc vua Kusa đến đây. Được rồi, hôm
nay già sẽ đi trình đức vua cha.
Bà
ta cũng cất cao giọng để hăm he nàng. Vì sợ có
người nghe lọt chuyện này, nên nàng đành hoà dịu với bà già gù lưng ấy.
Thế
là Bồ-tát không còn cách nào nhìn thấy nàng được nữa; sau bảy tháng ròng rã, ngài đâm chán ngán cảnh giường thô cơm hẩm, ngài suy
nghĩ: "Ta cần gì nàng nữa chứ? Sau bảy tháng ởđây, ta chẳng còn cách nào được giáp mặt nàng, nàng thật quá nhẫn tâm tàn
ác. Thôi ta quyếtđi về thăm song thân ta mà thôi".
Vào
lúc ấy Sakka Thiên chủ xem xét vấn đề này và nhận thấy vua Kusa đã bất mãn đến độ nào rồi, nên ngài
suy nghĩ: "Sau bảy tháng vua Kusa không còn biết làm sao gặp mặt
Pabhàvatì, ta cố tìm cách gì để giúp ngài thấy được nàng".
Sau đó, Sakka Thiên chủ sai các Thiên sứ đi yết kiến bảy vị quốc vương khác làm như thể
vừa từ kinh đô vua xứ Madda đến và
tâu:
-
Nàng Pabhàvatì đã rời bỏ vua Kusa và
trở về nhà phụ vương nàng. Vậy xin Đại vương hãyđến cầu hôn nàng gấp.
Cứ
mỗi quốc vương, Thiên chủ đều gửi riêng một thông điệp như vậy.
Mỗi
vị vua kia đều đi đến kinh thành
cùng một đoàn tùy tùng đông đảo, và đều không biết lý do đến đây của các vua khác. Các vị liền hỏi
nhau:
-
Tại sao Đại vương đến đây?
Và
khi khám phá được các sự việc đang
diễn tiến ra sao, các vua ấy đều nổi giận và bảo:
-
Quốc vương này có ý muốn gả một nàng công chúa cho cả bảy chúng ta ư? Hãy nhìn
xem lãođối xử tồi tệ mức nào. Lão nhạo báng chúng ta khi bảo: "Hãy cưới
nàng làm vương hậu’’. Vậy lão phải gả Pabhàvatì cho cả bảy chúng ta hoặc là
phải chiến đấu với chúng ta mà
thôi.
Các
vua ấy liền gửi thông điệp cho vua Madda về
việc này và bao vây kinh thành.
Khi
nghe thông điệp, vua Madda lo ngại
và hỏi ý kiến quần thần:
-
Ta phải làm sao đây?
Quần
thần đáp:
-
Tâu Chúa thượng, bảy vua này đến đây tìm công chúa
Pabhàvatì. Nếu Chúa thượng từ khước việc gả nàng, các vị ấy sẽ phá thành xông
vào kinh đô, rồi sau khi tiêu
diệt chúng ta xong, họ sẽ chiếm vương quốc của Chúa thượng. Vậy, trong khi
thành chưa bị phá vỡ, ta hãy trao công chúa Pabhàvatì cho họ.
Rồi
quần thần ngâm kệ này:
34. Như
thể bầy voi trận vẻ vang
Dàn binh sừng sững, giáp bào mang,
Trước khi chúng dẫm tan thành lũy,
Xin chúa mau mau gửi cống nàng!
Dàn binh sừng sững, giáp bào mang,
Trước khi chúng dẫm tan thành lũy,
Xin chúa mau mau gửi cống nàng!
Vua
nghe vậy liền phán:
-
Ví thử trẫm trao Pabhàvatì cho bất cứ một vua nào, thì đám vua kia sẽ giao chiến với trẫm. Vậy không
thể nào gả nàng cho bất cứ một ai cả. Sau khi bỏ rơi vị chúa tể tối cao của
toàn cõi Diêm-phù-đề, nàng phải lãnh lấy phần thưởng do việc nàng trở về nhà.
Trẫm sẽ giết nàng và phân thây làm bảy mảnh để tặng cho bảy vị vua này mỗi người một phần.
Nói
xong vua ngâm kệ khác:
35.
Chặt Pa-bhà bảy khúc cho cân,
Ấy chính lời nguyền của trẫm ban
Cho bảy vua kia, người một mảnh,
Những người đến giết phụ vương nàng!
Ấy chính lời nguyền của trẫm ban
Cho bảy vua kia, người một mảnh,
Những người đến giết phụ vương nàng!
Lời
nói này của vua được truyền vang khắp
cung điện. Các tỳ nữ của Pabhàvatì đến bảo nàng:
-
Người ta đồn rằng Chúa thượng sẽ
truyền chặt công chúa ra bảy mảnh rồi gửi cho bảy vị vua ấy?
Nàng
kinh hồn bạt vía, vùng đứng lên từ chỗ ngồi,
rồi được các cô em gái hộ tống đến cung thất của mẫu
hậu.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ để giải thích vấn đề:
36.
Diễm lệ, dù da nhuốm sắc đen,
Bà hoàng vụt cất bước chân lên
Trước đoàn thị nữ theo hầu cận
Mình khoác lụa tơ, tiếng khóc rền.
Bà hoàng vụt cất bước chân lên
Trước đoàn thị nữ theo hầu cận
Mình khoác lụa tơ, tiếng khóc rền.
*
Nàng
bước vào yết kiến mẫu hậu, đảnh lễ bà xong liền cất
lời than vãn:
37. Mặt
phấn điểm trang, này soi gương sáng
Khéo gắn khung ngà, quyến rũ, giờ đây
Bao nét trắng trong biểu lộ thơ ngây
Sắp bị các vua quăng nằm rừng vắng.
38. Làn tóc đen huyền cuộn tròn duyên dáng
Thật dịu mềm, ngào ngạt tỏa chiên-đàn,
Kền kền tìm, dù che kín rừng hoang
Dùng móng vuốt xé tan, tung theo gió.
39. Đôi tay, đầu ngón sơn màu đồng đỏ,
Tẩm trầm hương sực nức mịn lông măng,
Chặt vứt rừng hoang bởi chúa kiêu căng,
Loài sói chụp tha về hang dấu kín.
40. Đầu vú tròn như chà là muồi chín,
Ngàt đàn hương người đốn ở Kà-si,
Sơn cẩu đến gần, chắc sẽ kéo đi,
Như đứa trẻ ôm ghì bầu sữa mẹ.
41. Đôi mông đầy, dáng căng tròn, mạnh khỏe,
Quấn quanh vòng đai rực rỡ vàng ròng,
Chặt vứt rừng hoang bởi chúa kiêu hùng,
Loài sói chụp tha về nơi muốn dấu.
42. Mãnh thú săn mồi: sài lang, sơn cẩu,
Hễ một khi chúng ăn thịt Pa-bhà,
Không thể nào còn phải chịu chết già.
43. Nếu các võ vương đến tử viễn xứ,
Chặt tấm thân này của nàng thục nữ ,
Xin lấy xương con, đốt với lửa nồng,
Ở một nơi nào xa lánh bụi hồng.
44. Rồi mẹ lập một vườn hoa gần đó,
Mẹ trồng khóm Ka-ni-kà-ra nhỏ,
Khi đông tàn, cây ấy sẽ đơm hoa,
Và mẹ ôi, khi mẹ nhớ con thơ,
Mẹ hãy chỉ vào hoa mà kể lể:
"Ái nữ Pa-bhà ngày xưa là thế..."
Khéo gắn khung ngà, quyến rũ, giờ đây
Bao nét trắng trong biểu lộ thơ ngây
Sắp bị các vua quăng nằm rừng vắng.
38. Làn tóc đen huyền cuộn tròn duyên dáng
Thật dịu mềm, ngào ngạt tỏa chiên-đàn,
Kền kền tìm, dù che kín rừng hoang
Dùng móng vuốt xé tan, tung theo gió.
39. Đôi tay, đầu ngón sơn màu đồng đỏ,
Tẩm trầm hương sực nức mịn lông măng,
Chặt vứt rừng hoang bởi chúa kiêu căng,
Loài sói chụp tha về hang dấu kín.
40. Đầu vú tròn như chà là muồi chín,
Ngàt đàn hương người đốn ở Kà-si,
Sơn cẩu đến gần, chắc sẽ kéo đi,
Như đứa trẻ ôm ghì bầu sữa mẹ.
41. Đôi mông đầy, dáng căng tròn, mạnh khỏe,
Quấn quanh vòng đai rực rỡ vàng ròng,
Chặt vứt rừng hoang bởi chúa kiêu hùng,
Loài sói chụp tha về nơi muốn dấu.
42. Mãnh thú săn mồi: sài lang, sơn cẩu,
Hễ một khi chúng ăn thịt Pa-bhà,
Không thể nào còn phải chịu chết già.
43. Nếu các võ vương đến tử viễn xứ,
Chặt tấm thân này của nàng thục nữ ,
Xin lấy xương con, đốt với lửa nồng,
Ở một nơi nào xa lánh bụi hồng.
44. Rồi mẹ lập một vườn hoa gần đó,
Mẹ trồng khóm Ka-ni-kà-ra nhỏ,
Khi đông tàn, cây ấy sẽ đơm hoa,
Và mẹ ôi, khi mẹ nhớ con thơ,
Mẹ hãy chỉ vào hoa mà kể lể:
"Ái nữ Pa-bhà ngày xưa là thế..."
Như
vậy, nàng quá kinh hoàng vì sợ chết nên cứ than khóc nỉ non với mẹ nàng. Còn
vua Madda ra lệnh cho đao phủ đến, đem theo
cái rìu và tấm thớt. Việc đao phủ sắp đến được đồn
vang động khắp hoàng cung, mẫu hậu nghe tin lão đến, liền vùng dậy khỏi chiếc bảo tọa của bà, và đi vào yết kiến vua, lòng tràn ngập đau buồn.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:
45. Khi
nhìn tấm thớt với gươm trần
Đã đặt trong vòng tử tội nhân,
Mẫu hậu như Thiên thần đứng dậy,
Vội đi tìm gặp đấng vương quân.
Đã đặt trong vòng tử tội nhân,
Mẫu hậu như Thiên thần đứng dậy,
Vội đi tìm gặp đấng vương quân.
*
Rồi
mẫu hậu ngâm kệ sau:
46. Với
gươm này, chúa tể Mạch-đa
Sẽ giết nàng công chúa nõn nà,
Rồi gửi tấm thân nàng, mỗi mảnh
Mỗi vua cừu địch để làm quà.
Sẽ giết nàng công chúa nõn nà,
Rồi gửi tấm thân nàng, mỗi mảnh
Mỗi vua cừu địch để làm quà.
Vua
cố trấn an bà và phán:
-
Này ái hậu nói gì thế này? Công chúa của ái hậu đã từ bỏ vị Đại đế của toàn cõi Diêm-phù-đề chỉ vì duyên cớ vua ấy xấu xí, và
cam phận chịu chết nên vội trở về nhà trước khi dấu chân nàng được xóa sạch trên con đường nàng đã đi qua. Vậy thì nay nàng
phải gặt hái lấy hậu quả của lòng ganh tị do sắc đẹp của nàng gây ra đó thôi.
Sau
khi nghe vua nói, mẫu hậu đến gặp con gái và than
thở như vầy:
47. Con
chẳng nghe lời nói của ta
Đã khuyên con phận đẹp duyên ưa,
Nay thân con phải vương màu máu,
Con sẽ chìm vào cõi Dạ-ma.
48. Số phận kia ta phải gánh mang
Hoặc chung cùng gặp lắm bi thương,
Vì làm ngơ trước lời khuyên tốt,
Bỏ các lời răn của bạn vàng.
49. Ví thử hôm nay con sánh vai
Cùng hoàng tử dũng cảm anh tài,
Đại vương trang điểm toàn vàng ngọc,
Sinh trưởng Ku-sa xứ sở ngài,
Thì hẳn bạn bè không hộ tống
Con đành mau bước xuống tuyền đài.
50. Khi trống đánh, vương tượng thét vang,
Trong cung đình, giữa chốn trần gian,
Còn nơi nào nữa ta tìm thấy
Hạnh phúc cao hơn được hởi nàng?
51. Khi bầy ngựa hí, các ca nhân
Rền rĩ điệu buồn với chúa công,
Lạc thú như vầy trong bảo điện
Còn gì đâu để sánh ngang bằng?
52. Khi tiếng sơn ca hòa tiếng công
Cò kêu, hạc sếu gọi lừng vang,
Như vầy cực lạc sao tìm được
Nơi khác hay chăng, mẹ hỏi nàng?
Đã khuyên con phận đẹp duyên ưa,
Nay thân con phải vương màu máu,
Con sẽ chìm vào cõi Dạ-ma.
48. Số phận kia ta phải gánh mang
Hoặc chung cùng gặp lắm bi thương,
Vì làm ngơ trước lời khuyên tốt,
Bỏ các lời răn của bạn vàng.
49. Ví thử hôm nay con sánh vai
Cùng hoàng tử dũng cảm anh tài,
Đại vương trang điểm toàn vàng ngọc,
Sinh trưởng Ku-sa xứ sở ngài,
Thì hẳn bạn bè không hộ tống
Con đành mau bước xuống tuyền đài.
50. Khi trống đánh, vương tượng thét vang,
Trong cung đình, giữa chốn trần gian,
Còn nơi nào nữa ta tìm thấy
Hạnh phúc cao hơn được hởi nàng?
51. Khi bầy ngựa hí, các ca nhân
Rền rĩ điệu buồn với chúa công,
Lạc thú như vầy trong bảo điện
Còn gì đâu để sánh ngang bằng?
52. Khi tiếng sơn ca hòa tiếng công
Cò kêu, hạc sếu gọi lừng vang,
Như vầy cực lạc sao tìm được
Nơi khác hay chăng, mẹ hỏi nàng?
Sau
khi trò chuyện với nàng như vậy qua các vần kệ này, mẫu hậu suy nghĩ: "Giá
bây giờ có vua Kusa ở đây, thì ngài sẽ đuổi bảy vua kia cao chạy xa bay và sau khi giải
thoát con gái ta khỏi chịu khổ hình, lại sẽ đem nàng đi về nước". Rồi bà
ngâm kệ:
53. Nay
ở đâu người dẫm nát tan
Nước thù và chiến thắng cừu nhân?
Ku-sa cao thượng đầy mưu trí
Sẽ cứu nhà ta khỏi đoạn trường!
Nước thù và chiến thắng cừu nhân?
Ku-sa cao thượng đầy mưu trí
Sẽ cứu nhà ta khỏi đoạn trường!
Lúc
ấy Pabhàvatì suy nghĩ: "Mẫu hậu không đủ lời lẽ để tán dương vua Kusa. Ta sẽ cho mẹ ta biết ngài đang ở đây làm hết mọi việc của một kẻ đầu bếp", và nàng ngâm kệ này:
54. Bậc
chiến thắng tiêu diệt kẻ thù,
Kìa trông! Ngài đã đến bây giờ!
Ku-sa cao thượng đầy mưu trí
Sẽ giết cừu nhân cứu liễu bồ!
Kìa trông! Ngài đã đến bây giờ!
Ku-sa cao thượng đầy mưu trí
Sẽ giết cừu nhân cứu liễu bồ!
Mẫu
hậu liền suy nghĩ: "Chắc con ta quá kinh hoàng vì sợ chết nên nói lảm nhảm đây’’, rồi bà ngâm kệ:
55.
Phải chăng con đã hóa điên rồ,
Như kẻ si cuồng nói vẩn vơ?
Ví thử Ku-sa đà trở lại,
Thì sao con chẳng nói cùng ta?
Như kẻ si cuồng nói vẩn vơ?
Ví thử Ku-sa đà trở lại,
Thì sao con chẳng nói cùng ta?
Nghe
nói lời này, Pabhàvatì suy nghĩ: "Mẹ ta không tin lời ta. Bà chẳng biết là
ngài đã trở về và đang sống tại đây từ bảy tháng nay. Ta muốn chỉ cho mẹ thấy việc
này". Thế là nàng vừa dắt tay mẹ vừa mở cửa sổ, dang tay chỉ về phía ngài
và ngâm kệ:
56. Mẹ
trông! Kẻ nấu bếp đằng kia
Đai quấn ngang lưng thật chỉnh tề,
Đang cúi rửa nồi niêu, bát dĩa,
Nơi bầy công chúa ngự phòng khuê.
Đai quấn ngang lưng thật chỉnh tề,
Đang cúi rửa nồi niêu, bát dĩa,
Nơi bầy công chúa ngự phòng khuê.
Chuyện
kể rằng lúc bấy giờ vua Kusa nghĩ thầm: "Hôm nay tâm nguyện của ta sẽ
thành tựu. Thực vậy Pabhàvatì đang kinh hoàng vì sợ
chết, nên sẽ báo tin ta đang ở đây. Vậy ta phải rửa bát dĩa và đem cất hết". Rồi ngài đi lấy nước về và bắt đầu rửa bát. Lúc ấy mẹ nàng mắng nhiếc nàng qua vần kệ:
57. Con
hạ tiện dòng dõi phải chăng?
Đường đường là một vị công nương
Hạ mình yêu lấy tên nô lệ
Điếm nhục Mạch-đa tận tủy xương!
Đường đường là một vị công nương
Hạ mình yêu lấy tên nô lệ
Điếm nhục Mạch-đa tận tủy xương!
Còn
Pabhàvatì suy nghĩ: "Chắc mẹ ta không biết rằng chỉ vì ta mà ngài đã sống khổ như thể này bấy lâu nay". Và
nàng ngâm kệ nữa:
58. Hạ
tiện, con đâu phải giống dòng!
Con thề chẳng điếm nhục hoàng tông,
May thay, ngài chẳng là nô lệ,
Ngài kế vị Ok-ka Đại vương.
Con thề chẳng điếm nhục hoàng tông,
May thay, ngài chẳng là nô lệ,
Ngài kế vị Ok-ka Đại vương.
Bấy
giờ nàng nói tiếp để tán tụng uy danh
ngài:
59. Hai
vạn Sa-môn vẫn cúng dường,
Chính là Thái tử Ok-kà vương,
Con thề, ngài chẳng là nô lệ,
Người mẹ thấy đang đứng dưới tường.
60. Ngài thắng cân đai hai vạn voi,
Con thề, ngài chẳng phải nô tài,
Ngài là vương tử Ok-kà đế,
Người mẹ thấy đang đứng đó rồi!
61. Ngài thắng cương hai vạn ngựa nòi,
Con thề, ngài chẳng phải tôi đòi,
Ok-kà vương tử là ngài đó,
Người mẹ thấy đang đứng giữa trời!
62. Ngài vẫn cầm cương hai vạn xe,
Ngài không nô lệ, đấy con thề,
Ngài là vương tử Ok-kà đế,
Người mẹ thấy đang đứng dưới kia.
63. Hoàng ngưu hai vạn, vẫn cầm cương,
Ngài chẳng là nô lệ, tiện dân,
Mà chính Ok-kà-ka Thái tử,
Là người mẹ thấy đứng bên đường.
64. Ngài lấy sữa tươi hai vạn bò,
Con thề, ngài chẳng phải gia nô,
Mà là Thái tử Ok-kà đế,
Người mẹ thấy đang đứng dưới nhà.
Chính là Thái tử Ok-kà vương,
Con thề, ngài chẳng là nô lệ,
Người mẹ thấy đang đứng dưới tường.
60. Ngài thắng cân đai hai vạn voi,
Con thề, ngài chẳng phải nô tài,
Ngài là vương tử Ok-kà đế,
Người mẹ thấy đang đứng đó rồi!
61. Ngài thắng cương hai vạn ngựa nòi,
Con thề, ngài chẳng phải tôi đòi,
Ok-kà vương tử là ngài đó,
Người mẹ thấy đang đứng giữa trời!
62. Ngài vẫn cầm cương hai vạn xe,
Ngài không nô lệ, đấy con thề,
Ngài là vương tử Ok-kà đế,
Người mẹ thấy đang đứng dưới kia.
63. Hoàng ngưu hai vạn, vẫn cầm cương,
Ngài chẳng là nô lệ, tiện dân,
Mà chính Ok-kà-ka Thái tử,
Là người mẹ thấy đứng bên đường.
64. Ngài lấy sữa tươi hai vạn bò,
Con thề, ngài chẳng phải gia nô,
Mà là Thái tử Ok-kà đế,
Người mẹ thấy đang đứng dưới nhà.
Như
thế là cảnh huy hoàng của bậc Đại Sĩ đã được nàng tán dương qua sáu vần kệ. Lúc ấy mẫu
hậu suy nghĩ: "Con ta nói một cách chắc chắn đầy tin tưởng. Hẳn là đúng vậy", nên bà tin lời nàng và đem kể cho vua nghe đầu đuôi câu chuyện. Vua vội
vã đến gặp Pabhàvatì và hỏi:
-
Có thật là vua Kusa đã đến đây như chuyện chúng đồn chăng?
-
Tâu phụ vương, quả đúng vậy. Đã bảy tháng
nay ngài làm hỏa đầu quân cho các công
chúa.
Vua
cha không tin lời nàng, liền chất vấn bà già lưng gù và khi nghe bà kể mọi việc
trong chuyện này, vua quở trách con gái qua vần kệ này:
65. Như
thể voi kia giả ểnh ương,
Đến đây Thái tử đại hùng cường,
Con sai lầm quá và khờ dại,
Dấu chuyện, song thân chẳng tỏ tường.
Đến đây Thái tử đại hùng cường,
Con sai lầm quá và khờ dại,
Dấu chuyện, song thân chẳng tỏ tường.
Vua đã quở trách công chúa như vậy xong, vội vã đi tìm vua Kusa và sau các lễ nghi chào hỏi
thông thường giữa hai vị, vua nhìn nhận sự xúc phạm của mình và ngâm kệ này:
66. Vì
trẫm không nhìn thấy được ngay
Đại vương giả dạng đến như vầy,
Toàn gia trẫm trót làm sai phạm,
Đành phận xin tha thứ lỗi này!
Đại vương giả dạng đến như vầy,
Toàn gia trẫm trót làm sai phạm,
Đành phận xin tha thứ lỗi này!
Nghe
lời này, bậc Đại Sĩ suy nghĩ:
"Nếu ta nói nặng lời với vua cha thì lòng ngài sẽ đau đớn nát tan ngay. Nên ta muốn nói lời an ủi
vỗ về ngài thôi"; rồi vừa đứng giữa đống bát dĩa,
ngài vừa ngâm kệ:
67. Hỏa đầu quân, muốn đóng tròn vai,
Mình chính đã làm việc trái sai,
Ví thử thân này, ngài chẳng biết,
Yên tâm, lỗi ấy chẳng do ngài!
Mình chính đã làm việc trái sai,
Ví thử thân này, ngài chẳng biết,
Yên tâm, lỗi ấy chẳng do ngài!
Sau
khi vua cha được nghe những lời ân
cần như vậy, liền trở về cung triệu Pabhàvatì đến, bảo nàng đi thỉnh cầu vua Kusa thứ lỗi, và ngài ngâm kệ:
68. Mau
lên, cô bé quá khù khờ
Cầu khẩn Đại vương thứ tội cho,
Mong ước ngài nguôi cơn thịnh nộ,
Vui lòng cứu lấy mạng đào tơ!
Cầu khẩn Đại vương thứ tội cho,
Mong ước ngài nguôi cơn thịnh nộ,
Vui lòng cứu lấy mạng đào tơ!
Nghe
lời vua cha dạy như vậy, nàng liền được cả đoàn công chúa và cung nữ hộ tống đi đến gặp ngài. Đúng ngay lúc ngài đang đứng trong bộ áo quần nô dịch, thấy nàng
tiến về phía mình, ngài nghĩ thầm: "Hôm nay ta quyết đánh tan lòng kiêu mạn của Pabhàvatì và khiến
nàng phải nằm mọp dưới chân ta trong đám bùn". Rồi ngài đổ xuống đất hết cả thùng nước mà ngàiđã đem đến đó, dẫm chân lên một khoảng rộng bằng
cái sàn nhà đập lúa, làm thành một đám bùn. Nàng vừa bước tới liền trượt té dưới
chân ngài, phải nằm phủ phục trong đám bùn mà xin ngài thứ tội.
*
Bậc Đạo sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề này:
69.
Pa-bhà trong dáng điệu Thiên thần
Vâng lệnh truyền kia của phụ vương,
Đầu cúi xuống, tay ôm chặt lấy
Đôi chân của chúa tể hùng cường.
Vâng lệnh truyền kia của phụ vương,
Đầu cúi xuống, tay ôm chặt lấy
Đôi chân của chúa tể hùng cường.
*
Rồi
nàng ngâm các vần kệ sau:
70.
Chuỗi ngày đêm thiếp sống xa ngài,
Hoàng thượng, giờ đây đã hết rồi,
Nhìn thiếp cúi hôn chân Chúa thượng,
Xin đừng thịnh nộ nữa, ngài ôi!
71. Thần thiếp giờ xin hứa với ngài,
Nếu ngài hạ cố để vào tai,
Chẳng bao giờ lại vì sao nữa
Thiếp dám làm sai phạm đến trời!
72. Song nếu lời xin bị khước từ,
Phụ vương liền giết mạng con thơ,
Gửi đi từng mảnh thân tan tác
Khắp các địch vương để tặng quà!
Hoàng thượng, giờ đây đã hết rồi,
Nhìn thiếp cúi hôn chân Chúa thượng,
Xin đừng thịnh nộ nữa, ngài ôi!
71. Thần thiếp giờ xin hứa với ngài,
Nếu ngài hạ cố để vào tai,
Chẳng bao giờ lại vì sao nữa
Thiếp dám làm sai phạm đến trời!
72. Song nếu lời xin bị khước từ,
Phụ vương liền giết mạng con thơ,
Gửi đi từng mảnh thân tan tác
Khắp các địch vương để tặng quà!
Nghe
vậy, vua nghĩ thầm: "Nếu ta bảo nàng: Việc này nàng phải tự lo liệu đấy chứ’, chắc tim nàng phải tan nát mất. Thôi
ta chỉ muốn nói lời lẽ an ủi nàng". Và ngài ngâm các vần kệ đáp lời:
73. Ta
nguyền vâng lệnh của nàng ban,
Đem hết tâm can để cứu nàng,
Ta chẳng thấy lòng hờn giận nữa,
Quang Huy ngọc nữ, chớ kinh hoàng!
74. Này nghe ta nói, hỡi công nương,
Ta cũng trao lời hứa thật chơn:
Ta sẽ không làm gì xúc phạm
Chẳng bao giờ nữa, với nàng thương!
75. Ta phải chịu bao nỗi muộn phiền
Vì yêu nàng quá, hỡi người tiên!
Ta nguyền giết hết bầy vua chúa,
Cùng với nàng, ta lại đẹp duyên!
Đem hết tâm can để cứu nàng,
Ta chẳng thấy lòng hờn giận nữa,
Quang Huy ngọc nữ, chớ kinh hoàng!
74. Này nghe ta nói, hỡi công nương,
Ta cũng trao lời hứa thật chơn:
Ta sẽ không làm gì xúc phạm
Chẳng bao giờ nữa, với nàng thương!
75. Ta phải chịu bao nỗi muộn phiền
Vì yêu nàng quá, hỡi người tiên!
Ta nguyền giết hết bầy vua chúa,
Cùng với nàng, ta lại đẹp duyên!
Vua
Kusa lúc ấy tràn đầy niềm tự hào của một
bậc đế vương khi thấy nàng như thể một thị nữ của
Sakka Thiên chủ đang hầu hạ ngài, ngài
nghĩ thầm: "Trong lúc ta còn sống đây, còn kẻ nào dám đến cướp mất tân giai nhân của ta được chứ?". Và ngài liền
vùng dậy giữa sân hoàng cung, bảo:
-
Toàn dân kinh thành này hãy nghe lệnh truyền báo hiệu ta ngự đến đây.
Rồi
ngài nhảy múa, reo hò, và vỗ tay kêu lớn:
-
Nay ta muốn bắt sống chúng, hãy bảo quân hầu đem bầy ngựa đến thắng vào các cỗ xe của ta.
Rồi
ngài ngâm vần kệ sau:
76. Đi mau, thắng tuấn mã nhu thuần
Vào các cỗ xe khéo điểm trang,
Rồi hãy nhìn ta anh dũng tiến
Đánh cho tan tác bọn cừu nhân.
Vào các cỗ xe khéo điểm trang,
Rồi hãy nhìn ta anh dũng tiến
Đánh cho tan tác bọn cừu nhân.
Bấy
giờ ngài từ giã Pabhàvatì và bảo:
-
Việc đi tội các quốc thù của nàng là trách nhiệm của
ta. Còn ái khanh hãy đi tắm rửa, điểm trang
rồi lên cung của mình mà nghỉ.
Phần
vua Madda gửi các quan cố vấn đến làm vệ sĩ danh dự
cho ngài.
Quân
thị vệ buông màn quanh ngài ngay tại cửa bếp và đem bọn thợ hớt tóc đến chăm sóc ngài. Khí râu
mép của tóc ngài đã được tô điểm, và gội đầu xong xuôi, ngài được phục sức đầy đủ mọi vẻ lộng lẫy cùng với đám tùy tùng vây quanh, ngài bảo:
-
Ta muốn bước lên cung điện.
Vừa
nhìn quanh tứ phương, ngài vỗ tay, hễ ngài nhìn tới nơi nào là mặt đất nơi ấy rung chuyển, và ngài thét lớn:
-
Này hãy xem uy lực của ta vĩ đại biết dường nào!
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề này:
77.
Công nương nội điện chúa Mad-da,
Chiêm ngưỡng ngài đang đứng phía xa
Chẳng khác mãnh sư chồm đứng dậy,
Đôi tay đấm giữa khoảng bao la.
Chiêm ngưỡng ngài đang đứng phía xa
Chẳng khác mãnh sư chồm đứng dậy,
Đôi tay đấm giữa khoảng bao la.
*
Sau đó vua Madda đưa đến cho ngài một con voi đã được luyện thuần thục có thể giữ vững bình thản khi bị tấn công,
và voi ấy được trang hoàng thật
rực rỡ. Vua Kusa ngự lên lưng voi với chiếc lọng trắng che đầu ngài, và ra lệnh đem Pabhàvatì đến đó, đặt nàng lên ngồi sau lưng ngài xong, ngài rời kính thành
bằng Đông môn, được cả đoàn đầy đủ bốn đạo quân hộ tống, và ngay khi thấy
các lực lượng của quân thù, ngài thét lớn:
-
Ta là vua Kusa, kẻ nào khôn hồn muốn sống hãy nằm móp xuống sát đất?
Rồi
ngài rống lên ba lần tiếng hống sư tử và hoàn toàn đánh bại đám địch quân.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ giải thích vấn đề này:
78. Ngự
mình voi, bà hoàng ngồi sau chúa,
Vua Ku-sa lâm trận, giọng vang rền,
79. Muôn loài nghe sư tử rống gầm lên,
Địch vương thảy bàng hoàng, vùng tán loạn.
80. Vệ sĩ, bộ binh, pháo, xa, mã, tượng
Nghe tiếng Ku-sa, rủ liệt hãi hùng,
Chúng rã rời và tháo chạy đường cùng.
81. Đế Thích ngắm chiến trường, lòng hoan hỷ
Tặng hoàng đế Ku-sa viên ngọc quí
Ve-ro-can là mỹ hiệu bảo trân.
82. Chiến thắng rồi, vua nhận lấy ngọc thần,
Ngất nghểu ngự mình voi, về thị trấn
Của Mạch-đa, các địch vương bắt sống
83. Bị gông xiềng, đem đến trước phụ vương:
-- "Xin Chúa công hãy ngắm các cừu nhân
Nay nằm đó, tùy nghi quyền sinh sát,
84. Chúng chiến bại đầy đắng cay chua chát,
Nay Chúa công tàn sát cứ thỏa lòng,
Hay thả ra lần nữa hưởng hồng ân".
Vua Ku-sa lâm trận, giọng vang rền,
79. Muôn loài nghe sư tử rống gầm lên,
Địch vương thảy bàng hoàng, vùng tán loạn.
80. Vệ sĩ, bộ binh, pháo, xa, mã, tượng
Nghe tiếng Ku-sa, rủ liệt hãi hùng,
Chúng rã rời và tháo chạy đường cùng.
81. Đế Thích ngắm chiến trường, lòng hoan hỷ
Tặng hoàng đế Ku-sa viên ngọc quí
Ve-ro-can là mỹ hiệu bảo trân.
82. Chiến thắng rồi, vua nhận lấy ngọc thần,
Ngất nghểu ngự mình voi, về thị trấn
Của Mạch-đa, các địch vương bắt sống
83. Bị gông xiềng, đem đến trước phụ vương:
-- "Xin Chúa công hãy ngắm các cừu nhân
Nay nằm đó, tùy nghi quyền sinh sát,
84. Chúng chiến bại đầy đắng cay chua chát,
Nay Chúa công tàn sát cứ thỏa lòng,
Hay thả ra lần nữa hưởng hồng ân".
*
Quốc
vương đáp:
85. Các địch vương này thuộc về Thiên
tử,
Nào phải quyền ta; tùy ngài xử sự,
Chỉ ngài là Chúa tể của thần dân,
Xin giết đi hoặc thả chúng thoát thân
Nào phải quyền ta; tùy ngài xử sự,
Chỉ ngài là Chúa tể của thần dân,
Xin giết đi hoặc thả chúng thoát thân
Khi
nghe nói vậy, bậc Đại Sĩ nghĩ thầm:
"Ta còn làm gì được với đám người này
một khi chúng chết cả rồi? Không nên để cho chúng mất công đến đây mà chẳng được kết quả gì. Pabhàvatì còn có bảy cô em gái đều là công chúa của vua Madda, ta muốn cho
chúng kết duyên với bảy vương tử này". Rồi ngài ngâm kệ:
86. Bảy
nàng công chúa tựa tiên nga
Tuyệt thế giai nhân đẹp mắt ta,
Gả các nàng cho vua bảy nước
Để làm phò mã của vương gia.
Tuyệt thế giai nhân đẹp mắt ta,
Gả các nàng cho vua bảy nước
Để làm phò mã của vương gia.
Quốc
vương đáp:
87. Ngự
ngôi tối thượng, trước toàn dân,
Quyết định ngài nay phải vẹn tròn,
Xin gả công nương theo thánh ý,
Ngài là Chúa tể của quần thần.
Quyết định ngài nay phải vẹn tròn,
Xin gả công nương theo thánh ý,
Ngài là Chúa tể của quần thần.
Thế
rồi quốc vương truyền lệnh trang điểm các công chúa thật đẹp và cử hành lễ vu qui cho mỗi nàng được kết duyên với một vua kia.
*
Bậc Đạo Sư ngâm năm vần kệ đề làm sáng tỏ vấn đề:
88. Ku-sa
sư tử hống vang rền
Đem Mạch-đa công chúa kết duyên
Cả bảy nàng ban phần bảy vị,
Anh hùng sánh với gái thuyền quyên.
89. Hoan hỷ đón bao nỗi ước mơ
Từ bàn tay Chúa tể Ku-sa,
Bảy vương tử nọ liền hồi giá
Trở lại triều vua mỗi nước nhà.
90. Cầm lấy bảo châu tỏa sáng bừng,
Xa giá Ku-sa trở lại cung
Rước về ngọc nữ Pa-bhà ấy,
Hoàng đế Ku-sa, bậc đại hùng.
91. Cùng ngự vào trong một bảo xa,
Sánh đôi vương giả trở về nhà,
Chẳng ai sáng chói hơn người khác,
Vì cả hai đồng đẹp tuyệt mà!
92. Mẹ hiền ra đón rước hoàng nhi,
Từ đó quân vương với ái thê
Hạnh phúc lứa đôi cùng tận hưởng,
Nước nhà hưng thinh, lạc tràn trề.
Đem Mạch-đa công chúa kết duyên
Cả bảy nàng ban phần bảy vị,
Anh hùng sánh với gái thuyền quyên.
89. Hoan hỷ đón bao nỗi ước mơ
Từ bàn tay Chúa tể Ku-sa,
Bảy vương tử nọ liền hồi giá
Trở lại triều vua mỗi nước nhà.
90. Cầm lấy bảo châu tỏa sáng bừng,
Xa giá Ku-sa trở lại cung
Rước về ngọc nữ Pa-bhà ấy,
Hoàng đế Ku-sa, bậc đại hùng.
91. Cùng ngự vào trong một bảo xa,
Sánh đôi vương giả trở về nhà,
Chẳng ai sáng chói hơn người khác,
Vì cả hai đồng đẹp tuyệt mà!
92. Mẹ hiền ra đón rước hoàng nhi,
Từ đó quân vương với ái thê
Hạnh phúc lứa đôi cùng tận hưởng,
Nước nhà hưng thinh, lạc tràn trề.
*
Khi bậc Đạo Sư chấm dứt Pháp thoại này,
Ngài thuyết giảng các Thánh đế và nhận diện Tiền thân: - Vào lúc kết thúc các
Thánh đế, vị Tỷ-kheo thối thất đã chứng Sơ quả Dự Lưu:
- Thời
bấy giờ phụ vương và mẫu hậu là song thân trong hoàng gia ngày nay, vương đệ là Ànanda, bà nhũ mẫu gù
lưng là Khujjutarà, nàng Pabhàvatì là thân mẫu của Ràhula, và Đại đế Kusa chính là Ta.
-ooOoo-
532.
Chuyện hai hiền giả Sona - Nanda (Tiền thân Sona - Nanda)
Nhạc
thần, Thiên tử, phải ngài chăng?...,
Chuyện
này do bậc Đạo Sư kể trong lúc đang trú tại Kỳ Viên, về một Tỷ-kheo
phụng dưỡng mẹ mình.
Hoàn
cảnh đưa đến chuyện này cũng tương tự như trong Tiền thân Sàma (số
540, tập VII). Nhưng vào dịp này, bậc Đạo Sư bảo:
- Này
các Tỷ-kheo, chớ xúc phạm Tỷ-kheo này. Các bậc hiền trí đời xưa, dù được thỉnh cầu thống trị toàn
cõi (Diêm-phù-đề), cũng đã từ chối việc ấy và phụng dưỡng song thân.
Nói vậy
xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Một
thuở nọ, thành Ba-la-nại được mệnh danh là
Brahmavadhana. Thời ấy, vua Manoja trị vì ởđó, và một Bà-la-môn kia có thế lực
và giàu sang, với tài sản lên đến tám trăm triệu đồng,
nhưng không có con thừa kế. Bà vợ Bà-la-môn ấy vâng lời chồng đi cầu tự.
Lúc
ấy Bồ-tát từ giã Phạm thiên giới và nhập mẫu thai bà; vào ngày sinh, ngài được gọi tên Sona nam tử. Vào thời ấu nhi đã biết chạy một mình, một vị Thiên khác từ giã
Phạm thiên giới và cũng nhập mẫu thai bà. Lúc ra đời, vị ấy được gọi là Nanda nam tử.
Ngay
khi hai nam tử đã được dạy đủ các Thánh điển Vệ đà và thông thạo
mọi môn học thuật, vị Bà-la-môn nhìn thấy hai con trai mình đầy đủ hảo tướng biết bao, liền bảo vợ:
-
Này phu nhân, chúng ta cần sắp đặt việc hôn nhân cho
nam tử Sona.
Bà
vợ chấp thuận ngay và thông báo việc này cho con trai. Chàng đáp:
-
Con sống đời gia đình thế này là
vừa đủ rồi. Bao lâu cha mẹ còn sống, con muốn phụng
dưỡng cha mẹ; đến khi cha mẹ qua đời,
con muốn lui về vùng Tuyết Sơn và thành người tu khổ hạnh.
Bà
mẹ kể chuyện này với vị Bà-la-môn và khi họ nhắc đi nhắc lại nhiều lần nhưng không thuyết phục
được con, liền bảo Nanda:
-
Này con yêu, con hãy yên bề gia thất.
Chàng đáp:
-
Con không muốn lượm những vật mà anh con đã vứt bỏ như thể một cục đờm. Con cũng nguyện khi cha mẹ từ trần, con cùng anh con gia nhập
hội chúng khổ hạnh.
Song
thân suy nghĩ: "Nếu các con ta, dù còn thanh xuân, đã từ bỏ mọi dục lạc thân xác thì chúng ta lại
càng phải sống đời khổ hạnh". Và
hai vị bảo:
-
Này con yêu, sao lại nói chuyện làm người tu khổ hạnh sau khi cha mẹ qua đời? Cả nhà tađều muốn cùng phát nguyện xuất
gia.
Khi
trình vua về mục đích của mình, họ quyết định phân phát tất cả tài sản theo cách bố thí,
giải phóng các gia nhân nô tỳ và đem tặng những tài sản xứng đáng thích hợp với đám thân quyến, rồi sau đó cả bốn vị khởi hành
từ kinh thành Brahmavadhana đến lập thảo am trong
vùng Tuyết Sơn ở một khu rừng đầy an lạc, cạnh một hồ
nước được phủ năm loại sen, các vị sống đời khổ hạnh.
Hai
anh em đồng săn sóc cha mẹ. Từ
sáng sớm, hai vị đưa tăm xỉa răng và nước súc miệng cho song thân. Hai vị lại
quét dọn cả am thất, đem nước uống, dâu rừng
ngọt ngào để cha mẹ ăn, nước nóng,
nước lạnh để tắm, kết tóc cha mẹ thành từng búi, xoa dầu thơm vào chân cùng
phục dịch mọi việc tương tự.
Thời
gian cứ trôi qua như thế, hiền giả Nanda suy nghĩ: "Ta sẽ dâng đầy đủ mọi loại trái cây làm thức ăn cho cha mẹ". Thế là bất cứ loại trái cây
nào hái được tại chỗ ấy ngày hôm
trước và hôm trước đó nữa vị ấy đều đem
dâng cha mẹ sáng sớm hôm sau. Hai vị dùng trái cây xong liền súc miệng và giữ
giới kiêng ăn.
Còn
hiền giả Sona đi thật xa để hái trái
chín ngọt về dâng cha mẹ. Hai vị liền bảo:
-
Này con yêu, chúng ta đã ăn từ sáng các thứ em con mang về và bây giờ
chúng ta đang kiêngăn nên không
cần thứ trái cây này nữa.
Vì
thế các thứ trái cây của ngài không được dùng và phải bỏ phí cả. Ngày hôm sau và sau đó nữa cũng vậy.
Và
thế là do chứng đắc Năm Thắng trí, ngài đã du hành thật xa để đem trái cây về, nhưng song thân từ chối phần
ấy. Sau đó bậc Đại Sĩ suy nghĩ: "Cha mẹ ta giờ đây rất yếu ớt, và Nanda
lạiđem về toàn trái cây chưa chín hoặc mới chín cho cha mẹ ăn. Nếu thế này mãi, cha mẹ sẽ không sống lâu.
Ta quyết ngăn cản em ta làm việc này". Vì vậy ngài bảo em:
-
Này Nanda, từ nay về sau, khi em đem trái cây, em phải đợi đến lúc ta về, và hai chúng tađều muốn
dâng cha mẹ các thức ăn cùng một lần.
Mặc
dù đã được bảo vậy, Nanda vẫn muốn làm công đức riêng một mình, nên không quan tâm lời anh
dặn. Bậc Đại Sĩ suy nghĩ:
"Nanda hành động không đúng khi bất
tuân lời ta. Ta muốn đuổi nó đi xa".
Rồi
nghĩ rằng tự ngài muốn chăm sóc cha mẹ, ngài bảo:
-
Này Nanda, em đã bỏ qua lời răn dạy và
không lưu tâm đến lời nói của bậc trí.
Ta là huynh trưởng. Cha mẹ thuộc về trách nhiệm của ta. Ta muốn chỉ mình ta săn
sóc cha mẹ. Em không thể ở đây được nữa. Hãy đi nơi khác.
Rồi
ngài búng các ngón tay vào mặt em. Sau khi bị đuổi như vậy, Nanda không thể nào ở lại trước
mặt anh nữa, liền đến từ giã cha mẹ và
thưa hết mọi việc xảy ra.
Sau đó lui về an thất riêng, ông chú tâm Thiền định và ngay hôm ấy, ông phát khởi Năm Thắng trí
và Tám Thiền chứng. Ông suy nghĩ: "Ta có thể đi tìm loại cát quý từ chân núi Sineru (Tu-di)
về rải khắp thảo am của anh ta và xin anh ta thứ lỗi; và nếu anh ta chưa hồi
tâm, ta sẽ đi tìm nước hồ Anottata
về xin anh ta thứ lỗi; và nếu anh ta cũng chưa hồi tâm bằng cách ấy, giả sử vì
chư Thiên, anh ta không tha thứ cho ta, thì ta sẽ đem Tứ Thiên vương và Thiên chủ Sakka ra xin anh
ta thứ lỗi; và nếu anh ta cũng chưa hồi tâm, ta sẽ mang vị đại đế Manoja của toàn cõi Diêm-phù-đề, cùng các
vương hầu khác ra xin anh ta thứ lỗi. Làm như vậy, danh tiếng về đức hạnh của anh ta sẽ vang dậy cả khắp
Diêm-phù-đề, và sẽ sáng ngời mọi nơi như đôi vầng nhật nguyệt".
Lúc
bấy giờ, nhờ thần lực, ông bay xuống kinh thành Brahmavaddhana đến trước cung môn của vua và dâng sớ lên tâu
vua:
-
Có một vị khổ hạnh muốn yết kiến Đại vương.
Vua
phán:
-
Một vị khổ hạnh muốn gặp ta làm gì chứ? Chắc vị ấy đến khất thực.
Vua
truyền bảo đem cơm cho ông, nhưng
ông không dùng chút nào. Rồi vua bảo cho gạo, y phục và các loại củ khoai, môn,
nhưng ông cũng không muốn gì cả. Cuối cùng vua gửi một sứ giả đi hỏi tại sao ông đến, ông đáp sứ giả:
-
Bần đạo đến để hầu hạ đức vua.
Khi
nghe vậy, vua gửi lời nhắn lại:
-
Ta thiếu gì nô tỳ, bảo vị ấy hãy làm phận sự của một ẩn sĩ khổ hạnh.
Nghe
vầy, ông nói:
-
Nhờ thần lực riêng, bần đạo sẽ được quyền thống
trị toàn cõi Diêm-phù-đề, và xin dâng tất cả lên Đại vương của các vị.
Vua
nghe vậy liền suy nghĩ: "Quả thật các vị khổ hạnh rất thông thái. Chắc
chắn các vị ấy biếtđược vài mưu thần".
Sau đó vua triệu ông vào yết kiến, mời ông ngồi lên
bảo tọa, kính lễ và hỏi:
-
Thưa Thánh giả, chúng tâu với trẫm rằng ngài sẽ được quyền thống trị toàn cõi Diêm-phủ-đề và
muốn ban quyền ấy cho trẫm phải chăng?
-
Tâu Đại vương, quả vậy.
-
Làm thế nào Thánh giả đạt được việc ấy?
-
Tâu Đại vương, không cần đổ một giọt máu của ai cả,
dầu là một giọt vừa đủ cho con ruồi tý hon
hút được, cũng không cần tiêu phí kho báu của Đại vương, chỉ cần nhờ thần lực của riêng mình,
bần đạo sẽ chiếm quyền thống trị và dâng hết lên Đại vương. Chỉ cần ngay lập tức không chút trì
hoãn, Đại vương phải khởi hành ngay hôm nay.
Vua
tin lời ấy và khởi hành ngay với một đạo quân hộ tống. Nếu đạo quân gặp trời nóng, hiền giả Nanda dùng
lực thần tạo bóng cây khiến cho trời mát. Nếu trời mưa, ông không để cho mưa rơi xuống đạo quân. Ông ngăn cản
luồng gió oi nồng. Ông phá bỏ gai góc trên đường đi cùng các thứ hiểm nguy khác. Ông làm cho con đường bằng phẳng như vòng tròn dùng trong pháp
môn thiền Kasina, rồi trải một tấm da, ông ngồi kiết-già trên không và cứ thế
tiến dần phía trước đạo quân.
Theo
cách này, trước tiên ông cùng đạo quân trên đến vương quốc Kosala, đóng trại gần kinh thành,
gửi sớ lên vua Kosala hoặc bảo tham chiến hoặc đầu hàng trước uy lực của ông. Vua nổi trận lôi đình, quát:
-
Thế thì trẫm không phải là quốc vương hay sao? Trẫm sẽ chinh phạt các ngươi.
Vua
dẫn đầu bốn đạo quân và hai phe lâm trận. Hiền giả
Nanda trải tấm da hươu ra ngồi giữa hai đạo quân, dùng tấm da bắt hết mọi mũi tên do hai phe chiến đấu bắn ra, nên không có một ai trong quân đội nào bị thương vì trúng tên cả. Đến khi tất cả số tên của họ đều dùng hết, haiđạo quân đứng ngẩn ngơ không
còn biết nương tựa vào đâu nữa.
Rồi
Hiền giả Nanda đến yết kiến vua Kosala
và trấn an vua:
-
Tâu Đại vương, xin đừng lo âu tuyệt vọng, không có
nguy cơ nào đe dọa Đại vương cả.
Vương quốc vẫn thuộc về Đại vương. Chỉ cần Đại vương thần phục vua Manoja thôi.
Vua
tin lời hiền giả nói và thỏa thuận điều ấy. Sau đó dẫn vua ấy đến yết kiến vua Manoja, hiền giả Nanda
thưa:
-
Tâu Đại vương, quốc vương Kosala xin thần phục Đại
vương. Hãy để yên quốc độ ấy như cũ.
Vua
Manoja sẵn sàng chấp thuận và nhận sự quy phục ấy. Vua cùng hai đạo quân tiến đến quốc độ Anga và chiếm Anga,
sau đó chiếm Magadha trong quốc độ có tên ấy và nhờ
các phương cách này, vua trở thành bá chủ của mọi quốc vương toàn cõi
Diêm-phù-đề, rồi được chư hầu hộ tống đi thẳng đến thành Brahmavaddhana.
Bấy
giờ, vua chiếm được mọi quốc độ từ các
vua này trong bảy năm, bảy tháng, bảy ngày. Từ mỗi kinh thành, vua truyền đem đủ thức ăn loại cứng, loại mềm và mời một
trăm lẻ một quốc vương nâng chén rượu khải hoàn suốt bảy ngày đại lễ hội.
Hiền
giả Nanda suy nghĩ: "Ta không muốn xuất hiện trước mặt vua cho đến khi ngài đã hưởng mọi lạc thú của vương quyền thống trị trong bảy
ngày".
Rồi
khi đi khất thực trong xứ Bắc Kuru, Hiền giả an trú
suốt bảy ngày ở Tuyết Sơn, ngay cửa vào Kim Động.
Phần
hoàng đế Manoja, vào ngày thứ bảy, sau khi ngắm cảnh đại vinh quang quyền lực của mình, tự nghĩ:
"Cảnh huy hoàng này không phải do cha mẹ ta hay người khác trao tặng. Nó
xuất phát từ ẩn sĩ Nanda và rõ ràng đã bảy ngày trôi qua từ khi ta thấy ngài. Không biết nay vị hiền
hữu đã ban ta cảnh huy hoàng này đang ở đâu trên đời này?". Và vua nhớ đến hiền giả Nanda.
Còn
Hiền giả Nanda khi biết vua đang nhớ mình, liền xuất
hiện trước vua trên không. Vua suy nghĩ: "Ta không biết vị khổ hạnh này là
người phàm hay thần thánh. Nếu là người phàm, ta sẽ dâng ngài quyền thống trị
khắp cõi Diêm-phù-đề. Còn nếu ngài là thần thánh, ta sẽ bày tỏ lòng tôn kính
xứng đáng với ngài.
Và để thử vị ấy, vua ngâm vần kệ đầu:
1. Nhạc
thần, Thiên tử, phải ngài chăng,
Hay ngẫu nhiên ta gặp Ngọc hoàng,
Hoặc một người thần thông quảng đại,
Ngự bao thành trị thật vinh quang.
Nay ta ao ước ngài cho biết
Quý tánh phương danh thật rõ ràng.
Hay ngẫu nhiên ta gặp Ngọc hoàng,
Hoặc một người thần thông quảng đại,
Ngự bao thành trị thật vinh quang.
Nay ta ao ước ngài cho biết
Quý tánh phương danh thật rõ ràng.
Nghe
lời vua, Hiền giả Nanda ngâm vần kệ thứ hai nêu rõ thân thế mình:
2. Ta chẳng Thiên nhân, hoặc Nhạc thần,
Cũng không Thiên chủ hoặc quân vương.
Ta là người đủ thần thông lực,
Sự thật nay ta đã tỏ tường.
Cũng không Thiên chủ hoặc quân vương.
Ta là người đủ thần thông lực,
Sự thật nay ta đã tỏ tường.
Vua
nghe vậy, nghĩ thầm: "Ngài bảo ngài là một người; như vậy ngài đã làm nhiều công đức cho ta lắm. Ta sẽ tỏ bày sự tôn kính tối cao
với ngài để ngài đẹp ý". Và vua đáp lời:
3. Công đức ngài ban bố chúng tôi
Làm sao nói hết được nên lời,
Giữa dòng mưa lũ tuôn ồ ạt,
Chẳng có trên đầu một giọt rơi.
4. Bóng mát ngài làm cho chúng ta
Khi luồng gió đốt cháy bay qua;
Khỏi làn tên ác, ngài bao phủ
Giữa biết bao cừu địch quốc gia.
5. Thật nhiều quốc độ lạc an tràn
Ngài bảo tôn ta Đại đế vương,
Hơn cả một trăm vị lãnh chúa
Trở thành tuân phục lệnh ta ban.
6. Những gì ngài chọn giữa kho tàng
Hoan hỷ ta trao nhượng sẵn sàng:
Xe thắng đàn voi hay tuấn mã,
Cung tần xiêm áo đẹp trang hoàng,
Vương cung mỹ lệ nào ngài thích
Đều sẽ trở thành của Đại nhân.
7. Nếu muốn ngự cung Ma-kiệt-đà,
Hoặc là quốc độ xứ An-ga
A-van-ti, trẫm vui lòng nhượng,
Hoặc đến trị dân As-sa-ka.
8. Dẫu ngài muốn một nửa giang sơn,
Trẫm nhượng với tâm hỷ lạc tràn,
Chỉ nói một lời điều ước muốn,
Tức thì vật ấy của hiền nhơn.
Làm sao nói hết được nên lời,
Giữa dòng mưa lũ tuôn ồ ạt,
Chẳng có trên đầu một giọt rơi.
4. Bóng mát ngài làm cho chúng ta
Khi luồng gió đốt cháy bay qua;
Khỏi làn tên ác, ngài bao phủ
Giữa biết bao cừu địch quốc gia.
5. Thật nhiều quốc độ lạc an tràn
Ngài bảo tôn ta Đại đế vương,
Hơn cả một trăm vị lãnh chúa
Trở thành tuân phục lệnh ta ban.
6. Những gì ngài chọn giữa kho tàng
Hoan hỷ ta trao nhượng sẵn sàng:
Xe thắng đàn voi hay tuấn mã,
Cung tần xiêm áo đẹp trang hoàng,
Vương cung mỹ lệ nào ngài thích
Đều sẽ trở thành của Đại nhân.
7. Nếu muốn ngự cung Ma-kiệt-đà,
Hoặc là quốc độ xứ An-ga
A-van-ti, trẫm vui lòng nhượng,
Hoặc đến trị dân As-sa-ka.
8. Dẫu ngài muốn một nửa giang sơn,
Trẫm nhượng với tâm hỷ lạc tràn,
Chỉ nói một lời điều ước muốn,
Tức thì vật ấy của hiền nhơn.
Nghe
vậy, Hiền giả Nanda ngâm vần kệ giải thích ước nguyện của mình:
9.
Vương quốc ta nào có ước ao,
Kinh thành, lãnh dịa chẳng mong cầu,
Cũng không tìm kiếm nhiều tài sản
Từ chính bàn tay Đại đế đâu.
Kinh thành, lãnh dịa chẳng mong cầu,
Cũng không tìm kiếm nhiều tài sản
Từ chính bàn tay Đại đế đâu.
Vị
ấy nói tiếp:
-
Nhưng nếu Đại vương có lòng ưu ái
ta, xin hãy làm theo lời thỉnh cầu của ta về việc duy nhất này:
10-11.
Dưới quyền ngài, ngụ lão song thân
Hưởng cảnh am tranh ở núi rừng,
Ta chẳng được làm gì phước đức
Với song thân ấy lão hiền nhân.
Nếu ngài nói hộ điều ta muốn,
Hiền giả So-na hết hận sân.
Hưởng cảnh am tranh ở núi rừng,
Ta chẳng được làm gì phước đức
Với song thân ấy lão hiền nhân.
Nếu ngài nói hộ điều ta muốn,
Hiền giả So-na hết hận sân.
Vua
liền bảo vị ấy:
12.
Hoan hỷ, ta xin sẽ vẹn tròn
Lệnh ngài, hỡi vị Bà-la-môn,
Song ai là kẻ ta cần chọn
Để tiến hành ngay lệnh Đại nhơn?
Lệnh ngài, hỡi vị Bà-la-môn,
Song ai là kẻ ta cần chọn
Để tiến hành ngay lệnh Đại nhơn?
Hiền
giả Nanda đáp:
13. Hơn
trăm phú hộ, Bà-la-môn,
Võ tướng oai quyền, danh vọng vang,
Đại đế Ma-no-ja, đủ số
Làm ta thỏa nguyện ước hoàn toàn.
Võ tướng oai quyền, danh vọng vang,
Đại đế Ma-no-ja, đủ số
Làm ta thỏa nguyện ước hoàn toàn.
Vua
lại bảo:
14.
Thắng ngay tượng, mã vào vương xa,
Từ trụ, càng xe, vẫy ngọn cờ
Theo gió, ta đi tìm ẩn sĩ
Trú nơi xa vắng, Ko-si-ya.
Từ trụ, càng xe, vẫy ngọn cờ
Theo gió, ta đi tìm ẩn sĩ
Trú nơi xa vắng, Ko-si-ya.
*
15. Hộ
giá theo hầu, bốn đạo binh,
Đại vương tiến bước để đăng trình
Đi tìm chốn thảo am tươi đẹp
Ẩn sĩ trú an với hạnh lành.
Đại vương tiến bước để đăng trình
Đi tìm chốn thảo am tươi đẹp
Ẩn sĩ trú an với hạnh lành.
Các
vần kệ này xuất phát từ Trí tuệ Tối thắng.
*
Bấy
giờ vào ngày ấy, vua đến vùng thảo am, Hiền
giả Sona suy nghĩ: "Lúc này đã hơn bảy năm, bảy tháng, bảy ngày từ lúc tiểu đệ ta ra đi khỏi nhà. Bây giờ em ta đang ở đâu?"
Rồi
dùng thiên nhãn, ngài nhìn thấy em, liền tự bảo: "Em ta đang đến đây với một trăm lẻ một vị vua và một đoàn hộ tống gồm hai mươi bốn đạo quân để xin ta thứ lỗi. Các vua này cùngđoàn
tùy tùng đã chứng kiến nhiều thần
thông do em ta biến hóa, và vì không biết gì về thần lực của ta, nên họ bảo:
"Vị ẩn sĩ giả mạo này quá tự cao về thần lực của mình và tự sánh mình với
vị chúa tể của chúng ta". Do lời kiêu mạn này, họ sẽ đọa vào địa ngục. Vậy ta sẽ cho họ xem một điển hình về phép thần thông
của ta".
Rồi đặt đòn gánh giữa không khí, chẳng chạm vào vai
ngài một khoảng chừng bốn phân, cứ thế ngài du hành giữa khoảng bao la, bay
ngang gần vua, để đi lấy nước từ hồ
Anotatta.
Nhưng
khi Hiền giả Nanda thấy ngài đến, lại không có can
đảm lộ diện, mà lập tức biến mất ngay nơi vị ấy đang ngồi, và tẩu thoát đi ẩn mình trong vùng Tuyết Sơn. Tuy thế, khi
vua Manoja thấy Hiền giả Sona đến gần trong dáng điệu
uy nghi của bậc tu hành, liền ngâm kệ này hỏi:
16. Ai đi tìm nước giữa không gian,
Với bước chân kia thật nhịp nhàng,
Đòn gánh cách xa chừng một tấc
Chẳng hề đụng chạm tới mình vàng?
Khi nghe nói vậy, bậc Đại Sĩ liền đáp hai vần kệ:
17. So-na đạo sĩ chẳng bao giờ
Đi lạc ra ngoài luật ẩn cư,
Phụng dưỡng song thân ta sớm tối,
Ngày đêm không mỏi mệt ưu tư.
18. Khoai sắn, chùm dâu, ấy thức ăn
Trong rừng ta kiếm để đem dâng,
Đời đời ghi nhớ ơn hai vị
Xưa đã cho ta hưởng phước phần.
Với bước chân kia thật nhịp nhàng,
Đòn gánh cách xa chừng một tấc
Chẳng hề đụng chạm tới mình vàng?
Khi nghe nói vậy, bậc Đại Sĩ liền đáp hai vần kệ:
17. So-na đạo sĩ chẳng bao giờ
Đi lạc ra ngoài luật ẩn cư,
Phụng dưỡng song thân ta sớm tối,
Ngày đêm không mỏi mệt ưu tư.
18. Khoai sắn, chùm dâu, ấy thức ăn
Trong rừng ta kiếm để đem dâng,
Đời đời ghi nhớ ơn hai vị
Xưa đã cho ta hưởng phước phần.
Nghe
lời này, vua muốn bầu bạn với ngài, liền ngâm vần kệ khác:
19. Ta mong đến
tận chốn am tranh
Đạo sĩ Ko-si-ya ẩn mình,
Hiền giả So-na xin chỉ lối
Đưa ta đến tịnh thất an lành.
Đạo sĩ Ko-si-ya ẩn mình,
Hiền giả So-na xin chỉ lối
Đưa ta đến tịnh thất an lành.
Lúc
ấy bậc Đại Sĩ dùng thần lực
vạch ra một con đường mòn đưa đến thảo am và ngâm vần kệ này:
20. Đây lối Đại vương hãy nhờ rành:
Đằng xa khóm lá. đậm màu xanh
Giữa lùm mun mọc như rừng nhỏ,
Nơi ấy thảo am sẽ hiện hình.
Đằng xa khóm lá. đậm màu xanh
Giữa lùm mun mọc như rừng nhỏ,
Nơi ấy thảo am sẽ hiện hình.
*
21. Như
vậy bậc Hiền trí đại hùng,
Chỉ đường cho các vị vương quân,
Xong ngài vội vã về am thất,
Lần nữa du hành giữa cõi không.
22. Kế đó quét xong chốn thảo am,
Đi tìm nơi ẩn dật nghiêm đường,
Ngài vừa thức lão hiền nhân dậy,
Vừa tặng dâng cha một tọa sàng.
23. Ngài nói: "Thánh nhân hãy đến ngay,
Con xin cha tọa lạc nơi này,
Các vua quý tộc danh lừng lẫy
Sắp ngự giá qua giữa lối này.
24. Như vậy sao khi vị lão niên
Nghe con đòi hiện diện cầu xin,
Vội vàng chân bước từ am thất
An tọa ở bên cạnh cửa tiền.
Chỉ đường cho các vị vương quân,
Xong ngài vội vã về am thất,
Lần nữa du hành giữa cõi không.
22. Kế đó quét xong chốn thảo am,
Đi tìm nơi ẩn dật nghiêm đường,
Ngài vừa thức lão hiền nhân dậy,
Vừa tặng dâng cha một tọa sàng.
23. Ngài nói: "Thánh nhân hãy đến ngay,
Con xin cha tọa lạc nơi này,
Các vua quý tộc danh lừng lẫy
Sắp ngự giá qua giữa lối này.
24. Như vậy sao khi vị lão niên
Nghe con đòi hiện diện cầu xin,
Vội vàng chân bước từ am thất
An tọa ở bên cạnh cửa tiền.
Các
vần kệ này phát xuất từ Trí tuệ Tối Thắng.
*
Phần
Hiền giả Nanda đi yết kiến vua ngay khi
Bồ-tát vừa đến am thất, vừa đem nước về từ hồ Anotatta, rồi Hiền giả Nanda cắm
trại không xa am thất ấy.
Sau đó vua tắm rửa và phục sức vô cùng lộng lẫy,
liền được một trăm lẻ một tiểu vương hộ tống, vị Đại
vương cùng Hiền giả Nanda bước vào am thất trong cảnh huy hoàng trọng thể và
cầu khẩn Bồ-tát tha thứ cho hiền đệ của ngài.
Lúc
ấy phụ thân của Bồ-tát thấy vị Đại vương ngự đến gần,
liền hỏi Bồ-tát và ngài giải thích vấn đề với cha.
*
Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ việc này:
25.
Thấy vua đứng đó đại vinh quang
Được hộ tống quanh bởi tiểu vương,
Bậc lão hiền nhân liền cất tiếng
Hỏi thăm con trẻ chuyện trên đường:
26. "Ai đến đây trong tiếng rộn ràng
Tù và, trống lớn nhỏ lừng vang,
Âm thanh làm các vua hoan hỷ,
Ai đến đây ca khúc khải hoàn?
27. Ai đây đang đến thật huy hoàng,
Khăn quấn đầu cao dệt sợi vàng,
Như chớp sáng ngời, cung tiễn đủ,
Anh hùng trẻ tuổi thật can tràng?
28. Ai đây đang đến thật vinh quang,
Nét mặt vui tươi tỏa ánh vàng
Như đám lửa tàn, cành phượng vĩ
Sáng ngời đang cháy ở lò than?
29. Ai đến đây cùng chiếc lọng cao
Được giương lên thật khéo làm sao,
Lọng che với gọng sườn tô điểm
Xua ánh nắng gay gắt chói vào?
30. Ai kia xòe quạt để phòng thân,
Quạt kết lông đuôi trâu chúa rừng,
Như một vị hiền nhân trí giả
Cỡi lưng voi nọ dáng oai phong?
31. Ai đang đến rực rỡ, huy hoàng,
Các lọng giương cao trắng vẹn toàn,
Tuấn mã giáp bào dòng quý tộc
Vây quanh phải trái thật hiên ngang?
32. Ai kia đang đến tận nơi đây,
Được cả hơn trăm lãnh chúa này
Hộ tống một đoàn vua quý tộc,
Sau lưng và trước mặt như vầy?
33. Các vương xa với một đàn voi
Đám bộ binh cùng với đám ngựa nòi,
Ai đến với oai nghi chiến dấu,
Bốn đoàn quân bố trận kia rồi?
34. Ai đến cùng tất cả đạo quân
Theo sau hộ giá rộng mênh mông
Không hề gián đoạn, dài vô tận,
Như sóng đại dương vỗ chập chùng?
35. "Ma-no đại đế, với Nan-da,
Ngự giá đến đây viếng, hỡi cha,
Như thể In-dra Thiên chủ ấy
Đến đây thăm chốn ẩn am ta.
36. Hộ tống ngài đang đến cả đoàn
Sẵn sàng tuân lệnh, thật hùng cường,
Không hề gián đoạn, dài vô tận,
Như sóng chập chùng giữa đại dương".
Được hộ tống quanh bởi tiểu vương,
Bậc lão hiền nhân liền cất tiếng
Hỏi thăm con trẻ chuyện trên đường:
26. "Ai đến đây trong tiếng rộn ràng
Tù và, trống lớn nhỏ lừng vang,
Âm thanh làm các vua hoan hỷ,
Ai đến đây ca khúc khải hoàn?
27. Ai đây đang đến thật huy hoàng,
Khăn quấn đầu cao dệt sợi vàng,
Như chớp sáng ngời, cung tiễn đủ,
Anh hùng trẻ tuổi thật can tràng?
28. Ai đây đang đến thật vinh quang,
Nét mặt vui tươi tỏa ánh vàng
Như đám lửa tàn, cành phượng vĩ
Sáng ngời đang cháy ở lò than?
29. Ai đến đây cùng chiếc lọng cao
Được giương lên thật khéo làm sao,
Lọng che với gọng sườn tô điểm
Xua ánh nắng gay gắt chói vào?
30. Ai kia xòe quạt để phòng thân,
Quạt kết lông đuôi trâu chúa rừng,
Như một vị hiền nhân trí giả
Cỡi lưng voi nọ dáng oai phong?
31. Ai đang đến rực rỡ, huy hoàng,
Các lọng giương cao trắng vẹn toàn,
Tuấn mã giáp bào dòng quý tộc
Vây quanh phải trái thật hiên ngang?
32. Ai kia đang đến tận nơi đây,
Được cả hơn trăm lãnh chúa này
Hộ tống một đoàn vua quý tộc,
Sau lưng và trước mặt như vầy?
33. Các vương xa với một đàn voi
Đám bộ binh cùng với đám ngựa nòi,
Ai đến với oai nghi chiến dấu,
Bốn đoàn quân bố trận kia rồi?
34. Ai đến cùng tất cả đạo quân
Theo sau hộ giá rộng mênh mông
Không hề gián đoạn, dài vô tận,
Như sóng đại dương vỗ chập chùng?
35. "Ma-no đại đế, với Nan-da,
Ngự giá đến đây viếng, hỡi cha,
Như thể In-dra Thiên chủ ấy
Đến đây thăm chốn ẩn am ta.
36. Hộ tống ngài đang đến cả đoàn
Sẵn sàng tuân lệnh, thật hùng cường,
Không hề gián đoạn, dài vô tận,
Như sóng chập chùng giữa đại dương".
Đạo Sư
lại ngâm:
37. Lụa
tối cao sang, khoác cẩm bào,
Dầu trầm hương ngát điểm tô vào,
Các vua này đến gần hai vị
Thánh giả, dáng cung kính khẩn cầu.
Dầu trầm hương ngát điểm tô vào,
Các vua này đến gần hai vị
Thánh giả, dáng cung kính khẩn cầu.
Sau đó vua Manoja kính lễ xong, ngồi xuống một bên,
vừa trao đổi những lời chào hỏi
ân cần, vừa ngâm đôi vần kệ:
38.
Trẫm vẫn tin rằng các Thánh nhân
Sống đời thịnh vượng lẫn an khang,
Kiếm nhiều mễ cốc cùng rau trái
Phong phú khắp nơi chốn trú an.
39. Hẳn các ngài không bị bọ rầy,
Loài bò sát quấy nhiễu lâu nay,
Các ngài tránh được bao phiền lụy
Do thú săn mồi ở chốn đây?
Sống đời thịnh vượng lẫn an khang,
Kiếm nhiều mễ cốc cùng rau trái
Phong phú khắp nơi chốn trú an.
39. Hẳn các ngài không bị bọ rầy,
Loài bò sát quấy nhiễu lâu nay,
Các ngài tránh được bao phiền lụy
Do thú săn mồi ở chốn đây?
Các
vần kệ sau đây do hai bên đối đáp nhau:
Ẩn
sĩ:
40. Xin
cám ơn ngài, hỡi Đại vương,
Chúng ta luôn thịnh vượng, an khương,
Kiếm nhiều mễ cốc cùng rau quả
Phong phú khắp nơi chốn náu nương.
41. Bần đạo cũng không bị bọ rầy,
Loài bò sát quấy nhiễu lâu nay,
Chúng ta tránh được bao phiền lụy
Do thú săn mồi đến chốn đây.
42. Các loại cây cao vẫn mọc đầy
Cho người ẩn sĩ sống như vầy,
Cũng không bệnh tật gây tai hại
Từng thấy xảy ra ở chốn này.
43. Bần đạo xin nghênh tiếp Đại vương,
Dịp may nào chỉ lối đưa đường,
Trông ngài hùng hậu, vinh quang quá,
Sứ mệnh gì mang, hãy tỏ tường?
44. Tin-dook, pi-yal, các lá cây,
Ka-su-ma chín ngọt ngào thay
Như đường mật, kính dâng ngài ngự
Thứ tuyệt hảo nhà có sẵn đây.
45. Và nước mát này ở động sâu
Ẩn mình trong một ngọn đồi cao,
Đại vương, xin kính dâng bình nước
Ngài ngự cho lòng thỏa khát khao.
Chúng ta luôn thịnh vượng, an khương,
Kiếm nhiều mễ cốc cùng rau quả
Phong phú khắp nơi chốn náu nương.
41. Bần đạo cũng không bị bọ rầy,
Loài bò sát quấy nhiễu lâu nay,
Chúng ta tránh được bao phiền lụy
Do thú săn mồi đến chốn đây.
42. Các loại cây cao vẫn mọc đầy
Cho người ẩn sĩ sống như vầy,
Cũng không bệnh tật gây tai hại
Từng thấy xảy ra ở chốn này.
43. Bần đạo xin nghênh tiếp Đại vương,
Dịp may nào chỉ lối đưa đường,
Trông ngài hùng hậu, vinh quang quá,
Sứ mệnh gì mang, hãy tỏ tường?
44. Tin-dook, pi-yal, các lá cây,
Ka-su-ma chín ngọt ngào thay
Như đường mật, kính dâng ngài ngự
Thứ tuyệt hảo nhà có sẵn đây.
45. Và nước mát này ở động sâu
Ẩn mình trong một ngọn đồi cao,
Đại vương, xin kính dâng bình nước
Ngài ngự cho lòng thỏa khát khao.
Đại
vương:
46.
Trẫm đây cùng tất cả vị vua
Xin nhận quà ngài tặng chúng ta,
Song hãy lắng nghe lời sắp nói
Của hiền hữu, Trí giả Nan-da.
47. Chúng ta tất cả bước theo hầu
Hiền giả Nan-da đến khẩn cầu
Ngài chiếu cố nghe người khốn khổ
Van xin quy lụy đáp ơn sâu.
Xin nhận quà ngài tặng chúng ta,
Song hãy lắng nghe lời sắp nói
Của hiền hữu, Trí giả Nan-da.
47. Chúng ta tất cả bước theo hầu
Hiền giả Nan-da đến khẩn cầu
Ngài chiếu cố nghe người khốn khổ
Van xin quy lụy đáp ơn sâu.
Nghe
nói vậy, hiền giả Nanda đứng dậy từ chỗ ngồi,
vừa định lễ cha mẹ và huynh trưởng, vừa ngâm kệ đàm đạo với đoàn tùy tùng của mình:
48. Xin cả toàn dân, lẻ một trăm,
Những người danh vọng Bà-la-môn,
Các vua Sát-ly dòng cao quý
Sáng chói với tên tuổi lẫy lừng,
Cùng với Ma-no-ja Đại đế,
Thảy đều công nhận việc cầu ân.
49. Dạ-xoa Thần ở thảo am này,
Các vị đang quy tụ ở đây,
Lão, ấu các sơn thần, thổ địa,
Lắng nghe ta nói chuyện như vầy.
50. Tiểu nhi xin kính lễ song thân,
Kế đến xin thưa bậc Thánh nhân,
Tiểu đệ là em đây thuở trước
Ngài xem có mặt tựa tay chân.
51. Làm sao phụng dưỡng lão song thân
Ấy chính em cầu nguyện đặc ân,
Xin Thánh nhân thôi đừng cản trở
Cho em làm Thánh sự riêng phần.
52. Ân cần phụng dưỡng cả song thân
Trước đã được làm bởi Thánh nhân,
Người thiện tán đồng bao thiện sự,
Sao phiên tiểu đệ chẳng nhường phần?
Do vầy em đạt nhiều công đức,
Đạo lộ lên thiên giới sẵn sàng.
53. Nhiều người khác biết rõ nơi đây
Đạo lộ dành cho phận sự này,
Ấy chính con đường lên thượng giới,
Xin Hiền nhân nhận thức như vầy.
54. Song bậc Thánh nhân đã cản ngăn
Em làm thiện sự thế này chăng?
Khi em mong muốn nhờ công đức
Đem lại song thân trọn lạc an.
Những người danh vọng Bà-la-môn,
Các vua Sát-ly dòng cao quý
Sáng chói với tên tuổi lẫy lừng,
Cùng với Ma-no-ja Đại đế,
Thảy đều công nhận việc cầu ân.
49. Dạ-xoa Thần ở thảo am này,
Các vị đang quy tụ ở đây,
Lão, ấu các sơn thần, thổ địa,
Lắng nghe ta nói chuyện như vầy.
50. Tiểu nhi xin kính lễ song thân,
Kế đến xin thưa bậc Thánh nhân,
Tiểu đệ là em đây thuở trước
Ngài xem có mặt tựa tay chân.
51. Làm sao phụng dưỡng lão song thân
Ấy chính em cầu nguyện đặc ân,
Xin Thánh nhân thôi đừng cản trở
Cho em làm Thánh sự riêng phần.
52. Ân cần phụng dưỡng cả song thân
Trước đã được làm bởi Thánh nhân,
Người thiện tán đồng bao thiện sự,
Sao phiên tiểu đệ chẳng nhường phần?
Do vầy em đạt nhiều công đức,
Đạo lộ lên thiên giới sẵn sàng.
53. Nhiều người khác biết rõ nơi đây
Đạo lộ dành cho phận sự này,
Ấy chính con đường lên thượng giới,
Xin Hiền nhân nhận thức như vầy.
54. Song bậc Thánh nhân đã cản ngăn
Em làm thiện sự thế này chăng?
Khi em mong muốn nhờ công đức
Đem lại song thân trọn lạc an.
Khi được Nanda nói như vầy, bậc Đại Sĩ bảo:
-
Các vị đã nghe những lời Nanda
phải nói ra; giờ đây hãy nghe ta.
Và
ngài ngâm các vần kệ sau:
55. Các
vị theo hầu tiểu đệ ta
Hãy nghe ta nói lượt bây giờ:
Kẻ nào đối xử đầy khinh bỉ
Nhũng bậc tiền nhân của mẹ cha,
Phạm tội ác cùng chư trưởng lão,
Tái sinh địa ngục đốt tiêu ma.
56. Song kẻ tinh thông đạo Thánh nhân,
Con dường chân lý hiểu tinh tường,
Giữ gìn giới luật và công hạnh,
Quyết sẽ chẳng sa cảnh khổ buồn.
57. Anh em cùng các bậc thân sinh,
Tất cả do dây kết hợp thành,
Nhiệm vụ suốt đời luôn đặt nặng
Trên vai của vị trưởng hiền huynh.
58. Làm trưởng huynh, thiên chức nặng sao
Hân hoan ta gánh vác đi đầu
Như thuyền trưởng hộ phòng thuyền nọ,
Chân lý ta không hề lãng xao.
Hãy nghe ta nói lượt bây giờ:
Kẻ nào đối xử đầy khinh bỉ
Nhũng bậc tiền nhân của mẹ cha,
Phạm tội ác cùng chư trưởng lão,
Tái sinh địa ngục đốt tiêu ma.
56. Song kẻ tinh thông đạo Thánh nhân,
Con dường chân lý hiểu tinh tường,
Giữ gìn giới luật và công hạnh,
Quyết sẽ chẳng sa cảnh khổ buồn.
57. Anh em cùng các bậc thân sinh,
Tất cả do dây kết hợp thành,
Nhiệm vụ suốt đời luôn đặt nặng
Trên vai của vị trưởng hiền huynh.
58. Làm trưởng huynh, thiên chức nặng sao
Hân hoan ta gánh vác đi đầu
Như thuyền trưởng hộ phòng thuyền nọ,
Chân lý ta không hề lãng xao.
Khi
nghe lời này, tất cả các vua đều vô cùng hoan hỷ và
nói:
-
Hôm nay chúng ta đều biết được rằng toàn
thể gia đình là trách nhiệm đặt lên người huynh trưởng.
Rồi
các vị rời bỏ Hiền giả Nanda và vừa chú tâm hướng về bậc Đại Sĩ, vừa ngâm hai vần kệ tán dương ngài:
59. Tri
kiến tìm ra tựa lửa bừng
Sáng ngời chiếu rọi giữa đêm trường,
Cũng như Thánh giả Ko-si ấy
Hiển lộ cho ta lý chánh chân.
60. Như nhật thần kia chiếu ánh quang
Sáng ngời khắp mặt biển mênh mang
Phố bày hình thể bao sinh vật,
Dù chúng xấu xa hoặc thiện lương,
Cũng vậy Ko-si-ya Thánh giả
Hiển bày chân lý với quân vương.
Sáng ngời chiếu rọi giữa đêm trường,
Cũng như Thánh giả Ko-si ấy
Hiển lộ cho ta lý chánh chân.
60. Như nhật thần kia chiếu ánh quang
Sáng ngời khắp mặt biển mênh mang
Phố bày hình thể bao sinh vật,
Dù chúng xấu xa hoặc thiện lương,
Cũng vậy Ko-si-ya Thánh giả
Hiển bày chân lý với quân vương.
Như
vậy là mặc dù từ lâu các vua chúa đã tin tưởng vào Hiền giả Nanda vì chứng kiến các kỳ tích thần
thông của vị ấy, tuy thế bậc Đại Sĩ nhờ uy lực tri
kiến đã phá hủy lòng tin của họ, khiến họ phải chấp nhận lời ngài và do vậy tất
cả đều trở thành những người hầu cận tuân phục ngài
nhất ở đời.
Lúc
ấy Hiền giả Nanda suy nghĩ: "Đại huynh ta là một bậc trí giả tinh thông am
tường kinhđiển. Ngài đã chinh phục các vị vua
này và đưa họ về phía ngài.
Ngoài ngài ra, ta không có nơi nương tựa nào khác. Ta chỉ còn biết khẩn cầu
ngài thôi".
Thế
rồi ông ngâm vần kệ này:
61.
Huynh chẳng lưu tâm dáng khẩn cầu,
Cũng không dang rộng cánh tay đâu,
Em mong làm kẻ hèn nô lệ
Đợi lệnh huynh ban, vội đến chầu.
Cũng không dang rộng cánh tay đâu,
Em mong làm kẻ hèn nô lệ
Đợi lệnh huynh ban, vội đến chầu.
Dĩ
nhiên bậc Đại Sĩ không cảm thấy
hờn giận hay oán thù đối với Nanda, nhưng
ngài đã hànhđộng như một cách khiển trách em để hạ
bớt lòng kiêu mạn của vị ấy khi phát biểu tự cao thái quá như vậy. Nhưng bây
giờ khi nghe những lời em nói ra, ngài vô cùng hoan hỷ và muốn ban ân huệ cho
em, ngài bảo:
-
Nay ta tha thứ hiền đệ rồi và sẽ cho phép
hiền đệ chăm sóc cha mẹ.
Và
ngài ngâm kệ nêu rõ đức tính của hiền đệ:
62. Em thông Chính pháp, hỡi Nan-da,
Nhu các Thánh nhân đã dạy mà:
Duy nhất quý cao là thiện sự,
Em làm đẹp ý thỏa lòng ta.
63. Mẹ cha xứng đáng được tôn thờ,
Em hãy nghe điều ta nói ra:
Nhiệm vụ phần em lo gánh vác
Mà không cảm thấy nặng bao giờ.
64. Mẹ cha ta bảo dưỡng lâu nay
Cũng để cầu mong hạnh phúc vầy,
Đến lượt Nan-da nay đã tới
Cầu xin khúm núm phụng thờ đây.
65. Vị nào trong nhị Thánh nhân hiền
Mong muốn Nan-da phụng dưỡng riêng,
Xin nói một lời, và tiểu đệ
Phải theo hầu vị ấy ưu tiên.
Nhu các Thánh nhân đã dạy mà:
Duy nhất quý cao là thiện sự,
Em làm đẹp ý thỏa lòng ta.
63. Mẹ cha xứng đáng được tôn thờ,
Em hãy nghe điều ta nói ra:
Nhiệm vụ phần em lo gánh vác
Mà không cảm thấy nặng bao giờ.
64. Mẹ cha ta bảo dưỡng lâu nay
Cũng để cầu mong hạnh phúc vầy,
Đến lượt Nan-da nay đã tới
Cầu xin khúm núm phụng thờ đây.
65. Vị nào trong nhị Thánh nhân hiền
Mong muốn Nan-da phụng dưỡng riêng,
Xin nói một lời, và tiểu đệ
Phải theo hầu vị ấy ưu tiên.
Lúc
ấy mẹ ngài từ chỗ ngồi đứng dậy và bảo:
-
Sona thân yêu, em con đã vắng nhà lâu nay. Bây
giờ rốt cuộc nó đã trở về, ta không đích thân hỏi thăm nó vì chúng ta đều nương tựa vào con cả. Song nếu con cho phép,
bây giờ ta xin được ôm lấy nam tử thánh
thiện này trong tay và hôn lên trán nó.
Rồi
bà ngâm kệ này nêu rõ ý của bà:
66.
So-na, cha mẹ dựa con đây,
Nếu được con cho phép việc này,
Mẹ sẽ ôm vào lòng của mẹ
Nan-da thánh thiện quý cao vầy.
Nếu được con cho phép việc này,
Mẹ sẽ ôm vào lòng của mẹ
Nan-da thánh thiện quý cao vầy.
Sau đó bậc Đại Sĩ nói với mẹ:
-
Này mẹ yêu quý, con cho phép mẹ rồi, mẹ hãy đi ôm lấy Nanda, con trai mẹ rồi ngửi tóc và hôn đầu nó để xoa dịu nỗi sầu trong lòng mẹ.
Thế
là bà đi đến Hiền giả Nanda và ôm choàng lấy con trước
toàn thể hội chúng và ngửi tóc, hôn đầu con, làm tiêu tan mọi nỗi khổ trong lòng bà, và ngâm kệ nói
chuyện với bậc Đại Sĩ:
67.
Giống như cây yếu ớt bồ-đề
Rung động vì cơn gió nặng bề,
Cũng vậy, tim ta vui rộn rã
Thấy Nan-da đã được quay về.
68 . Dường như ta thấy lại Nan-da
Cũng chẳng khác nào một giấc mơ,
Hóa dại, vui mừng ta hét lớn:
"Nan-da nay trở lại cùng ta!"
69. Song nếu khi tàn giấc ngủ mê,
Thấy Nan-da ấy đã ra đi,
Tâm ta sẽ chịu bao giày xéo
Do nỗi buồn đau quá não nề.
70. Trở lại hôm nay với mẹ cha,
Nan-da rốt cuộc đã về nhà,
Thân yêu với mẹ cha đồng đẳng,
Nó tạo ngôi nhà với chúng ta.
71. Dù nghiêm đường quý mến Nan-da,
Hãy để em con ở tự do,
Con phục vụ nhu cầu lão phụ,
Nan-da cần trọn nghĩa cùng ta.
Rung động vì cơn gió nặng bề,
Cũng vậy, tim ta vui rộn rã
Thấy Nan-da đã được quay về.
68 . Dường như ta thấy lại Nan-da
Cũng chẳng khác nào một giấc mơ,
Hóa dại, vui mừng ta hét lớn:
"Nan-da nay trở lại cùng ta!"
69. Song nếu khi tàn giấc ngủ mê,
Thấy Nan-da ấy đã ra đi,
Tâm ta sẽ chịu bao giày xéo
Do nỗi buồn đau quá não nề.
70. Trở lại hôm nay với mẹ cha,
Nan-da rốt cuộc đã về nhà,
Thân yêu với mẹ cha đồng đẳng,
Nó tạo ngôi nhà với chúng ta.
71. Dù nghiêm đường quý mến Nan-da,
Hãy để em con ở tự do,
Con phục vụ nhu cầu lão phụ,
Nan-da cần trọn nghĩa cùng ta.
Bậc Đại Sĩ chấp thuận lời mẹ và nói:
-
Con mong được như vậy.
Và
ngài khuyến giáo em:
-
Này Nanda, em đã lãnh phận sự của
người anh cả, quả thật mẫu thân chính là đại ân nhân của ta. Em hãy thận trọng chăm nom mẹ.
Ngài
lại ngâm hai vần kệ tán thán công đức của mẹ hiền:
72. Là nơi nương tựa thật ân cần,
Mẹ đã nuôi ta với sữa nguồn,
Mẹ chính là đường lên thượng giới,
Mẹ thương hiền đệ nhất trên trần.
73. Mẹ đã chăm lo bảo dưỡng ta,
Mẹ nhiều ân huệ phát ban ra,
Mẹ là đường dẫn lên thiên giới,
Và mẹ yêu hiền đệ nhất nhà.
Mẹ đã nuôi ta với sữa nguồn,
Mẹ chính là đường lên thượng giới,
Mẹ thương hiền đệ nhất trên trần.
73. Mẹ đã chăm lo bảo dưỡng ta,
Mẹ nhiều ân huệ phát ban ra,
Mẹ là đường dẫn lên thiên giới,
Và mẹ yêu hiền đệ nhất nhà.
Như
vậy bậc Đại Sĩ đã nêu lên công đức của mẹ qua hai vần kệ, và khi mẹ ngài đã về chỗ ngồi một lần nữa, ngài bảo:
-
Này Nanda, em có một bà mẹ đã chịu đựng nhiều gian lao khó vượt qua. Cả hai ta đã được mẹ nuôi nấng rất nhọc nhằn. Này em hãy thận
trọng chăm sóc mẹ và không được đưa thứ dâu chua
cho mẹ ăn nữa.
Và để làm sáng tỏ cho hội chúng thấy rõ những công
việc cực kỳ gian khổ được dành cho số phận bà
mẹ, ngài ngâm kệ:
74. Cầu
nguyện khát khao một đứa con,
Mẹ quỳ trước mỗi một đền thần,
Bốn mùa thay đổi thường quan sát,
Khảo cứu thiên văn thật tận tường.
75. Hoài thai theo với khoảng thời gian,
Mẹ thấy lòng mong đợi dịu dàng,
Thoáng chốc hài nhi vô ý thức
Bắt đầu quen biết một thân bằng.
76. Suốt khoảng thai kỳ ngót một năm,
Mẹ chăm chút kỹ một kho tàng,
Rồi sau sinh hạ con yêu quý,
Ngày ấy vui lòng tiếng "mẹ" mang.
77. Với bầu sữa, mẹ hát ru con,
Xoa dịu hài nhi khóc nỉ non,
Ấp ủ trong vòng tay ấm áp,
Nỗi đau của trẻ được xua tan.
78. Trông nom trẻ tội nghiệp thơ ngây,
Sợ nắng gió làm hại trẻ đây,
Được gọi vú nuôi, thôi cũng được,
Nâng niu con trẻ cứ như vầy.
79. Tài vật nào cha mẹ có đây,
Mẹ dành cho trẻ để sau này,
Bà suy: "Cũng có ngày con hỡi,
Gia sản may ra đến tận tay".
80. "Hãy làm này nọ, bé yêu ơi",
Bà mẹ lo âu gọi thế hoài,
Khi trẻ thành người trai lực lưỡng,
Mẹ còn kêu khóc, thở than dài.
Nó liều lĩnh dám đi tìm gặp
Vợ láng giềng nhân lúc tối trời.
Mẹ giận dữ la rầy cáu kỉnh:
"Sao không trở lại lúc ban mai?"
81. Nếu được nuôi đầy khổ nhọc vầy,
Mà người xao lãng mẹ hiền này,
Chơi trò gian dối, thì ta hỏi,
Còn đợi gì ngoài ngục đọa đày?
82. Nếu được nuôi đầy khổ nhọc vầy,
Mà người xao lãng phụ thân này,
Chơi trò gian dối, thì ta hỏi,
Còn đợi gì ngoài ngục đọa đày?
83. Kẻ nào tài sản quá mê say,
Tài sản mất đi cũng có ngày,
Còn kẻ thờ ơ xao lãng mẹ,
Hối hận vì tai hại đắng cay.
84. Kẻ nào tài sản quá mê say,
Tài sản mất đi cũng có ngày,
Còn kẻ thờ ơ thân phụ nó,
Hối hận vì tai hại đắng cay.
85. An vui nhàn nhã, với cười đùa,
Giải trí, là tài sản tại gia
Của kẻ chăm lo đầy tận tụy
Mẫu thân khi tuổi tác già nua.
86. An vui nhàn nhã, với cười đùa,
Giải trí, là tài sản tại gia
Của kẻ chăm lo đầy tận tụy
Phụ thân khi tuổi tác già nua.
87. Quà tặng cùng lời nói dễ thương,
Ân cần phục vụ cạnh song đường,
Nhiệt tình tâm trí luôn bình đẳng
Bày tỏ đúng thời, đúng chốn luôn.
88. Những đức tính này đối thế nhân,
Giống như mấu trục bánh xe lăn,
Nếu không có chúng, thì tên mẹ
Sẽ phải cầu xin với các con.
89. Từ mẫu cũng như nghiêm phụ ta
Phải đều được kính trọng tôn thờ,
Hiền nhân tán thán người nào có
Những đức tính này tỏ lộ ra.
90. Song thân như vậy đáng tuyên dương,
Giữ địa vị cao cả khác thường,
Được gọi "Phạm thiên" do cổ đức,
Uy danh hai vị lớn khôn lường.
91. Song thân hiền phải được tôn vinh
Xứng đáng từ con cái của mình,
Người dưỡng mẹ cha theo chánh hạnh
Là người có trí tuệ thông minh.
92. Đem dâng thức uống với đồ ăn
Sàng tọa và y phục xứng phần,
Phải tắm mẹ cha, dầu tẩm ướt,
Rửa cho sạch sẽ cả đôi chân.
93. Bậc trí tán dương các việc trên,
Làm con phụng sự mẹ cha hiền,
Hân hoan tràn ngập trên trần thế,
Thân hoại, an vui hưởng cõi thiên.
Mẹ quỳ trước mỗi một đền thần,
Bốn mùa thay đổi thường quan sát,
Khảo cứu thiên văn thật tận tường.
75. Hoài thai theo với khoảng thời gian,
Mẹ thấy lòng mong đợi dịu dàng,
Thoáng chốc hài nhi vô ý thức
Bắt đầu quen biết một thân bằng.
76. Suốt khoảng thai kỳ ngót một năm,
Mẹ chăm chút kỹ một kho tàng,
Rồi sau sinh hạ con yêu quý,
Ngày ấy vui lòng tiếng "mẹ" mang.
77. Với bầu sữa, mẹ hát ru con,
Xoa dịu hài nhi khóc nỉ non,
Ấp ủ trong vòng tay ấm áp,
Nỗi đau của trẻ được xua tan.
78. Trông nom trẻ tội nghiệp thơ ngây,
Sợ nắng gió làm hại trẻ đây,
Được gọi vú nuôi, thôi cũng được,
Nâng niu con trẻ cứ như vầy.
79. Tài vật nào cha mẹ có đây,
Mẹ dành cho trẻ để sau này,
Bà suy: "Cũng có ngày con hỡi,
Gia sản may ra đến tận tay".
80. "Hãy làm này nọ, bé yêu ơi",
Bà mẹ lo âu gọi thế hoài,
Khi trẻ thành người trai lực lưỡng,
Mẹ còn kêu khóc, thở than dài.
Nó liều lĩnh dám đi tìm gặp
Vợ láng giềng nhân lúc tối trời.
Mẹ giận dữ la rầy cáu kỉnh:
"Sao không trở lại lúc ban mai?"
81. Nếu được nuôi đầy khổ nhọc vầy,
Mà người xao lãng mẹ hiền này,
Chơi trò gian dối, thì ta hỏi,
Còn đợi gì ngoài ngục đọa đày?
82. Nếu được nuôi đầy khổ nhọc vầy,
Mà người xao lãng phụ thân này,
Chơi trò gian dối, thì ta hỏi,
Còn đợi gì ngoài ngục đọa đày?
83. Kẻ nào tài sản quá mê say,
Tài sản mất đi cũng có ngày,
Còn kẻ thờ ơ xao lãng mẹ,
Hối hận vì tai hại đắng cay.
84. Kẻ nào tài sản quá mê say,
Tài sản mất đi cũng có ngày,
Còn kẻ thờ ơ thân phụ nó,
Hối hận vì tai hại đắng cay.
85. An vui nhàn nhã, với cười đùa,
Giải trí, là tài sản tại gia
Của kẻ chăm lo đầy tận tụy
Mẫu thân khi tuổi tác già nua.
86. An vui nhàn nhã, với cười đùa,
Giải trí, là tài sản tại gia
Của kẻ chăm lo đầy tận tụy
Phụ thân khi tuổi tác già nua.
87. Quà tặng cùng lời nói dễ thương,
Ân cần phục vụ cạnh song đường,
Nhiệt tình tâm trí luôn bình đẳng
Bày tỏ đúng thời, đúng chốn luôn.
88. Những đức tính này đối thế nhân,
Giống như mấu trục bánh xe lăn,
Nếu không có chúng, thì tên mẹ
Sẽ phải cầu xin với các con.
89. Từ mẫu cũng như nghiêm phụ ta
Phải đều được kính trọng tôn thờ,
Hiền nhân tán thán người nào có
Những đức tính này tỏ lộ ra.
90. Song thân như vậy đáng tuyên dương,
Giữ địa vị cao cả khác thường,
Được gọi "Phạm thiên" do cổ đức,
Uy danh hai vị lớn khôn lường.
91. Song thân hiền phải được tôn vinh
Xứng đáng từ con cái của mình,
Người dưỡng mẹ cha theo chánh hạnh
Là người có trí tuệ thông minh.
92. Đem dâng thức uống với đồ ăn
Sàng tọa và y phục xứng phần,
Phải tắm mẹ cha, dầu tẩm ướt,
Rửa cho sạch sẽ cả đôi chân.
93. Bậc trí tán dương các việc trên,
Làm con phụng sự mẹ cha hiền,
Hân hoan tràn ngập trên trần thế,
Thân hoại, an vui hưởng cõi thiên.
Như
vậy bậc Đại Sĩ chấm dứt Pháp
thoại khác nào làm cho núi Sineru (Tu-di) rung chuyển. Nghe ngài nói, tất cả
các quốc vương cùng đoàn tùy tùng đến trở thành những kẻ mộ đạo. Vì vậy sau đó an trú hội chúng vào Ngũ giới và khuyến giáo
họ tính cần bố thí cùng các đức tính tương tự, ngài
bảo họ ra về.
Sau
khi cai trị quốc độ một cách chân chánh,
vào cuối đời tất cả các vua ấy
đều đi lên cộng trú với chư Thiên.
Hai
Hiền giả Sona và Nanda suốt đời sống phụng sự cha mẹ
và về sau được sinh Phạm thiên
giới.
*
Đến đây
bậc Đạo Sư chấm dứt Pháp thoại, Ngài tuyên thuyết các Thánh Đế và nhận diện Tiền thân.
Lúc kết
thúc các Thánh Đế, vị Tỷ-kheo phụng dưỡng mẹ được an trú vào Sơ quả Dự lưu:
- Thời
ấy, song thân là phụ mẫu trong hoàng gia, Hiền giả Nanda là Ànanda, vua Manoja
là Sàriputta, một trăm lẻ một vị vua là tám mươi đại Trưởng lão và một số vị
khác, hai mươi bốnđạo quân là đệ tử đức Phật, còn Hiền giả Sona chính là Ta.
-ooOoo-
0 Komentar