PHẬT GIÁO TRONG THƠ BÙI GIÁNG
Yến Tử
Yến Tử
Với thứ ngôn ngữ đó, Bùi Giáng đã đưa kinh Phật về với cõi
ba đào tuý luý tình mộng đổ xiêu của mình, cõi thơ Bùi Giáng trở nên lãng đãng
bóng dáng, ngôn ngữ tinh mật thuyết thoại cùng bể dâu tuế nguyệt. Thơ Bùi Giáng
vì vậy thấy gần gũi mà xa lạ; giản dị mà khó hiểu vô cùng.
Bùi Giáng suốt kiếp rong chơi – rong chơi cả trong tư tưởng,
mặc dù ông đã phiêu du qua lắm ngõ ngách của cõi Đông – Tây nhưng chưa một lần
ông chọn cho mình một ốc đảo cụ thể nào để quay về nương tựa. Trong ông là cả
một đống tư tưởng hỗn-độn-hoà-hiệp của “đìu hiu con nhạn Hocderlin, con ngỗng
trời bất tuyệt Nguyễn Du, con hạc vàng huyền ảo Nervel, con sư tử hống thời
phương thảo lục Nietzsche”, của đức Lão, đức Khâu, đức Phật…
Công bằng mà nói, Phật giáo là nguồn “tài trợ” hào phóng cho
cả thơ và đời Bùi Giáng. Xét về lối sống, Bùi Giáng đã phụng hiến cả đời mình.
Ông học thói tiêu dao đã lệch xiêu của Đạo giáo, học kiểu sống tuỳ duyên, sắc
sắc không không của Phật giáo theo cố chấp riêng của mình… Nhưng đậm đặc hơn cả
vẫn là tư tưởng của Phật giáo. Ở điểm này, chưa thấy tu sĩ Phật giáo nào “học
cùng bài” với ông lại làm như ông cả. Bởi ông là môt dạng thức của việc áp dụng
thái quá và tổng hợp những tư tưởng mà ông học hỏi được. Vì vậy mà Bùi Giáng
sống một đời phá chấp phá tướng gần như huỷ hoại, cố vùng vẫy thoát ra mắc lưới
“chấp có lại dính chặt vào chấp không”: phá tướng phong nhã, hào hoa, nhà cao,
cửa rộng lại trở về ưu ái chiếc áo trùng điệp màu sắc bẩn thỉu, quần lớp ba lớp
bảy ngắn ngoài dài trong, ngủ phố, ngủ hè…
Phật dạy con người trở về với bản lai diện mục, Bùi Giáng hô
hào đi tìm “nguyên mộng”, “nguyên xuân” và “trở về cố quận”. Thế giới thơ Bùi
Giáng là thế giới biểu tượng thơ mộng và dịch giải ra, ấy là lời Phật. Bùi
Giáng có lúc cao hứng còn cho rằng: có ngày “mưa nguồn”* sẽ chuyển dịch thành
“kinh điển thơ ca… lúc đó Tăng Ni… sẽ ngâm thơ thay cho tụng kinh đọc chú”. Bùi
Giáng nói như vậy, tất nhiên, trừ ông ra mãi mãi sẽ không có ai nói lời tương
tự. Cho nên, nội lực thâm hậu của Bùi Giáng chỉ có thể là “tiếp dẫn đạo sư” cho
nguồn thơ Việt, là ngọn gió tọc mạch khiến cho mây bình nguyên vần vũ đảo điên
chứ không thể không ít nhiều làm đổ rụng, xiêu lệch tư tưởng Phật giáo uyên
nguyên. Nhưng trừ những cố chấp đó ra, Bùi Giáng vẫn tỏ ra xứng đáng với danh
hiệu “thi sĩ Bồ tát” mà giới bạn đọc đã dành tặng cho ông.
Xưa nay người ta nói nhiều về chữ “Tâm”: Nguyễn Du “lẩm cẩm”
nói đi nói lại trong “Kiều”; Nguyễn Trãi bằng cách này cách nọ cũng mang chữ
“Tâm” đi thuyết thoại lòng người; Trịnh Công Sơn diết da gào kêu đằm thắm:
“Sống trên đời sống cần có một tấm lòng”… và đến Bùi Giáng thì “tướng tuỳ tâm
hiện”. Nhưng “tâm” Bùi Giáng thì hiện rặt những tồn hoạt đổ xiêu, trăng thuở
trước, sóng ngàn sau… Qua đổ rụng thấy hoa lá rung rinh, qua thể thân chuyển
dịch thấy thể thân được tao phùng với bao điều mới mẻ, tinh khôi trong mỗi
phút, mỗi giờ:
“Đường đi ngõ quạnh lang thang,
Niềm vui tao ngộ muôn vàn lạ thay.
Trái tim mỗi mỗi mỗi ngày,
Mỗi giờ phút đọng mây trời rung rinh”.
Niềm vui tao ngộ muôn vàn lạ thay.
Trái tim mỗi mỗi mỗi ngày,
Mỗi giờ phút đọng mây trời rung rinh”.
Ấy là sự chuyển dịch, đổi thay của không gian, thời gian,
bản chất và hiện tượng. Thời gian đi là nước đi. Hay đời người cũng đi? Bùi
Giáng buộc mình ý thức trong từng sát-na sự ra đi của xác thân, của tình yêu,
của vạn vật trong cõi ban sơ:
– Thân xương máu đã đành là uỷ mị.
– Em ở lại với đời ta em nhé.
– Em về mấy thế kỷ sau.
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không.
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không.
“Mỗi sáng tôi nhìn mặt trời mọc trong mây,
Mỗi chiều tôi nhìn mặt trời lặn trong mây,
Suốt ngày tôi lắng tai nghe tiếng chim hót trong lá cây reo,
Và nhìn thấy rất nhiều mùa xuân mênh mông đang đi tới”.
(Nhìn thấy – “Đêm ngắm trăng” tr.27)
Mỗi chiều tôi nhìn mặt trời lặn trong mây,
Suốt ngày tôi lắng tai nghe tiếng chim hót trong lá cây reo,
Và nhìn thấy rất nhiều mùa xuân mênh mông đang đi tới”.
(Nhìn thấy – “Đêm ngắm trăng” tr.27)
Có ý thức từng hơi thở vào ra mới thấy sự quý trọng và cần
thiết của hơi thở. Bình lặng thở vào, mỉm cười thở ra, dẫu “mặt trời lặn”, “mặt
trời mọc” thì hơi thở cũng trong lành và tĩnh tại.
Nhìn vạn vật đổi thay, em hãy là tấm gương sáng trong để tất
cả qua đi soi mình vào đó. Sống là phụng hiến, là vươn lên. Nếu em buông thả
cho tất cả qua đi trong vô ý thức, cuộc đời sẽ xám đen một màu ảm đạm. Đừng tỏ
ra bất cần và chẳng hề tỉnh táo để nhận diện sự mầu nhiệm xung quanh. Nhưng nếu
em “đưa tay nắm bắt để cầm; (em sẽ) nghe trong chút nắng sương chầm chậm bay”.
Nắng giữ chẳng được, buông thả không xong, tất cả qua đi trong ý thức. Cứ nghe
chim hót, lá reo. Cứ nhìn mặt trời mọc, mặt trời lặn mỗi sớm, mỗi chiều để thấy
một bình minh, một mặt trăng đang nhón gót đến gần. Đừng cố níu giữ làm gì, rồi
mặt trời sẽ mọc, mặt trời sẽ lặn, mỗi ngày mỗi mới, em sẽ tìm ra đúng nghĩa một
đời vui.
Tha thiết cầu cứu cho chuồn chuồn, châu chấu, nguyên mộng,
nguyên xuân… thơ Bùi Giáng vì vậy văng vẳng lời kêu “phản quan tự kỷ”. Chỉ với
thiên nhiên huyền nhiệm, ta đã giàu có mà ta lại làm “cùng tử lang thang” đi
tìm cầu mọi thứ để khi sức mòn lực kiệt mới thảng thốt gào kêu: Cố hương ơi,
đường trở về sao quá xa xôi! Ôi quê hương, cố quận! Ôi, nguyên mộng, nguyên
xuân! Cuối cùng rồi ta cũng gặp ngươi, gặp lại tình ta. Hoát nhiên ta “đại ngộ”
vì sao Bùi Giáng nói:
“Hỏi rằng người ở quê đâu
Thưa rằng tôi ở rất lâu quê nhà”.
Thưa rằng tôi ở rất lâu quê nhà”.
hay :
“Từ đâu ngươi đến? – Từ đây ta về”.
Hành trình lữ thứ để quy hồi cố quận, có ai ngờ, càng đi
càng xa. Hãy đi để trở về, “hãy đến đi để thấy”, “hãy như thực tri chứng”. Cũng
như:
“Người nằm ngủ thấy gì,
Thấy rất nhiều nắng lạ,
Những chùm bông rất xanh,
Có lẽ bông là lá.
Người nằm ngủ thấy gì,
Chẳng thấy gì hết cả.
Ngài thử nằm ngủ đi,
Đừng hỏi gì hết cả”.
(Có lẽ – “Mưa nguồn…” tr. 359)
Thấy rất nhiều nắng lạ,
Những chùm bông rất xanh,
Có lẽ bông là lá.
Người nằm ngủ thấy gì,
Chẳng thấy gì hết cả.
Ngài thử nằm ngủ đi,
Đừng hỏi gì hết cả”.
(Có lẽ – “Mưa nguồn…” tr. 359)
Nắng, lá, bông ngươi thấy không như thấy. Cái ngươi thấy sẽ
khác cái ta thấy. Hãy ngủ đi để thấy, hỏi có ích gì. Hãy bỏ chân xuống tháng
ngày, đừng bắt chước bọn thi sĩ lếu láo “quanh năm ru rú trong tháp ngà mà liên
miên thuyết thoại về dâu biển tinh sương chan hoà tuế nguyệt”? Lời suông có ích
gì, chỉ méo mó xiêu lệch mà thôi. Không ai lấy cắp được đoá hoa trong tâm hồn
người khác, mặt trăng rỗng tuếch tư niệm soi xuống nhân gian như ngàn vạn đoá
hoa dâng tặng hồn người. Bùi Giáng cảm nhận được và cố chỉ cho người khác nhưng
lại khuyến cáo “ngón tay không phải là mặt trăng”. Không đến sẽ không thấy, kẻ
“như thực tri chứng” trong trường hợp này chỉ biết ngước mắt nhìn trăng thơ
mộng mà cảm thương: ước gì ta có thể cho ngươi vầng trăng đẹp này!
Đọc thơ Bùi Giáng không bằng hiểu Bùi Giáng. Hiểu Bùi Giáng
không bằng cùng Bùi Giáng bỏ chân xuống tháng ngày. Bảo rằng nhìn thơ Bùi Giáng
qua nhãn quan Phật giáo là nhạt nhẽo, méo mó… Hãy đến đi, để thấy… Dẫu sao, Bùi
Giáng cũng từng nhắn nhủ: “Chúng ta quên một cách quá dễ dàng, vắng một nhà tư
tưởng tác động một cách thiết cốt nhất, chính là những điểm ông bị kích bác hơn
là những điểm ông được tán đồng”. Biết vậy, Bùi Giáng mặc ai khen, ai chê, đã
“tự tại với tâm” thì “tự tại với pháp”.
Yến Tử
Ý thức rằng màu sương đang mòn ruỗng, chiếc lá chuyển màu,
dòng nước miệt mài trôi và những yêu thương rồi cũng mất… là những ý thức tạo
nên nghị lực sống thù thắng phi thường, một can đảm để chấp thuận ngang ngửa bể
dâu, dù lắm lúc cũng dở khóc cười và chất ngất điêu linh. Nhưng … hãy mỉm cười
đi, trong huỷ diệt đã sẵn mầm sự sống, trong buốt giá mùa đông “thấy rất nhiều
mùa xuân mênh mông đang đi tới”:
0 Komentar