HỒ XUÂN HƯƠNG & PHẬT GIÁO
TS Phạm Trọng Chánh
TS Phạm Trọng Chánh
Một Hồ
Xuân Hương mắng bọn đốt đến cửa thiền, là «phường lòi tói », đề thơ dở làm
dơ bẩn nhà chùa: «muốn sống đem vôi quét trả đền», mà lại đồng thời làm thơ
bẩn, bôi nhọ nhà chùa, viết những câu thơ tối tăm, gượng ép: « đáo nơi
neo», «trưa trật nào người móc kẻ rêu», một phụ nữ đến chùa mà mang «rượu lưng
hồ» uống, một trong năm giới cấm nhà Phật.
Những câu
thơ bẩn thỉu, hạ cấp, gượng ép, hiểu biết kém cỏi về Phật Giáo, chỉ biết đả
kích Phật Giáo qua bề ngoài : «sư đầu trọc lóc», «áo không
tà », « lần tràng hạt đấm lại đeo», «giọng hi ha»… hay kết án
những điều vô chứng cớ : « vãi núp sau lưng sáu bảy bà ». Sư
mà có đến sáu bảy bà vợ núp sau lưng mà làng xóm, đồng bào Phật tử để yên cho
sao ?
Những bài
thơ tệ hại ấy, những câu thơ nguyên tác bị sửa đổi, được gán cho Hồ Xuân Hương
từ một thế kỷ nay, nhiều nhà văn học tiếng tăm cũng không dám suy xét, nguồn gốc
từ đâu, không ai dám đụng đến, mà còn say sưa ca tụng như những câu thơ
« cách mạng » giải phóng phụ nữ, đập đổ tư tưởng phong
kiến ? Có những câu thơ dỡ thậm tệ, không có gì là văn chương, nhưng
chỉ vì được gán cho Hồ Xuân Hương, mà người đời cứ nhắm mắt khen hay !
Những khám
phá các văn bản : Lưu Hương Ký, Hương Đình Cổ Nguyệt Thi tập, thơ Vịnh Hạ
Long, thơ Vịnh Cảnh Đồ Sơn.. của các Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn, Giáo Sư Trần Văn
Giáp, Học Giả Trần Thanh Mại, cụ Cử Nguyễn Văn Tú tại các thư viện trong nước
và ngoài nước đã đánh đổ những bài thơ ngụy tạo gán cho Hồ Xuân Hương nhằm đánh
đổ Phật Giáo mới sáng tác vào đầu thời Pháp thuộc cuối thế kỷ 19 : Hang
Thánh hóa, Chùa Quán Sứ, Vịnh ni sư, Chùa xưa, Hang cắc cớ, Sư bị ong châm, Sư
bị làng đuổi…
Trái với những bài thơ ngụy tạo, dốt đặc cán
mai về Phật Giáo, những bài thơ có chứng cớ tác giả Hồ Xuân Hương đề vịnh cảnh
chùa ở Đồ Sơn cụ Trần Văn Giáp tìm thấy chép trong Phượng Sơn Từ Chí Lược, GS
Cao Xuân Huy cũng tìm thấy trong thư viện Cao Xuân Dục, bài thơ đề Trấn Quốc Tự
chép trong Hương Đình Cổ Nguyệt tìm thấy trong tủ sách gia đình cụ Trần Xuân
Hảo ở xã Hải Trung, huyện Hải Hậu, Nam Hà. Thơ Hồ Xuân Hương vịnh cảnh Hạ Long
giáo sư Hoàng Xuân Hãn tìm thấy trong kho sách Hán Nôm thư viện Quốc Gia Paris.. cho ta thấy Hồ
Xuân Hương là« một phụ nữ học rộng và thuần thục » như lời Tốn Phong
viết bài tựa Lưu Hương Ký, bà tinh thông Nho, Phật, Lão, nhất là về Phật Giáo
bà có một kiến thức khá rộng và uyên bác.
Tiêu biểu
cho tư tưởng, kiến thức Hồ Xuân Hương về Phật Giáo là 9 bài thơ Vịnh Cảnh Đồ
Sơn. Chín bài thơ này Hồ Xuân Hương làm trong khoảng thời gian 1816-1818 lúc
chung sống với Tham Hiệp Yên Quảng Trần Phúc Hiển. Hồ Xuân Hương đi thăm các
thắng cảnh chùa Đông Sơn, thời ấy đã hoang tàn, do cuộc khởi nghĩa nhà sư Phạm
Ngọc (1418-1420) chống nhà Minh đô hộ, cuộc khởi nghĩa này được sách sử nhà
Minh chép nhiều (Minh Thực Lục. Quan hệ Trung Quốc—Việt Nam thế kỷ XIV-XVII ,nxb
Hà Nội 2011) ông Hồ Bạch Thảo, đã bỏ công tìm lục trong thư viện Hoa Kỳ, và
dịch các đoạn Minh Sử sử liên hệ đến Việt Nam mà trong sử ta chỉ ghi vài
dòng. Cuộc khởi nghĩa quy tụ hàng vạn người dựa thế Đồ Sơn, vịnh Hạ Long làm
điêu đứng nhà Minh, nhưng rồi bị dập tắt trong máu lửa, chỉ còn lại các cảnh
chùa trên núi Đông Sơn bị hoang tàn.
Truyền
thống giữ nước của các nhà sư và Phật Tử Việt Nam, bắt nguồn từ những năm tháng
đen tối thời Bắc Thuộc, chung một truyền thống với các phái thiền Trung Quốc,
Nhật Bản, Triều Tiên để thư giản sau khi ngồi thiền các nhà sư luyện tập võ
nghệ, nội công. Chùa Thiếu Lâm Tự nơi Bồ Đề Đạt Ma đến hành đạo cũng là nơi
phát xuất võ nghệ Thiếu Lâm, nguồn cội các phái võ nghệ. Các phái thiền truyền
đến Việt Nam, chung truyền thống đó, các nhà sư Tây Trúc, Trung Quốc đến truyền
đạo. Các phái võ truyền qua đệ tử hay gia đình, một người Việt Nam lý tưởng
trong xã hội ngày xưa là« văn võ song toàn », các quan Việt Nam từ
quan văn sang quan võ là chuyện bình thường. Thi hào Nguyễn Du, sau khi đậu Tam
Trường, nhậm chức đầu tiên là chức quan võ : Chánh Thủ Hiệu Quân Hùng Hậu
Hiệu, chỉ huy đội quân tinh nhuệ nhất trấn Thái Nguyên, đại diện cho binh quyền
của anh, là Nguyễn Khản, Thượng Thư Bộ Lại kiêm trấn thủ Thái Nguyên, Hưng Hóa
với sự trợ giúp của Cai Gia tức Nguyễn Đại Lang, nhân vật này có tên trong
Hoàng Lê Nhất Thống Chí.. Nguyễn Huy Tự tác giả Hoa Tiên, con rễ Nguyễn Khản,
quan văn dạy học cho Thế Tử chúa Trịnh, chuyển sang quan võ làm quan Trấn
Thủ Hưng Hóa. Tiến Sĩ Ngô Thời Nhậm, Nguyễn Công Trứ từng giữ chức Binh Bộ
Thượng Thư. Thi hào Cao Bá Quát, khi triều đình không xứng đáng đã dựng cờ khởi
nghĩa « Bình Dương, Bồ Bản vô Nghiêu Thuấn, Mục Dã, Thanh Điền hữu Võ
Thang ».Sách sử Việt Nam ít chép việc học tập võ nghệ, và nghề võ cũng như
các nghề khác trong xã hội Việt Nam thường được giữ bí mật chỉ truyền cho đệ
tử, hay con trai.Thời nhà Lê mới thấy xuất hiện Trường Giảng Võ và các kỳ thi
Võ, trước đó chỉ thấy từ nhà chùa Việt Nam xuất hiện ra các đệ tử trở thành võ
tướng, nhà sư lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa chống xâm lăng, trước cả Trung
Quốc, sự kiện nhà sư Chu Nguyên Chương, lãnh đạo đánh đuổi Mông Cổ, nhà
Nguyên lập ra nhà Minh( 1368-1566).Điều tất yếu của các võ tướng là phải rất
giỏi võ, có sức mạnh hơn người, và đọc sách binh thư : nhà chùa là nhà
trường dạy người Việt biết đọc, dạy văn và dạy võ, từ nhà chùa đã đào tạo Lý
Bí, Lý Phật Tử, nhà Tiền Lý (544-602) thành lập nước Vạn Xuân, riêng Lý Phật Tử
cai trị trong 30 năm, nhà chùa đã đào tạo tướng quân Lý Công Uẩn thành
lập nhà Lý (1010-1225) hai trăm năm văn minh rực rỡ, và đến nhà Trần,ông vua
Phật Trần Nhân Tôn, ba lần lãnh đạo nhân dân chiến thắng quân Mông Cổ, xâm lược
từ Á sang Âu. Nhà chùa là trường học, nhân dân « phân nửa nước là sư
sãi », có những chùa chứa đến 5, 10 ngàn người, họ không phải là
« nông nô », thực sự là họ đến chùa học tập trong một thời võ, tự
trồng trọt, cày cấy, tự nuôi sống…một số ít tiếp tục trở thành nhà sư, phần lớn
trở về đời sống gian, học văn, học người thường. Khi chiến
tranh, những đội quân đầu trọc ra chiến trận, nhưng khi thắng lợi không
thấy họở lại để nhận danh lợi, chức tước, mà lui về đời sống tu hành, nhiệm vụ
của họ là bảo vệ nền tảng đạo lý dân tộc, năm giới nhà Phật : « không
giết người, không trộm cắp, không nói dối, không tà hạnh, không rượu chè »
là nền tảng bảo vệ cho xã hội an lành, đạo đức, yểm trợ cho triều đại Lý, Trần
« phòng bệnh » luật pháp, các tệ nạn xã hội, xem kỹ thì luật pháp
ngày xưa cũng như ngày nay không ngoài năm điều phạm tội ấy. Chỉ thấy thời đại
Lý Trần cất chùa mà không thấy xây nhà tù, đào tạo cai tù, hay dùng các
hình phạt : tru di tam tộc, lăng trì, tứ mã phanh thây, chuồng cọp, vạc
dầu.. cực kỳ hung ác như các thời đại khác. Thời đại Lý Trần đã lo việc phòng
bệnh hơn là việc chữa bệnh, trừng phạt. Giai đoạn đất nước đô hộ nhà Minh trước
cuộc khởi nghĩa Lê Lợi, có cuộc khởi nghĩa nhà sư Phạm Ngọc làm quan tướng cai
trị nhà Minh điêu đứng.. Hồ Xuân Hương đã đến Đồ Sơn, nơi di tích cuộc khởi
nghĩa nhà sư Phạm Ngọc.
Thời Pháp
thuộc, ngay từ khi Pháp đánh Sài gòn năm 1862, hai mươi ngôi chùa Sài
Gòn : Cây Mai, Khải Tường, Kiểng Phước.. đã trở thành « Chiến lũy
chùa chiền ». Liên quân Pháp, Tây Ban Nha đãđem đại quân phá sạch. Các nhà
sư đã làm gì mà người Pháp phải gọi đó là« chiến lũy » ?. Rồi
tiếp đến đồng thời với cuộc khởi nghĩa các sĩ phu nho sĩ có các cuộc khởi nghĩa
các tăng sĩ : Ngô Lợi (1831-1890), Mạc Đình Phúc (1849-1897), Nguyễn Văn
Quý, Vương Quốc Chính(1898), Võ Trứ ( – 1898) Phan Xích Long, Nguyễn Hữu Trí
(1916). Các nhà sư làm gì mà người Pháp gọi là « giặc thầy
chùa », « giặc đầu trọc », các nhà sư tham gia đông đảo thế
nào mà người Pháp gọi là giặc, nhà sư bị bắt nhốt chật các khám đường, bị bắt
hàng ngàn người, hàng chục ngàn người ?.. riêng vụ Phan Xích Long có 57
người bị bắn, 6 người tại trận và 51 người bị đem ra tử hình tại Sài Gòn (nhiều
hơn cả cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930). Việc này liên quan đến Hồ Xuân
Hương vìđó là thời điểm xuất hiện những câu thơ mạo danh Hồ Xuân Hương
nhằm đánh đổ Phật Giáo, những câu thơ ngạo mạn khi nhìn thấy hàng ngàn nhà sư
bị lùng bắt, có những nhà sư hiên ngang thú nhận tội chống Pháp và mắng chửi
cho đến khi lên đoạn đầu đài : « Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc
đầu ? », « Hỏi thăm sư cự đáo nơi neo ? » sư
« chái gió cho nên phải lộn lèo ? ». Những câu thơ đồng thời với
Tôn Thọ Tường : « Khuyên đàn con trẻ chớ thày lay » (con trẻđây
là các sĩ phu Nho học) . Kho tài liệu Bộ Thuộc Địa tại Paris còn lưu trữ
những tài liệu này đó là một đề tài sử học cho một thí sinh viết luận án tiến
sĩ tương lai, làm sáng tỏ một giai đoạn lịch sử còn u tối.
Trái với
quan điểm cho rằng thời Lê Trịnh đạo Phật đã suy vong cho nên Hồ Xuân Hương làm
thơ kích bác đạo Phật. Tiến Sĩ Phạm Quý Thích, pháp danh Thảo Đường cư sĩ,
trong Lập Trai Văn Tập đã cho rằng : « chưa bao giờ Phật Giáo thịnh
như lúc này ». Thật vậy thời đại Hồ Xuân Hương đông đảo trí thức đã tham
gia nghiên cứu đạo Phật. Tiến Sĩ Lê Quý Đôn viết Kinh Kim Cương chú giải, trở
thành quyển sách yêu chuộng của sĩ Phu Bắc Hà thời bấy giờ. Nguyễn Du ba năm
giang hồ Trung Quốc(1787-1790) mang theo quyển Kinh Kim Cương Chú giải bên
mình, đi « Giang Bắc Giang Nam cái túi không » đi từ Vân Nam lên
Trường An xuống Hàng Châu, đi muôn dậm (khoảng 5000km) « Muôn dậm mũ
vàng chiều nắng xế », bằng cách đội mũ vàng nhà sư, mang pháp danh Chí
Hiên,tụng Kinh Kim Cương làm công quả tại các chùa trên đường đi để kiếm bữa ăn
rau đậu :« Tôi đọc kinh Kim Cương nghìn lượt », tụng Kinh Kim
Cương trong ba năm. Tuy nhiên Nguyễn Du đã thích ứng với Pháp môn Thiền của
ngài Huệ Năng hơn, « Lòng ta thường định chẳng xa thiền ». Ngô Thời
Nhiệm (1746-1803) cuối đời đã trở thành Hải Lượng Thiền Sư viết sách Trúc Lâm
tông chỉ nguyên thanh, được xưng tụng là Trúc Lâm Đệ Tứ Tổ(Sau vua Trần Nhân
Tông, Pháp Loa và Huyền Quang). Phan Huy Ích (1751-1822) cũng tham gia soạn và
viết tựa cho Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh. Trong việc nghiên cứu kinh Phật
trong thời đại này ta còn thấy những tên tuổi nổi danh Ngô Thì Hoành em ruột
Ngô Thời Nhậm, phật hiệu Hải Huyền. Tiến Sĩ Vũ Trinh ( ? -1828) anh
rễ Nguyễn Du, Phật hiệu Hải Âu Hoà Thượng. Nguyễn Đăng Sở (1753- ?)
Phật hiệu Hải Hoà Tăng và Nguyễn Hành (Nguyễn Đàm) con trai thứ Điền Nhạc Hầu
Nguyễn Điều, cháu Nguyễn Du, một trong 5 nhà thơ lớn đương thời,, pháp danh Hải
Điền… Trong thời đại này những ngôi chùa lớn như chùa Tây Phương được xây dựng,
và các ngôi chúa Trấn Quốc, Kim Liên, chùa Thầy, chùa Trăm Gian.. đều được
trùng tu.(Xem Thơ Văn Ngô Thời Nhậm. Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh. Nxb KHXH
1978)
Hồ Xuân
Hương có một kiến thức khá rộng và uyên bác về Phật Giáo trong thơ chữ Hán,
phản ánh trình độ chung về Phật pháp trong thời đại Lê Trịnh, đầu thời
Nguyễn,điều đó phản bác những bài thơ gán cho Hồ Xuân Hương viết bởi người dốt
đặc cán mai về Phật Giáo viết vào đầu thời Pháp thuộc. Tinh thần Phật Giáo
trong Hồ Xuân Hương nhuần nhuyễn nên khi viết về đảo núi Thầy Tăng Vịnh Hạ
Long, Hồ Xuân Hương đã viết : « Phản phất vân đồi đầu ám điểm, Cao
Tăng ưng hữu tọa đàm kinh ». (Phản phất mây buông trời sụp tối, Cao Tăng
đâu đó tụng thời kinh). Khi Tham Hiệp Trần Phúc Hiển bị bắt năm 1818, Hồ
Xuân Hương đi cầu cứu quan Tào Binh Bắc Thành Trần Quang Tĩnh, người bạn
thơ đã từng muốn ngỏ lời cưới bà, Trần Quang Tĩnh lánh mặt : Xuân Hương
viết trong bài Bán chẩm thư hoài, Nỗi niềm gối lẽ : « Ngâm
khách hữu thần lai sắc tướng, Tình ma vô lực khướt sầu binh » ( Ngâm khách
thế thần đâu sắc tướng, Tình ma không sức đuổi sầu binh), đêm chữ sắc tướng
nhà Phật, « sắc tức thị không không tức thị sắc », mà đối với chữ sầu
binh, tình nàng như tình với ma nỗi buồn đến đông như một lũ âm binh, thật là
tuyệt diệu, phải là người thấm nhuần đạo Phật đến độ nào, trong đau thương mà
vẫn viết được những câu như thế. Tiêu biểu cho kiến thức Hồ Xuân Hương về
Phật Giáo là chín bài thơ Vịnh Tám Cảnh Đồ Sơn.
Cảnh thứ
nhất Hóng mát núi Đông Sơn : Phía Đông Đồ Sơn có núi gọi làĐông Sơn, từ xa
nhìn như yên ngựa, trông cánh rừng thấp thoáng cổng chùa và ngôi chùa cổ, có
hang Giang của đá mênh mông. Khách đến chơi dừng thuyền trong đêm trăng sáng,
nghe tiếng ai nằm ngâm thơ giữa tảng đá phẳng lớn. Non núi nào hay những biến
đổi thời gian, nay biển xanh mai thành ruộng dâu. Bên trời núi sừng sững chắn
gió dữ.
Tôi dịch
như sau :
VỊNH TÁM
CẢNH ĐỒ SƠN
Bài
I : HÓNG MÁT ĐÔNG SƠN
Đông Đồ
Sơn, núi gọi Đông Sơn,
Yên
ngựa hình non xa thoảng trông.
Cổ tự,
cổng thiền rừng thấp thoáng,
Hang
Giang cửa động đá mênh mông.
Thả
thuyền khách hát trong trăng sáng,
Nằm
khểnh ai ngâm giữa thạch bàn.
Non núi
nào hay dâu biển mãi,
Bên
trời sừng sững chắn cuồng phong.
Nguyên tác
phiên âm Hán Việt
- ĐÔNG SƠN THỪA
LƯƠNG
Đồ Sơn
chi đông viết Đông Sơn,
Dao
vọng sơn hình tự mã yên.
Cổ tự
môn tòng lâm lộc xuất,
Giang
phi động tại thạch bình gian.
Phiếm
châu hữu khách ca minh nguyệt,
Cao
ngận hà nhân vịnh thạch bàn.
Sơn
đỉnh bất tri tang hải biến.
Ngật
nhiên chi trụ chướng cuồng lan.
Chú thích:
Mã Yên:
Núi Đông Sơn ở Đồ Sơn có hình yên ngựa, hai đầu cao khoảng giữa trủng xuống.
Tang hải:
biển xanh hóa thành ruộng dâu, chỉ những biến đổi do cuộc khởi nghĩa chống nhà
Minh của nhà sư Phạm Ngọc, chùa chiền vùng Đồ Sơn bị đốt cháy, phá hủy.
Bài hai: Qua
chơi giếng rồng. Dưới núi Ngọc có dòng nước trong, thắm hoà xuyên qua các khe
đá rót vào dòng sông. Nước trong như nước giếng Cổ Loa để rửa ngọc trai, và
hương thơm thanh khiết như nước miếng rồng. Suối róc rách tươi lên muôn ngàn
gốc cây đỏ, suối chan hòa dòng thắm qua vạn đồng xanh. Dâu phải là giếng riêng
cho một thôn ấp, nước của vị vua anh minh ban phước báu cho tất cả mọi người.
Bài
2: QUA CHƠI GIẾNG RỒNG
Dưới
núi Ngọc Sơn dòng nước trong,
Thấm
hòa xuyên đá rót trăm sông.
Hồn như
nước ngọc lên ngời sáng,
Thanh tựa
rải rồng tỏa ngát hương.
Róc
rách tưới lên ngàn gốc đỏ,
Chan
hoà dòng thấm vạn đồng xanh.
Há
riêng giếng nước cho thôn ấp,
Chu cấp Minh Vương phước báu ban.
Nguyên tác
phiên âm Hán Việt:
Bài 2:
LONG TỈNH QUÁ TRẠC
Ngọc
Sơn sơn hạ tiểu khê biên,
Xuyên
thạch quyên quyên chú bách xuyên.
Nhuận
hoạt hồn như hòa ngọc dịch,
Thanh
hương sai khả thắng long diên.
Dư ba
tư tưởng thiên chu thụ,
Lưu
trạch xuyên xuyên vạn lục điền.
Tinh
diệp khởi ưng tư nhất ấp,
Minh
Vương dụng cấp phúc di thiên.
Chú thích:
Ngọc
dịch: nước giếng Cổ Loa dùng để rửa ngọc trai, ngọc trai sáng ra. Ngày xưa
Trung Quốc bắt nước ta triều cống nước giếng Cổ Loa; do tích Mỵ Châu Trọng
Thủy, Mỵ Châu bị Vua An Dương Vương chém chết máu con trai ăn vào hóa ra ngọc
trai. Trọng Thủy tự tửở giếng Cổ Loa, nên lấy nước giếng Cổ Loa rửa ngọc, ngọc
sẽ sáng lên.
Long diên:
là rải rồng, nước miếng cá Voi, long diên hương, một hải sản quý thơm ngon.
Minh
Vương: Là vị vua cai trị sáng suốt như Vua A Dục(Asoka) Ấn Độ cứ mỗi 30 dậm
trên đường đi cho đào giếng, trồng cây ăn trái, và dựng trụ khắc kinh lời Phật
dạy cho người đi đường nghỉ chân. Các vua nhà Đường Trung Quốc và nhà Lý Trần
noi theo việc này lập trường đình, đoản đình, thạch đình, giang đình.
Bài 3 Động
Phật thâm u. Tương truyền rằng Đức Phật Thích Ca ngày xưa ở núi Linh Thứu tại
Ấn Độ. Nhưng ông già trên núi lại bảo có dấu chân Phật trên núi Đồ Sơn. Cửa
động khi cạn, khi sâu phủ đầy cây cỏ dại. Còn những dòng chữ mờ nhạt
mòn bởi dấu rêu, Ngoài hồ có cầu soi bóng nơi thả đèn hoa đăng. Bến nước
có khe suối chảy hoài không cạn. Thiền gia hiểu việc trần gian: Sắc, những điều
thấy là không mà không là sắc, vì bản chất sự vật do nhiều yếu tố tạo
thành, tự nó không thật có.
Bài 3 PHẬT
ĐộNG THÂM U
Tương
truyền dấu Phật tại Linh Sơn,
Nay
được sơn ông chỉ đỉnh non.
Cửa
động nông sâu cây cỏ dại,
Chữ mờ
phai nhạt dấu rêu mòn.
Ngoài
hồ đèn thả cầu soi bóng,
Bến
nước khe trong chẳng cạn dòng.
Sắc tức
thị không không thị sắc,
Thiền
gia hiểu thế việc trần gian.
Nguyên tác
phiên âm Hán Việt:
PHẬT ĐộNG
TẦM U
Truyền
văn Phật tích tại Linh San,
Cận đắc
sơn ông chỉ thử gian.
Động
khẩu thiển thâm hoang thảo kính,
Tự ngân
nồng đậm ấn đài ban.
Phóng
đăng hồ ngoại kiều do tại,
Cấp
thủy biên khê tỉnh bất can.
Sắc tức
thị không, không thị sắc,
Thiền
gia đương tác như thị quan.
Chú thích:
Linh
Sơn(san): Núi Linh Thứu, một trong những nơi Phật ở và thuyết Kinh Pháp Hoa.
Sắc Không:
thuyết vô ngã, sắc là hình tướng, sự vật là có do nhiều yếu tố hợp lại mà
thành, là không vì tự nó không thật có.
Phóng
đăng: nơi thả đèn hoa sen, sau lễ Vu Lan.
Bài 4.
ĐĂNGĐÔNG SƠN TỰ KIẾN KÝ. Nhị thủ. Hai bài, Lên chơi chùa Đông Sơn.
Đông Sơn
cảnh đẹp soi bóng mặt hồ, các loài vịt quý bay về trong khói sương lên nhuộm
mùi thiền. Điểm trên đầu núi đá mưa rơi lất phất, ngàn hoa đào, hoa mai nở rộ
gió tung cánh hoa rụng bay lên. Chùa Đế Bà, nguyên là một cô gái địa phương bị
chúa Trịnh Giang cưỡng hiếp có thai, làng bắt tội thả bè trôi ra biển
chết, oan ức trở nên linh hiển thường hiện ra, dân làng lại lập chùa thờ gọi là
Đế Bà. Dấu vết chúa Trịnh Giang đi qua còn để lại nỗi oan ức. Có chiếc bè đi
qua bến sông chài cá, như bè từ qua biển khổ, trên bè có con chim bồ
nông ngủ đứng như vị sư lo cứu độ mà quên ăn mất ngủ
LÊN CHƠI
CHÙA ĐÔNG SƠN bài I
Đông
Sơn cảnh chiếm một hồ riêng,
Uyên
báu bay về khói pháp chen.
Đá núi
điểm đầu mưa phất xuống,
Nghìn
hoa nở rộ gió tung lên.
Đế Bà
hương hỏa thơm bên xóm,
Trịnh
Chúa xe qua vết cũ còn.
Cứu độ
bè từ qua biển khổ,
Chim âu
ngủ đứng bến ngư thôn.
Nguyên tác
phiên âm Hán Việt.
ĐĂNG ĐÔNG
SƠN TỰ KIẾN KÝ
Nhị thủ
I.
Đông
Sơn cảnh chiếm nhất hồ thiên,
Bảo áp
phi lai pháp giới yên.
Nham
thạch điểm đầu hoàn vũ hạ,
Thiên
hoa mãn thụ lộng phong tiền.
Đế Bà
hương hỏa phương lân cận,
Trịnh
Chúa xa luân cựu tích truyền.
Phổ độ
hàng từ siêu khổ ải,
Thuần
âu than hạ túc ngư thuyền.
Chú thích:
Bảo áp:
vịt báu, chim uyên là một loài vịt báu, con trống lông đủ màu rất đẹp thường đi
với con mái là chim ương một màu xám nâu. Tại các công viên Tây Phương thường
nuôi loại vịt này, thường gọi là vịt Nhật Bản hay vịt nhà quan.
Đế Bà: cô
gái địa phương bị chúa Trịnh Giang hiếp có thai, bị dân làng bắt tội thả bè
trôi sông chết oan ức thành linh hiển, dân làng lập miếu thờ tại Đồ Sơn.
Trịnh
Chúa: Chúa Trịnh Giang, vị chúa dâm ô vô độ, chơi bời xa xỉ, lại đào hầm làm
nhàở dưới đất để cho khỏi sợ sấm sét . Đoàn ThịĐiểm được cha nuôi là Thượng Thư
Lê Anh Tuấn tiến cung cho chúa Trịnh Giang nhưng bà từ chối. Trịnh Giang giết
hại nhiều công thần, giặc giả nổi lên khắp nơi, nên bị triều đình truất phế
nhường ngôi cho em là Trịnh Doanh.
Chim âu:
Xuân Hương dùng chimâu cho hợp niêm nhưng có lẽ là chim bồ nông vì nhà chài
thường nuôi bồ nông trên bè như gia súc dạy bắt cá, hình dáng bồ nông giống như
vị sư già. Chim âu là chim trời chẳng ai nuôi.
Bài II.
Con cò trắng bay qua sông, nước nối liền với trời, cảnh tùng lâm chùa
thiền trên núi khói mây bay qua. Nữ Vu trị thủy không kể mùa đông hay mùa hạ,
ngư phủ chèo thuyền người phía sau, người phía trước. Vị cao tăng ngộđạo chống
gậy xuống núi, giảng kinh hoằng pháp là hiện thân Phật Tổ giúp đời. Một mình
lên núi Đông Sơn dạo chơi, thi hứng đầy thuyền, trong ánh trăng sáng soi.
Cò
trắng qua sông nước nối trời,
Chùa
thiền một cảnh khói mây trôi.
Nữ Vu
trị thủy không đông hạ,
Ngư phủ
thuyền qua sau trước bơi.
Ngộ đạo
Cao tăng mang gậy xuống,
Hiện
thân Phật tổ đến đây rồi.
Một
mình lên núi Đông Sơn dạo,
Thi
hứng đầy thuyền trăng sáng soi.
Bài 5 THÁP
SƠN HOÀI CỔ. Nhìn tháp trên núi nhớ chuyện xưa.
Nhìn tháp
cũ, chùa xưa bị phá thời nhà Minh, vì cuộc khởi nghĩa của nhà sư Phạm Ngọc, chỉ
còn nền gạch, cỏ dại lan tràn, như vì Vua Dục Vương(Asoka) đã xa rồi nên
cảnh vật hoang tàn. Tiếng nước reo, như tiếng ngàn cân bảo khí, gươm giáo reo
vang. Chín bậc thềm chùa gạch ngói đều tang hoang. Người đốn củi tựa rìu bên đá
nằm ngủ. Tiếng trẻ mục đồng xua mấy con nghé xuống đồi hoang ăn cỏ. Lên
trên núi cao muốn hỏi nhà sư trên núi đạo mầu Đức Phật, nhưng chùa không còn
nữa, chỉ nghe tiếng chuông đâu đây vọng từ cuối rừng xa từ một ngôi chùa khác.
NHÌN THÁP
TRÊN NÚI NHỚ XƯA
Tháp cũ
nền xưa cỏ dại tràn,
Dục
Vương xa vắng cảnh hoang tàn.
Ngàn
cân bảo khí reo bên nước,
Chín
bậc phù đồ gạch ngói tan.
Tiều tử
tựa rìu bên đá ngủ,
Mục
đồng xua nghé xuống đồi hoang.
Lên cao
muốn hỏi sơn tăng đạo,
Chuông
vắng đâu đây vọng cuối ngàn.
Nguyên tác
phiên âm Hán Việt:
THÁP SƠN
HOÀI CỔ
Cổ tháp
di khư loạn thảo đôi,
Dục
Vương khứ hậu ủy hôi đồi.
Thiên
quân bảo khí minh lưu thủy,
Cửu cấp
phù đồ hóa kiếp hôi.
Tiều tử
ỷ kha miên thạch đắng,
Mục nhi
khu độc há sơn ôi.
Đăng
cao dục hội sơn tăng giảng,
Hà xứ
chung thanh khụ nhất hồi.
Chú thích:
Dục Vương.
Vua Asoka người đầu tiên thống nhất nước Ấn Độ thế kỷ thứ 3 trước công nguyên
bằng bạo lực, được các tu sĩ Phật Giáo giác ngộ, vua theo đạo Phật, tổ chức Kết
tập kinh điển lần thứ ba tại Pàtaliputta năm -252 (trước TL) và lập các 9
sứđoàn tăng già đem đạo Phật truyền bá khắp nơi đến tận Alexandrie Ai Cập,
Hy Lạp và Trung Quốc, Giao Châu. Sự kiện này trùng hợp với người Việt Nam theo
Đạo Phật đầu tiên được biết đến là Chữ Đồng Tử và Tiên Dung Công Chúa thời
Hùng Vương, học Phật với nhà sư Phật Quang. Tiên Dung Công Chúa là một phụ nữ
bản lĩnh, đi tắm biển (thời đó chưa có áo tắm bikini) chợt khám phá ra trong
màn tắm mình sau đám lau có anh chàng Chữ Đồng Tử, nghèo quá, không có cả cái
khố, nên sợ hải vùi thân dưới cát, cho là duyên tiền định, Tiên Dung nhất định
cưới làm chồng, bất chấp cả việc “môn đăng hộ đối” của vua Hùng, bỏ nhà đi xây
tổ uyên ương. Họ lập ra Phố Hiến, Hưng Yên buôn bán thịnh vượng với các thuyền
buôn các nước và trở nên giàu có hơn cả vua Hùng Vương. Tiên Dung Công Chúa là
“nhà tư bản” đầu tiên của nước ta, truyền thuyết họ xây dựng lâu đài cung điện
trong một đêm. Tiên Dung Công Chúa còn làm một việc “cách mạng” hơn nữa là gửi
chồng đi “du học” với nhà sư Phật Quang Ấn Độ (23 thế kỷ trước Ngô Bảo Châu),
tương truyền rằng Chữ Đồng Tử học được nhiều “ phép lạ”. Theo tôi,“phép lạ” Chữ
Đồng Tử học được là viết được từ số 1 đến số 9, và số 0, một phát minh vĩđại
của Ấn Độ mang đến cho nhân loại. Đức Phật trong kinh điển sử dụng rất nhiều
số: 1 giải thoát, 2 căn, 3 Bảo, 4 đế, 5 giới, 6 hoà (điều sống chung hoà
thuận),7 thức, 8 chánh đạo, 9 suối, 10 thiện, 12 nhân duyên, 18 La Hán..và số 0
niết bàn, số 0 đứng sau các số là có, mà trước các số là không. Trong lúc đương
thời, người Lạc Việt thời vua Hùng Vương còn đếm thắt nút, quanh thắt lưng
mang theo một đống dây(hình trên trống đồng Ngọc Lũ), Tây Gô Loa đi đâu cũng
mang một bịđá sỏi để làm toán(chữ toán, calcul của Pháp có nghĩa là đếm
sỏi)…và kết quả nhờ tính toán giỏi, mua một bán mười Tiên Dung Công Chúa và Chữ
Đồng Tửđã trở nên giàu có nhất nước. Tiên Dung bán giấy dó Giao Châu cho các
nhà sư Ấn Độ, do nhu cầu chép kinh Phật, dịch kinh cần rất nhiều giấy, Ấn Độ
chỉ có lá bối, lá buôn kinh chép mau mục. Có lẽ được sự trợ giúp của Chữ
Đồng Tử và Tiên Dung Công Chúa đạo Phật đã sớm bén rễ tại Việt Nam. Từ bốn vị
Thần Mưa, Thần Mây, Thần Sấm, Thần Chớp tôn giáo thời Hùng Vương đã nâng lên
thành bốn ngôi chùa Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Đạo Phật đã nâng
cao tôn giáo cổ truyền lên, mà không tạo ra cuộc thánh chiến tôn giáo. Sang thế
kỷ thứ hai sau TL, theo Thiền Uyển tập anh, trước khi Đạo Phật truyền qua Trung
Quốc thời Tam Quốc, Kinh đô Luy Lâu Việt Nam đã có 20 ngôi chùa, 15 bộ
kinh đã được dịch và 500 sư sãi.. Theo tôi, Chữ Đồng Tử và Tiên Dung Công Chúa
còn “hiện đại hóa“ đất nước vua Hùng bằng chiếc xe bò, kiểu mẫu từ Ấn
Độ được sản xuất 100% tại đất vua Hùng, nhờ đó dân Lạc Việt từ miền đất cao
Vĩnh Phú đã xuống khai thác vựa lúa đồng bằng sông Hồng và sông Lam và thay đổi
cả nếp sống người Lạc Việt bằng guồng quay tơ, dệt vải, tơ tằm trước đó
người thời vua Hùng mặc áo bằng lông chim và da thú (Mỵ Châu mặc áo lông
ngỗng).
Phù đồ:
nguyên là các bức tranh vẽ bằng cát màu (Tây Tạng), vẽ cúng dường rồi lại xóa,
các kiểu chùa tháp stupa, Nam Dương, Lào, Miến, Thái Lan, Miên đều theo kiến
trúc phù đồ. Phù đồ còn có nghĩa là chùa tháp.
Bài 6
THẠCH PHỐ QUAN NGƯ . Bến đá xem đánh cá. Trời gió im sóng lặng dạo
quanh bến sông Đồ Sơn, ngắm thuyền chài đậu giăng giăng hàng. Đường đi ghe
thuyền trên bến, người đi phải len lỏi như đi lạc chốn hang rồng (giao long),
trên chợ hến, lưới phơi như sóng cờ. Các bà vợ ngư phủ buôn bán cá xách giỏ,
vin khoan thuyền. Các ngư phủ lái thuyền đã xong công việc, gõ chèo nâng chén
rượu cùng nhau. Bến thuyền nhộn nhịp, rồi lại chia tản ra, như hai quẻ bát
quái, khi thì quẻ Ly, khi thì quẻ Hoán, thánh nhân cũng bàn định sự vật theo ý
người trần.
BẾN ĐÁ XEM
ĐÁNH CÁ
Gió im
sóng lặng dạo ven sông,
Ngắm
ngắm thuyền chài giăng giăng hàng.
Tay
kiếm hang rồng sông mở lối,
Lưới
quăng chợ hến sóng cờ dâng.
Bà buôn
xách giỏ vin khoang cuối,
Ông lái
gõ chèo chén rượu nâng.
Hoặc
lúc quẻ ly, khi quẻ hoán,
Thánh
nhân định vật ý người trần.
Nguyên tác
phiên âm Hán Việt
THẠCH PHỐ
QUAN NGƯ
Phong
điềm ba tỉnh độ giang mi,
Vọng
vọng ngu châu nhất tự nhi.
Thủ
thám giao cung giang tắc lộ,
Võng
thu thần thị tịch vi kỳ.
Huề la
bản phụ phan thuyền vĩ,
Khẩu
tiệp đà sư hệ tửu chi.
Hoặc
thủ chư ly khiêm thủ hoán,
Thánh
nhân khai vật dữ nhân nghi.
Chú thích:
Quẻ Ly quẻ
Hoán: trong Kinh Dịch ý nói luôn luôn chia tản. Tả hình ảnh các thuyền tụ lại
rồi tan ra đi nơi khác.
Bái 7 CỐC
TỰ THAM THIỀN. Thiền định ở chùa cốc. Hồ Xuân Hương đến thăm một cái cốc,
trong đá ngồi tham thiền viết bài thơ này: Cốc đá như thần bào, quỷ đẽo tự
không biết bao nhiêu năm. Hình thể tự nhiên an bài lõm sâu trong đá. Nên mái
chẳng cần lợp ngói hay lợp tranh, thềm bằng phẳng chẳng cần trát gạch. Vách như
tường lát thẳng, đá thạch nhủ như trụ sườn. Cóđàn dơi đậu như cúng trái cây bên
đài sen Đức Phật. Con ong mật vo ve bên hoa thạch thảo như dâng hoa trước án
hương. Từ chùa cốc, nghe tiếng sóng vỗ, tiếng ca người đốn củi, nghe tiếng chim
chóc hót. Đến nơi thấy vị sư già đang ngủ,chợt thức giấc đứng dậy chào khách.
THIỀN ĐỊNH
CHÙA CỐC
Thần
bào quỷ đẽo tự bao niên,
Hình
thể an bài sẵn tự nhiên.
Mái
chẳng ngói tranh, thềm chẳng trát,
Vách
như tường lát đá như sườn.
Đàn dơi
cúng trái đài sen quý,
Ong mật
dâng hoa trước án hương.
Sóng
vỗ, ca tiều, chim chóc hót,
Sư già
chợt tỉnh giấc miên man.
Nguyên tác
phiên âm Hán Việt:
CỐC TỰ
THAM THIỀN
Thần
ngoan quỷ tạc bất tri niên,
Thế thế
an bài nhược tự nhiên.
Ốc bất
ngõa từ giai bất thế,
Nham
như tường bích thạch như diên.
Dạ minh
hiến quả liên đài hạ,
Phong
tử hàm hoa bảo án tiền.
Đào
hưởng , tiều ca, hoà điểu ngữ,
Thanh
thanh hoán tỉnh lão tăng miên.
8.
Bài Bộ KHÁNH MINH TỰ CẢM HỨNG . Dạo chùa Khánh Minh cảm hứng. Đến chùa
Khánh Minh ,nơi trụ trì nhà sư Phạm Ngọc ngày xưa chỉ còn quang cảnh di tích
tiêu điều: Đấng Phạn Vương (Đức Phật) đi vắng bao giờ trở lại. Còn
để vườn Kỳ Viên cỏ mọc đầy. Khánh đá có duyên được mang sang một chùa
khác. Quả chuông quá nặng giá mốc đã mục vất bên đài sen. Ngói đã tan,
sườn chùa đã mục, chim làm tổ trên mái. Bệ đá đã vỡ, bia mòn dấu rêu vùi lấp
chữ. Đến đây ao ước có được ngàn tay như Phật Tổ: Như Lai Thiên Thủ Phật, từ hư
không một đêm dựng lâu đài như chuyện Chữ Đồng Tử, Tiên Dung Công Chúa học phép
mầu nhà sư Phật Quang.
ĐẠO CHÙA
KHÁNH MINH CẢM HỨNG
Phạn
Vương đi khỏi bao giờ lại,
Còn để
Kỳ Viên cỏ mọc đầy.
Khánh
đá có duyên dời viện khác,
Chuông
không giá móc vất bên đài.
Ngói
tan, xà mục chim làm tổ,
Bệ vỡ,
bia mòn rêu biếc vùi.
Giá
được ngàn tay như Phật Tổ,
Hư
không một tối dựng lâu đài.
Thơ chữ
Hán Hồ Xuân Hương, Nhất Uyên dịch thơ.
Nguyên tác
phiên âm Hán Việt :
Bộ KHÁNH
MINH TỰ CẢM HỨNG
Phạm
Vương quy khứ kỷ thời lai,
Không
ủy Kỳ Viên ế thảo lai,
Khánh
hữu cơ duyên quy biệt viện,
Chung
vô cư nghiệp trệ không giai.
Đồi
lương bại ngõa sào ma tước,
Phá kệ
tàn bi yểm lục đài.
An đắc
Như Lai Thiên Thủ Phật,
Hư
không nhất dạ khởi lâu đài.
Chú thích:
Kỳ Viên:
Vườn nguyên của vua Pasenadi (Ba Tư Nặc) ban cho thái tử Jeta (KỳĐà) rộng độ 50
mẫu tây nằm phía nam thủđô Sàvatthi nay là thành phố Sabeth-Maheth thuộc tiểu
bang Utlar-Pradesh. Ông Sudattà (Tu Đạt Đa) là Anàthapindika (Trưởng giả Cấp Cô
Độc)muốn mua, thái tử KỳĐà nói đùa, ông quý mảnh vườn lắm, bằng giá vàng trải
khắp vườn ông mới bán. Trưởng giả Cấp Cô Độc đồng ý, mua lại bằng giá vàng trải
khắp vườn, dâng cúng cho Đức Phật dùng làm nơi an cư kiết hạ Đức Phật và
chư tăng khi mùa mưa. Từ đó khu vườn có tên Kỳ Đà thọ Cấp Cô Độc Viên, hay gọi
tắt là Jetavana (vườn KỳĐà, hay Kỳ Viên). Ngày nay khu vườn này có tên là
Saheh.
Qua chín
bài thơ vịnh tám cảnh Đồ Sơn, ta thấy Hồ Xuân Hương rất thông suốt Phật Pháp:
biết núi Linh Thứu nơi Đức Phật thuyết kinh Pháp Hoa, biết vườn Kỳ Viên nơi Đức
Phật và chư tăng an cư kiết hạ khi mùa mưa Ấn Độ, không thể đi giảng đạo. Biết
chuyện Vua A Dục đào giếng, trồng cây ăn trái có bóng mát, khắc kinh Phật trên
mỗi chặng đường đi, biết sự tích Phật trăm mắt ngàn tay cứu độ chúng sinh. Hồ
Xuân Hương đến Chùa Cốc trong hang động tham thiền, thuộc và hiểu kinh điển:
Sắc tức thị không, không tức thị sắc, Cứu độ bè từ qua biển khổ với hình ảnh
thi vị con chi mâu (bồ nông) ngủ đứng trên bè như nhà sư mãi mê cứu độ. Ngộ đạo
vị cao tăng chống gậy xuống núi dạy dỗ người đời làm lành tránh dữ, là hiện
thân Phật Tổ. Những điều cao sâu nhà Phật, Xuân Hương muốn lên núi hỏi vị
sơn tăng ở ẩn trên núi, nhưng đến nơi cảnh hoang vắng, chỉ có tiếng chuông vọng
về từ một cánh rừng, tiếng chuông đủ làm lòng người giác ngộ, không cần câu hỏi
nữa. Hay có khách đến, nhà sư già chợt tỉnh giấc, giữa tiếng sóng vỗ, tiếng ca
người đốn củi, tiếng chim chóc hót..Những hình ảnh thật là đẹp và đầy
thiền vị, của một người đầy đạo tâm. Điều này khác với những câu xấc xược, dốt
nát trong những bài thơ gọi là truyền khẩu.
Có thể có
người nói về tuổi gần năm mươi Hồ Xuân Hương đạo hạnh, nhưng thời trẻ có thể
tinh nghịch chế nhạo các vị sư. Bài thơ Vịnh Chùa Trấn Quốc, Hồ Xuân Hương làm
lúc trẻ tuổi 18, 20 năm 1790-1793 khi gặp Nguyễn Du đã bác bỏ sự kiện này. Bài
Đề Chùa Trấn Quốc chép trong Hương Đình Cổ Nguyệt Thi Tập tìm thấy trong tủ
sách gia đình cụ Trần Xuân Hảo ở Nam Hà. Tôi dịch như sau:
ĐỀ CHÙA
TRẤN QUỐC
Ai
người đến đó khách đài trang,
Nhè nhẹ
thanh thanh cơn gió nam.
Trăng
nước sóng lồng sen nõn cánh,
Khói
hương tàn báu hạc bay ngàn.
Rửa
niềm trần tục hoa hàm tiếu,
Gợi
tỉnh niềm mê cỏ thắm xuân.
Đến
cảnh quay đầu, người muốn hỏi,
Đông
nam tay vẫy nhạn tung đàn.
Nguyên tác
phiên âm Hán Việt:
ĐỀ TRẤN
QUỐC TỰ
Trang
lâm thùy thị cánh trung nhân,
Tế tế
thanh phong phiến phiến huân.
Thủy
nguyệt ba lung liên quải choát,
Hương
yên bảo thoại lộ liên vân.
Tẩy
không trần lự hoa hàm thoại,
Hoán
tỉnh mê đồ thảo diệc xuân.
Đáo
cảnh linh nhân hồi thủ vấn,
Đông
nam phất tụ nhạn thành quần.
Chú thích:
Trung
nhân: người khách đài trang trong bài thơ này theo tôi là Nguyễn Du, vì năm
1805 khi làm bài Chơi Tây Hồ nhớ bạn trả lời bài Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn
Du, Xuân Hương có nhắc lại: “Trấn Quốc rêu phong vẫn ngấn thơ”. Lời thơ
đề vịnh chùa Trấn Quốc vẫn còn vang vọng như ngấn nước.
Nhạn thành
quần: nhạn, hay hồng nhạn, là con ngỗng trời, chưa thấy có một nghiên cứu nói
đến Việt Nam nằm trên đường thiên di chim hồng nhạn. Có lẽ người Việt Nam lầm
với vịt trời hay chim én. Hồ Tây thời Hồ Xuân Hương, một trong tám cảnh đẹp có:
Sâm cầm rợp bóng: Nghề săn chim sâm cầm ở các làng quanh Hồ Tây. Chim sâm
cầm là chim gì ? tôi nghĩ có lẽ là vịt trời. Ngày nay cảnh này không
còn nữa vì ngay cả cá cũng chết nổi đầy hồ. Sơn Nam, trong Hương rừng Cà Mau,
có nói đến các vườn chim Cà Mau, đến mùa chim thiên di về sinh sản trong rừng
tràm đước, người ta giết để lấy lông làm quạt, chim vườn Cà Mau là, cò, bồ
nông, chàng bè lông trắng. Tại Trà Vinh, mùa hè tôi có thấy trong một ngôi chùa
Miên có hàng ngàn con cò về làm tổ, trên cành cây quanh chùa. Trong thơ Hồ Xuân
Hương bài Thuật ý kiêm trình hữu nhân Mai Sơn Phủ: có câu “nhạn ngao ngao”.
Thơ Xuân Diệu có câu: “Dục hồng nhạn thiên di về cõi bắc”. Tôi cho rằng
những câu thơ này chỉ là mô phỏng theo thơ Trung Quốc. Vì Việt Nam chỉ thấy
ngỗng nhà, hay thiên nga nuôi trong hồ, ít ai thấy ngỗng trời bay hàng vạn con
trên trời thiên di 5000km, từ Bắc Âu xuống Phi Châu, từ Bắc Mỹ xuống Nam Mỹ.
Đường đi ngỗng trời không thay đổi hàng năm có hàng trăm con đụng phải cửa kính
các toà nhà chọc trời Nữu Ước chết và bị thương, thế mà chúng không đổi đường
bay.
Bài thơ Đề
chùa Trấn Quốc cho ta thấy Hồ Xuân Hương đi chùa cùng người khách đài trang là
Nguyễn Du, trong gió mát thanh thanh cơn gió Nồm thổi qua mặt hồ, bóng trăng
lồng trong bóng nước, hoa sen nở nõn nà, khói hương bay lên như chiếc tàn lộng
quý báu, bay lên như cánh cò, hạc nối liền với mây. Phong cách trang nhã
của Hồ Xuân Hương, đã thấm nhuần Phật pháp khi đến chùa, nhìn đóa hoa sen hàm
tiếu như như rửa niềm trần tục, nhìn thấy cỏ mùa xuân như gợi tỉnh niềm mê.
Thuở ấy Xuân Hương ngây thơ muốn quay đầu lại hỏi, nhưng lòng Nguyễn Du đã muốn
quay về Hồng Lĩnh, nên đưa tay vẩy đàn chim trời đang tung bay về hướng đông
nam.
Trong thơ
truyền khẩu Hồ Xuân Hương có chép bài thơ nôm Chùa Trấn Bắc. Trong bản văn nôm
cũ nhất của Maurice Durand. Câu cuối : “Ngoài cửa hành cung cỏ dãi dầu”. Câu
này đã bị sửa ra thành: “ Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu” trong các văn bản đầu
thời Pháp thuộc.
CHÙA TRẤN
BẮC.
Qua
chơi Trấn Băc cảnh buồn rầu,
Chạnh
niềm cố quốc nghĩ mà đau.
Một tòa
sen lạt hơi hương ngự,
Năm
thức mây phong điểm áo chầu.
Sóng
lớp phế hưng coi vẫn rộn,
Chuông
hồi kim cổ lắng càng mau.
Người
xưa, cảnh cũ đâu đâu tá ?
Ngoài
cửa hành cung cỏ dãi dầu.
Chùa Trấn
Quốc, năm 1844 vua Thiệu Trị mới đổi ra Trấn Bắc. Do đó thời Hồ Xuân Hương chùa
mang tên Trấn Quốc. Theo tôi bài thơ này của Bà Huyện Thanh Quan, tên thật là
Nguyễn Thị Hinh, bà sinh sau Hồ Xuân Hương, sinh ra và lớn lên ở làng Nghi Tàm,
Hồ Tây. Chồng bà là Lưu Nguyên Ôn, người làng Nguyệt Án, huyện Thanh Trì, Hà Đông
từng làm Tri huyện Thanh Quan, cho nên bà được gọi là Bà Huyện Thanh Quan,
chồng bà mất sớm năm ông 43 tuổi, bà vẫn ở vậy nuôi con và đem con về sinh sống
ở làng Nghi Tàm. Đời vua Minh Mạng bà được mời vào cung phong chức Cung Trung
giáo tập, dạy học cho các cung phi và công chúa. Bà mất ở làng Nghi Tàm, mộ
chôn cạnh Hồ Tây, ngày nay cũng bị nước hồ vùi lấp. Bà Huyện Thanh Quan cùng
làng với Hồ Xuân Hương nhỏ tuổi hơn, tuổi nhỏ bà cũng không đi ra khỏi làng
Nghi Tàm. Làng Nghi Tàm có trường học nào khác hơn Cổ Nguyệt Đường nơi Hồ Xuân
Hương dạy học, tiếp nối Cụ Đồ Diễn, Tử Minh, ta có thể suy đoán phần chắc là bà
Nguyễn Thị Hinh là học trò Hồ Xuân Hương.
Theo Tuyển
Tập Văn Bia Hà Nội q I, nxb KHXH. Hà Nội tr 33, 38 : Chùa Trấn Quốc nguyên tên
là Khai Quốc do vua Lý Nam Đế khai sáng khi lập nước Vạn Xuân năm 544, nằm trên
bờ sông Hồng, sau vì bãi sông bị lỡ nên năm 1615 dời vào bãi Kim Ngư, Hồ Tây,
trên nền cũ cung Thúy Hoa đời Lý, điện Hàm Nguyên đời Trần đời Lê vua lập hành
cung tại đó. Chùa được xếp hạng thứ tư nước Nam. Đời Tây Sơn đổ nát. Năm 1813
nhà sư Khoan Nhân đứng ra quyên góp trùng tu chùa, năm 1815 mới xong, Tiến Sĩ
Phạm Quý Thích viết bài văn bia trùng tu chùa.
Qua văn
bản Anthony Landes, do Lê Quý, Nguyễn Văn Đại chép bằng chữ nôm trước năm 1892:
Xuân Hương thường đi chùa với bạn (vợ và em gái Tử Minh) và rất thân với Tử
Minh, gia đình ”không ruột nhưng mà thương quá ruột”, qua ba bài
thơ Khóc Tử Minh ta biết người bạn này thông suốt Phật Pháp tu thiền và thiền
định hằng ngày. Có thể nào Xuân Hương “ ghét “đạo Phật mà lại thường đi chùa và
thân thiết với những người như thế ?
Nhìn lại
quan hệ giữa Hồ Xuân Hương với Phật Giáo là một quan hệ hoàn toàn tốt đẹp; Quan
Tham Hiệp Trần Phúc Hiển năm 1813 khi rời phủ Tam Đái đi nhậm chức Yên Quảng,
đã ghé thuyền đến Thăng Long thăm Cổ Nguyệt Đường, Hồ Xuân Hương đã tổ chức
buổi tiệc xuân lễ hỏi để ra mắt bà con hàng xóm, và buổi lễ nơi Phật đài
để ra mắt với mẹ. Trần Phúc Hiển đã viết: “Xuân tịch vi ly song nhãn lệ, Phật
đài thùy hoán sổ thanh chung.” Chưa khỏi tiệc xuân đôi mắt lệ, Ai khua
đài Phật tiếng chuông rung. Hồ Xuân Hương đã khóc khi nghĩ đến cảnh một mẹ một
con nay đi lấy chồng xa mẹ, và lòng nao nao trước tiếng chuông rung nơi đài
Phật.
Ta thử xem
những người bạn đương thời của Hố Xuân Hương như Tiến Sĩ Phạm Quý Thích,
Phạm Đình Hổ, Nguyễn Du viết thế nào về Phật Giáo:
Phạm Quý
Thích trong bia ghi việc chùa Trấn Quốc. Tuyển tập Văn Bia Hà Nội q I nxbKHXH
Hà Nội
tr 33,38,
viết:
“Trải
qua một cuộc biến đổi đời Tây Sơn, ngôi chùa dần dần hoang phế, đã không tu sửa
được lại đổ nát thêm.. Nhà sư trụ trì là Khoan Nhân, nối nghiệp sư tổ, tu tạo
quả phúc, hợp sức hưng công..
Ôi
! Chùa đổ rồi dựng lại, đó là điều Trương Thăng Phủ (Trương Hán Siêu) lấy
làm bùi ngùi. Tôi còn nói gì nữa ? Nhưng Hồ Tây là nơi thắng cảnh, Trấn Quốc
lại là cảnh đẹp của Hồ Tây. Những nơi danh thắng của cố đô vì loạn lạc bị đổ
nát cũng nhiều. Đổ nát mà không xây dựng lại, thì chẳng mai một đi ư ? Ý nghĩ
của mọi người trong bản phường là như thế.
Huống
chi lên cao ngắm cảnh, mây nước mênh mang, nước hồ ánh trong suốt khiến lòng
người không hư, tiếng chuông chùa gọi tỉnh mộng trần tục, khiến chổ ý thức phân
biệt giữa ‘ngoại vật’ và ‘ta ‘ tiêu tan hết. Tấm bia rêu phong còn đó, lối xưa
hoa cỏ nay đâu ? Ngày tháng là bao, bỗng chốc thành dấu cũ, khiến cho người
chạnh lòng cảm khái đối với cảnh vật xưa nay.
Đây
phải chăng là nơi tao nhân mặc khách thường lui tới viếng thăm, và bậc cao nhân
hiền triết đã có cái nhìn thông suốt đấy sao ? Âu cũng là điều đáng ghi vậy.
Minh rằng:
Cầu
ngang Linh Ẩn,
Chuông
dội Hàn Sơn,
Trước
mắt mỏ phượng,
Sau
lưng uốn rồng,
Sóng
gợn trong vắt,
Mặt
nước Tây Hồ,
Ngàn
đóa hoa sen,
Đua
nhau vui nở.
Tịch
nào không cảm ?
Hư nào
không thiêng ?
Trăng
lồng đáy nước,
Soi tỏ
chân như,
Bia năm
Dương Hoà,
Đến nay
thành cổ,
Ta khắc
bài minh,
Cùng
truyền muôn thuở.
Chú thích:
Mỏ phượng:
Mũi đất bên Tây Hồ, khu vực Trường Bưởi, trong bài Chơi Tây Hồ nhớ bạn, Xuân
Hương gọi là non phượng đất.
Bia năm
Dương Hòa. Tấm bia do Trạng Nguyên Nguyễn Xuân Chính soạn năm 1639.
Bài của
Tiến Sĩ Phạm Quý Thích tiêu biểu cho những người học rộng, đương thời Hồ Xuân
Hương viết về chùa.
Phạm Đình
Hổ, người bạn thân của Hồ Xuân Hương, trong Tang Thương Ngẫu Lục TTHL Saigon
1971, những bài ký viết về chùa cũng đầy những trân trọng đối với nhà sư. Bài
Ký chơi núi Phật Tích cùng bốn người bạn viết: “ Giờ Dậu lên chùa Thiên Phúc, nhà sư
trụ trì là Tịch Khiết mời ngồi lại nói chuyện. Tịch Khiết người làng Thiên
Phúc, ăn nói nhã nhặn bặt thiệp.. Giờ Tỵ qua cầu Nguyệt Tiên, lần bậc lên
núi.. Trụ trì chùa này nguyên là một viên nội thần tiền triều, thấy khách
đến, mời thiết ân cần bằng những món ăn trong núi..” Trong bài tả cảnh Chùa Kim Liên, làng
Nghi Tàm cạnh nhà Xuân Hương, Phạm Đình Hổ đến chơi cũng được chú tiểu lễ phép
mời vào chùa dùng trà cùng sư trụ trì. Phạm Đình Hổ đã tả những nhà sưđương
thời với Hồ Xuân Hương như thế: hiếu khách, bặt thiệp, ân cần , nhã nhặn..
Ta thử xem
Nguyễn Du, người bạn tình với Hồ Xuân Hương. Trong bài Phân Kinh Thạch Đài của
Thái Tử Chiêu Minh đời Lương, chép trong Thơ Chữ Hán Nguyễn Du nxb Văn Học Hà
Nội 1965, khi phê phán Kinh điển Phật Giáo đã phê phán như thế nào :
“Kinh
thiêu ra tro, đài đổ nát,
Nghìn
vạn lời lưu lại ích chi,
Chỉ để
bọn ngu tăng đời sau đọc điếc tai người ta.
Ta nghe
nói Thế Tôn ở Linh Sơn,
Thuyết
pháp cứu người nhiều như cát sông Hằng.
Người
hiểu được chữ Tâm tức là độ rồi.
Linh
Sơn chỉ ở lòng người.
Minh
kính cũng không là đài,
Bồ Đề
vốn không phải là cây.
Ta đọc
kinh Kim Cương hằng nghìn lượt,
Những ý
nghĩa gọi là sâu xa trong đó phần nhiều không rõ ràng;
Khi đến
trước đài Phân Kinh này,
Mới
biết kinh không chữ mới thật là chân kinh. “
Ta thấy
trong phê phán của Nguyễn Du cái học rộng và uyên bác của ông, biết sự tích,
kinh điển các tông phái nhà Phật, biết thơ Lục Tổ Huệ Năng “Minh Kính cũng
không là đài, Bồ Đề vốn không phải là cây “
. Nguyễn Du từng đọc tụng ngàn lượt quyển Kinh Kim Cương chú giải của Lê Quý Đôn,
quyển sách sĩ phu Bắc Hà đương thời yêu chuộng, như sách gối đầu giường,. Đọc
tụng ngàn lần Nguyễn Du vẫn thấy những điều gọi là ý nghĩa sâu xa, vẫn còn
không rõ ràng. Nguyễn Du ưa thích pháp môn ngài Huệ Năng hơn, trực giác kiến
tánh, thành Phật, Phật ngồi dưới gốc Bồ Đề 49 ngày, thiền định mà giác ngộ, tất
cả mọi chúng sanh đều có thể làm được như thế, không cần trăm kinh, vạn quyển,
ê a mà không hiểu làm điếc tai người ta. Nguyễn Du cũng đã viết: “Lòng ta
thường định chẳng xa thiền”. Cái phê phán này khác cái phê phán trống
rỗng: “Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha “ trong một bài thơ gọi là truyền khẩu
của Hồ Xuân Hương. Trong thơ Nguyễn Du ta thấy nhà thơ tâm đắc và trân trọng
với nhà sư Huyền Hư Tử, tôi dịch như sau:
“Hạc
nội mây ngàn bao thuở gặp,
Trăng
thanh gió mát nhắn gì hơn,
Thầy ở
xa về đường nhớ lấy,
Nhà tôi
đầu xóm núi Hồng Sơn.”
(bài Ký Huyền
Hư Tử)
Hay
“Trường
An biền biệt mãi,
Nhớ quê
chân trời xa,
Chân
trời không thấy được,
Còn
trông bụi cát pha;
Gió Tây
thổi lá rụng,
Sương
trắng nhạt hoàng hoa,
Tấm
thân thầy cẩn trọng,
Vào thu
sương móc sa.”
(bài Ký
Giang Bắc Huyền Hư Tử)
Một người
học rộng như Xuân Hương, nếu có phê phán nhà sư cũng phê phán thông minh, phân
biệt ngu tăng và cao tăng. Một người đã viết những câu thơ chữ Hán: Cao tăng đâu đó tụng thời kinh, thường đi lễ chùa, mẹ có bàn thờ Phật
tại gia, không thể nào viết những câu thơ nói lái, hạ cấp, bẩn thiểu:” hỏi
thăm sư cụ đáo nơi neo ? “
Ta thử tìm
về nguồn gốc bài Chùa Quán Sứ, và các bài thơ về sư, qua những văn bản cổ
nhất 1892 và những văn bản về sau .
Văn bản
Antony Landes thuê Lê Quý, Nguyễn Văn Đại chép trước năm 1892, Đại Nam Đối Liên
thi tập, không có bài Chùa Quán Sứ, chỉ có hai bài thơ mang tên Vô Đề, ghi
nguyên chú : một nho sĩ làm:
VÔ ĐỀ
Xót
thay chút phận bé tẻo teo,
Cái
kiếp tu hành nặng đá đeo.
Cánh
buồm đã rắp sang Tây Trúc
Trái
gió cho nên phải lộn lèo.
Nguyên chú:
Một nho sĩ làm.
VÔ ĐỀ
Ôm dùi
xếp mõ gáy o o,
Nguyệt
trỏ phòng thành mát mẻ cô.
Cánh
cửa từ bi cài lỏng khóa,
Nén
hương tế độ giọt nước lò.
Cá khe
lắng kệ mang nghi ngóp,
Chim
núi nghe kinh cổ gật gù.
Nhắn
nhủ chúng sinh sư muốn đó,
Đêm đêm
tụng niệm chữ na mô.
Một thư
sinh đã làm bài này.
Bốn câu
giữa bài Vô đề (Vịnh Ni Cô) lại được dùng để làm thành bài
CHƠI CHÙA
Thầy tớ
thung dung dạo cảnh chùa
Cầm thi
lưng túi rượu lưng hồ.
Cá khe
lắng kệ mồm hoi hóp,
Chim núi
nghe kinh cổ gật gù.
Then cửa
từ bi chêm chặt cánh,
Nén hương
tế độ cắm đầy lư.
Nhà sư ướm
hòi nhà sư tử,
Phúc đức
người cầm được mấy bồ.
Văn bản
Xuân Hương Di Cảo (trong Quốc Âm Thi Tuyển) Hàng Gai, Hà Nội; khắc bản in năm
1909, 1914 (khổ 13,18,5, 19 tờ, mỗi trang phần trên chữ nôm, phần dưới chữ quốc
ngữ). Có bài Vịnh chơi chùa, Chùa Quán Sứ.
VỊNH CHƠI
CHÙA
Thầy tớ
thong dong dạo cảnh chùa,
Cầm thi
lưng túi rượu lưng hồ.
Cá khe
lắng kệ đầu ngơ ngác,
Chim
núi nghe kinh cổ gật gù.
Then
cửa từ bi nêm chật cánh,
Nén
hương tế độ cắm đầy lô.
Nhà sư
ướm hỏi nhà sư tử,
Phúc
đức nhà đây được mấy bồ.
CHÙA QUÁN
SỨ
Quán Sứ
chùa xưa cảnh vắng teo,
Thương
ôi sư đã hóa ra mèo.
Sáng
banh vắng kẻ khua dùi mõ,
Trưa
trật không người quét kẽ rêu.
Chí
chát chầy kình ôm lại đấm,
Lầm dầm
tràng hạt đếm cùng đeo.
Buồm Từ
rắp cũng sang Tây Trúc.
Gió vật
cho nên phải lộn lèo.
Xuân Hương
Thi Tập (Phúc Văn Đường tàng bản). Hà Nội năm Tân Dậu; 1921, chép
theo bản in nhà xuất bản Xuân Lan, của Nguyễn Ngọc Xuân năm 1913.
Bài thơ
mang tựa Vịnh Chùa Quán Sứ nói lái, nhưng nội dung không thay đổi. Văn bản Giai
nhân dị mặc của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, bài Chùa Quán Sứ cũng không thay
đổi. Văn bản Phúc Văn Đường 1921 có bài Thơ ghẹo ông Sư: Một pho kinh lại
bộ Kim Cương, Đây đấy cùng thuyền kẻo một đường.. Nhưng bài này có chép trong
Công Dư Tiệp Ký của Vũ Phương Đề soạn năm Cảnh Hưng 16 (1785). Học trò Lương
Hữu Khánh đời Lê Trung Hưng nhân khi qua đò gặp các sư đi cúng về, Khánh đói
muốn ăn oản, nhà sư bảo làm bài thơ: Nho tăng đồng chu (học trò và nhà sư cùng
qua đò) thì sẽ cho oản. Khánh bèn làm bài thơ bằng chữ Hán: “Nang trung
kinh sử khiếp Kim Cương, Ngã nhĩ kim đồng phiến nhất hàng.. Xuân Lan lấy bản
dịch của Lương Hữu Khánh để mạo nhận thơ nôm Hồ Xuân Hương (Xem Kiều Thu Hoach.
Thơ Nôm từ góc nhìn văn bản học. TC Nghiên Cứu Văn Học số 9/2007.
Văn bản
Nguyễn Văn Hanh – Hồ Xuân Hương. Hà Nội 1936.
CHÙA QUÁN
SỨ
Quán Sứ
sao mà cảnh vắng teo,
Hỏi
thăm sư cụ đáo nơi neo ?
Chày
kình tiểu để suông không đấm,
Tràng
hạt vãi lần đếm lại đeo.
Sáng
banh không kẻ khua tang mít,
Trưa
trật nào người móc kẻ rêu.
Cha
kiếp đường tu sao lắt léo,
Cảnh
buồn thêm ngán nợ tình đeo.
SƯ BỊ LÀNG
ĐUổI
Cái
kiếp tu hành nặng đá đeo.
Vị gì
một chút tẻo tèo teo.
Thuyền
từ cũng muốn sang Tây Trúc,
Trái
gió cho nên phải lộn lèo.
HANG THÁNH
HÓA
Khen
thay con tạo khéo khôn phàm,
Một đố
dương ra biết mấy ngoàm.
Lườn đá
cỏ leo, rờ rậm rạp,
Lách
khe nước rỉ, mó lam nham.
Một sư
đầu trọc ngồi khua mõ,
Hai
tiểu lưng tròn đứng giữ am.
Đến mới
biết rằng hang Thánh Hóa,
Chồn
chân, mỏi gối hãy còn ham.
Tóm lại
Bài Chùa Quán Sứ chỉ mới xuất hiện từ năm 1909, và câu Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo,
chữa câu :Thương ôi sư cụ hóa ra mèo, chỉ mới xuất hiện từ năm
1936. Bài Hang Thánh Hóa chỉ mới xuất hiện từ năm 1936. Bài thơ câu cuối lập
lại câu cuối bài đèo Ba Dội, chứng tỏ là bài thơ mới được chế biến về sau .
Bài Chơi
Chùa, nếu là thơ Hồ Xuân Hương, thì thơ hay từ đầu không cần phải, sửa chữa qua
nhiều văn bản khác nhau. Những bài thơ qua quá trình năm tháng, từ những câu
thơ dở, thô thiển được sữa chữa là thơ giả mạo.
Tóm lại
tôi bác bỏ các bài thơ phỉ báng các nhà sư : Chùa Quán Sứ, Hang Thánh Hóa,
Sư bị ong châm, Sư bị làng đuổi gán cho Hồ Xuân Hương vì lý do :
Hồ Xuân
Hương là người « học rộng và thuần thục ». Học rộng ngày xưa được
hiểu là người tinh thông Tam Giáo : Nho, Phật, Lão. Các bài thơ phỉ báng
nhà sư gán cho Hồ Xuân Hương, hoàn toàn kém hiểu biết về Phật Giáo, chỉ giễu
cợt hạ cấp bằng nói lái. Chỉ biết chỉ trích bề ngoài : đầu trọc lóc, áo
không tà, giọng hi ha, vãi lần tràng hạt đếm rồi đeo ; hay sửa đổi câu thơ
nghiêm chỉnh của Bà Huyện Thanh Quan thành câu chế nhạo tăng : Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu.
Xét về
lịch sử Việt Nam qua các thời đại đều kính trọng tăng sĩ, nho sĩ.. chỉ có
thời đại đầu thời Pháp thuộc, xã hội Việt Nam hổn loạn, sau các cuộc khởi nghĩa
chống Pháp các tăng sĩ hội Thượng Chí của Vương Quốc Chính tại Bắc Hà,
tăng sĩ tham gia cuộc khởi nghĩa của nhà sư Võ Trứ ở Phú Yên bị truy nã,
bị bắt giam đầy các nhà tù, khám đường chật ních các nhà sư, nhà sư bị miệt thị
là giặc thầy chùa, giặc đầu trọc.. Đó là lúc xuất hiện câu thơ : « Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc
đầu », « hỏi thăm sư cụ đáo nơi
neo ? » đồng thời với
thơ Tôn Thọ Tường « Khuyên
đàn con trẻ chớ thày lay » đàn
con trẻ là các nho sĩ như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn Trung Trực..
Bài Hang
Thánh Hoá ta bắt gặp những câu thơ giống như thơ gán cho Tú Xương (1870-1907),
cũng chỉ là truyền khẩu chứ không có văn bản chính xác :
Một
thằng trọc tếch ngồi khua mõ,
Hai ả
tròn xoe đứng múa bông.
Gán cho Tú
Xương trong bài Sư và mấy ả lên đồng. Bài Hang Thánh Hóa thơ truyền khẩu, chính
thức xuất hiện trên văn bản Nguyễn Văn Hanh năm 1936 gán cho Hồ Xuân Hương cũng
phản phất giống như thế :
Một sư
đầu trọc ngồi khua mõ,
Hai
tiểu lưng tròn đứng giữ am.
Ở thời đại
Tú Xương, các nhà sư chân chính bị bắt, bị tù đày, bị giết. Thầy cúng thầy pháp
cạo đầu xưng là sư, chùa lẫn lộn với việc lên đồng bóng, đĩ già đi tu, gái điếm
như cô Tư Hồng lấy viên Thiếu Tá Pháp trở thành bà lớn, được ban phẩm hàm triều
đình. Những tên vô lại, phẩm hạnh kém cỏi bị Nhà Thờ đuổi, nhờ biết lỏm bỏm chữ
quốc ngữ chữ Pháp, đầu quân vào đoàn quân viễn chinh Pháp trở thành thông ngôn,
đánh « giặc » Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Đinh Công Tráng.. từ đó
trở thành những tri huyện Tổng Đốc, quan Đại Thần mà không cần phải qua các kỳ
thi Hương, thi Hội thi Đình. Hay có những người lợi dụng thời cơ, đồng bào
không biết chữ Tây, đất đai người bỏ đi tỵ địa sang Bình Thuận đất triều đình
được bán rẽ, họ thu mua từ đó trở nên những tỷ phú như Huyện Sĩ, Tổng Đốc
Đỗ Hữu Phương..
Nào có
ra gì cái chữ nho,
Ông
Nghè, ông Cống cũng nằm co.
Chi
bằng đi học làm thầy Phán,
Tối
rượu sâm banh sáng sữa bò;
(Thơ Tú
Xương)
Chùa Quán
Sứ thời Hồ Xuân Hương, là một cơ sở thuộc Nha Tuyên Vũ, nơi tiếp sứ thần của
triều đình. Triều đình bổ nhiệm một vị sư tài cao đức trọng nơi sứ thần các
nước đến, không thể có ông sư đa dâm nào lọt vào nơi này. Thời Pháp thuộc, trở
thành nơi đầu não cuộc chấn hưng Phật Giáo, các vị danh tăng ở nơi này chúng ta
có thể tham khảo danh tánh, đều là những vị tài cao đức trọng. Nơi đầu não của
Phật giáo bị vu khống, thánh tích thiêng liêng của Phật Tử Việt Nam bị bôi nhọ
không phải là chuyện vô cớ, có điều là người viết không dám để lại tên tuổi như
Tôn Thọ Tường mà phải mượn danh Hồ Xuân Hương.
Văn
chương, là những câu thơ hay đẹp làm xúc động lòng người. Văn chương dâm tình
cũng có hai loại : văn chương mỹ tình dục (érotique) và văn chương con heo
(porno). Người Việt Nam ta ít tiếp xúc với văn chương mỹ tình dục của thế giới,
cứ tưởng những câu thơ: đáo nơi neo, lộn lèo.. là hay, thật ra đó là những câu
thơ đáng hổ thẹn,đó là thơ con heo, xem đó là văn chương thì quả tình là hạ
thấp văn học Việt Nam xuống tận cùng vực thẳm.
Trái với
ngôn ngữ phỉ báng tăng ni các bài thơ ngụy tạo. Hồ Xuân Hương ở bên cạnh chùa
Kim Liên, thường đi chùa với mẹ, mẹ có bàn thờ Phật trong nhà, đi chùa Văn Giáp
với bạn gái là vợ và em Cả Tân tức Tử Minh. Xuân Hương, chùa Trấn Quốc với
Nguyễn Du, chùa một cột với Mai Sơn Phủ; Chùa Đồ Sơn với chồng Trần Phúc Hiển.
Xuân Hương kính trọng bậc cao tăng trong thơ Vịnh Hạ Long, thơ vịnh Đồ Sơn, xem
như ruột thịt người bạn Tử Minh hàng ngày tham thiền nhập định, khi chồng mất
Xuân Hương có vào chùa tu. Với nhân cách một người học rộng, thuần thục và tài
sắc Hồ Xuân Hương không thể là tác giả các câu thơ hạ cấp, con heo như thế.
Ngược lại
với hành động bôi nhọ nhà chùa, nhà sư. Hồ Xuân Hương mắng bọn dốt làm thơ dở làm nhơ bẩn vách chùa:
MẮNG BỌN
DỐT
Dắt díu
nhau lên đến cửa chiền,
Cũng
đòi học nói, nói không nên.
Ai về
nhắn bảo phường lòi tói,
Muốn
sống đem vôi quét trả đền.
Tiến
sĩ Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris V Sorbonne
Paris.
2000, 30-10-2012
Tài
liệu tham khảo
- Hoàng Xuân Hãn: Hồ
Xuân Hương với Vịnh Hạ Long. Tình sử Hồ Xuân Hương. Tạp chí Khoa học Xã hội số
10-11, 12/1993 - Paris.
- Bùi Hạnh
Cẩn: Hồ Xuân Hương - Thơ chữ Hán, chữ Nôm, Giai thoại - Văn Học 1995.
- Thơ Hồ
Xuân Hương Nxb Đồng Nai 1986 -Tuyển tập Văn Bia Hà Nội - Nxb KHXH 1978.
- Phạm
Đình Hổ: Tang Thương ngẫu lục - TTNL. BGD Sàisòn 1970.
- Nguyễn
Du: Thơ chữ Hán - Nxh Văn Học 1965.
- Nguyễn Xuân
Thọ: Bước mở đầu của sự thiết lập hệ thống thuộc địa Pháp ở Việt Nam 1858-1897
- TGXB - Hoa Kỳ 1995.
- Nguyễn Quyết Thắng: Tự Điển Nhân Vật Lịch Sử
VN - KHXH 1992.
0 Komentar