Chương XV
-ooOoo-
Phẩm Mười Lăm Kệ
(CCXLVI) Anna-Kondanna (Thera. 69)
Sanh trước Thế Tôn tại
làng Donavatthu, không xa Kapilavatthu bao nhiêu, trong một gia đình Bà-la-môn rất giàu
có, ngài được gọi với tên gia tộc là Kondanna. Lớn lên, ngài biết ba
tập Vệ-đà và giỏi về đoán tướng. Khi bậc Bồ-tát mới sanh, ngài là một trong tám
vị Bà-la-môn được mời đến đoán tướng. Dầu ngài mới học nghề, ngài thấy các
tướng của bậc Ðại nhân trên đứa bé và nói, vị này sau sẽ thành Phật. Rồi ngài
sống, chờ đợi vị Bồ-tát xuất gia. Khi vị Bồ-tát xuất gia, lúc hai mươi chín
tuổi, Kondannađược nghe tin, liền xuất gia với bốn vị Bà-la-môn đoán tướng khác,
như Vappa v.v... và trong sáu năm sống ở Uruvelà, gần vị Bồ-tát, khi vị
Bồ-tát đang tu khổ hạnh. Lúc vị Bồ-tát không tu khổ hạnh nữa, các vị này chán
chường bỏ đi đến Isipatana (chư Tiên đọa xứ). Rồi đức Phật đến Isipatana, thuyết kinh Chuyển Pháp Luân cho họ, vàKondanna cùng hàng vạn Phạm Thiên chúng chứng được Sơ
quả. Ðến ngày thứ năm, nhờ bài kinh 'Vô Ngã Tướng', Kondanna chứng quả A-la-hán. Bậc Ðạo Sư trong buổi họp
Tăng chúng ở tinh xá Kỳ Viên, đã xác chứng ngài là bậc Ðệ nhất trong các hàng
Tăng chúng Tỷ-kheo (Xem. Ang. i. 26). Và trong một trường hợp khi Kondanna giảng về Bốn sự thật, đề cập đến ba tướng: Vô
thường, Khổ, Vô ngã, với những phương pháp sai biệt, dựa trên Niết-bàn và giảng
với sự lưu loát của đức Phật. Bài giảng ảnh hưởng mạnh mẽ đến Sakka (Ðế Thích) khiến vị này thốt lên những bài kệ:
673. Ta bội phần hân
hoan,
Ðược nghe pháp vị lớn,
Pháp được giảng ly tham,
Hoàn toàn không chấp thủ.
Ðược nghe pháp vị lớn,
Pháp được giảng ly tham,
Hoàn toàn không chấp thủ.
Trong một trường hợp
khác, thấy tâm tư của một số người còn bị chi phối nặng nề bởi tà kiến, nên
ngài nói lên bài kệ như sau:
674. Trên thế giới đất
tròn,
Nhiều màu sắc hình tướng,
Làm say đắm tâm tư,
Ta nghĩ là như vậy,
Tướng tịnh rất hấp dẫn,
Liên hệ đến tham dục.
Nhiều màu sắc hình tướng,
Làm say đắm tâm tư,
Ta nghĩ là như vậy,
Tướng tịnh rất hấp dẫn,
Liên hệ đến tham dục.
675. Như gió thổi tung
bụi,
Ðược mây trấn áp xuống,
Các tư duy lắng dịu,
Khi thấy, với trí tuệ.
Ðược mây trấn áp xuống,
Các tư duy lắng dịu,
Khi thấy, với trí tuệ.
676. Mọi hành là vô
thường
Khi thấy với trí tuệ,
Vị ấy nhàm chán khổ,
Ðây con đường đến tịnh.
Khi thấy với trí tuệ,
Vị ấy nhàm chán khổ,
Ðây con đường đến tịnh.
677. Mọi hành là đau
khổ,
Khi thấy với trí tuệ,
Vị ấy nhàm chán khổ,
Ðây con đường đến tịnh.
Khi thấy với trí tuệ,
Vị ấy nhàm chán khổ,
Ðây con đường đến tịnh.
678. Mọi pháp là vô ngã,
Khi thấy với trí tuệ,
Vị ấy nhàm chán khổ,
Ðây con đường đến tịnh.
Khi thấy với trí tuệ,
Vị ấy nhàm chán khổ,
Ðây con đường đến tịnh.
Rồi ngài nêu rõ, ngài đã
chứng được thiền quán ấy, và nói lên chánh trí, ngài nói rằng:
679. Trưởng lão
Kondanna,
Giác ngộ bởi giác ngộ,
Ðã sắc bén thoát ly,
Ðoạn tận sanh và chết,
Và đời sống Phạm hạnh,
Ðược hoàn toàn viên mãn.
Giác ngộ bởi giác ngộ,
Ðã sắc bén thoát ly,
Ðoạn tận sanh và chết,
Và đời sống Phạm hạnh,
Ðược hoàn toàn viên mãn.
680. Hoặc bộc lưu, bẫy
mồi,
Hoặc cột trụ vững chắc,
Ngọn núi khó phá hoại,
Sau khi chặt phá xong,
Cột trụ và bẫy mồi,
Chặt tảng đá khó phá,
Hành thiền, vượt bờ kia,
Thoát khỏi Ma trói buộc.
Hoặc cột trụ vững chắc,
Ngọn núi khó phá hoại,
Sau khi chặt phá xong,
Cột trụ và bẫy mồi,
Chặt tảng đá khó phá,
Hành thiền, vượt bờ kia,
Thoát khỏi Ma trói buộc.
681. Tỷ-kheo hoảng hốt
động,
Ði đến các bạn ác,
Chìm trong bộc lưu lớn,
Bị sóng lớn ngập tràn.
Ði đến các bạn ác,
Chìm trong bộc lưu lớn,
Bị sóng lớn ngập tràn.
682. Bậc trí không hoảng
hốt,
Không dao động, thận trọng,
Các căn khéo chế ngự,
Làm bạn với kẻ thiện,
Bậc trí tuệ như vậy,
Có thể đoạn đau khổ.
Không dao động, thận trọng,
Các căn khéo chế ngự,
Làm bạn với kẻ thiện,
Bậc trí tuệ như vậy,
Có thể đoạn đau khổ.
683. Một người đen, gầy
mòn,
Yếu ốm, đầy đường gân,
Tiết độ trong ăn uống,
Tâm tư không ưa não.
Yếu ốm, đầy đường gân,
Tiết độ trong ăn uống,
Tâm tư không ưa não.
683. Trong rừng núi rộng
lớn,
Bị muỗi ruồi đốt cắn,
Như con voi lâm trận,
Ta chánh niệm, chịu đựng.
Bị muỗi ruồi đốt cắn,
Như con voi lâm trận,
Ta chánh niệm, chịu đựng.
684. Ta không thích thú
chết,
Ta không thích thú sống,
Ta chờ thời gian đến,
Như thợ làm việc xong.
Ta không thích thú sống,
Ta chờ thời gian đến,
Như thợ làm việc xong.
685. Ta không thích thú
chết,
Ta không thích thú sống,
Ta chờ thời gian đến,
Tỉnh giác, giữ chánh niệm.
Ta không thích thú sống,
Ta chờ thời gian đến,
Tỉnh giác, giữ chánh niệm.
686. Ðạo Sư, ta hầu hạ,
Lời Phật dạy, làm xong,
Gánh nặng, đặt xuống thấp,
Gốc sanh hữu, nhổ sạch.
Lời Phật dạy, làm xong,
Gánh nặng, đặt xuống thấp,
Gốc sanh hữu, nhổ sạch.
687. Vì mục đích xuất
gia,
Bỏ nhà, sống không nhà,
Mục đích ấy, ta đạt,
Ta cần gì ở rừng.
Bỏ nhà, sống không nhà,
Mục đích ấy, ta đạt,
Ta cần gì ở rừng.
(CCXLVII) Udàyin (Thera. 69)
Trong thời đức Phật tại
thế, ngài sanh ở Kapilavatthu, trong một gia đình Bà-la-môn. Ngài thấy được
uy lực của đức Phật khi đức Phật thăm gia đình ngài. Ngài khởi lòng tin, xuất
gia và sau một thời gian, ngài thành bậc A-la-hán. Nay có đến ba vị Trưởng lãoUdàyin:
con một Bộ trưởng, tên là Kàludàyin (xem CCXXXIII), vị Bà-la-môn này và Ðại Udàyin. Khi kinh Ví dụ con voi được thuyết giảng, trong kinh này, con
voi Sela của vua Pasenadi được tán thán, ngài Udàyin này cảm thấy phấn khởi khi nghĩ đến đức Phật, nghĩ rằng các người
này chỉ tán thán một con vật, còn ta sẽ tán thán các đức tánh tốt đẹp của một
con voi tuyệt diệu, tức là đức Phật. Rồi Ngài nói lên những bài kệ như sau:
689. Ðức Phật, sanh làm
người,
Tự điều phục thiền định,
Uy nghi Phạm thiên đạo,
Hoan hỷ trong tâm tịnh.
Tự điều phục thiền định,
Uy nghi Phạm thiên đạo,
Hoan hỷ trong tâm tịnh.
690. Loài người đảnh lễ
Ngài,
Bậc đạt được bờ kia,
Ðối với hết thảy pháp,
Chư Thiên đảnh lễ Ngài,
Như vậy ta được nghe,
Ta là A-la-hán.
Bậc đạt được bờ kia,
Ðối với hết thảy pháp,
Chư Thiên đảnh lễ Ngài,
Như vậy ta được nghe,
Ta là A-la-hán.
691. Vượt qua mọi kiết
sử,
Từ rừng đến Niết-bàn,
Vui thoát ly các dục,
Như vàng thoát khoáng sản.
Từ rừng đến Niết-bàn,
Vui thoát ly các dục,
Như vàng thoát khoáng sản.
692. Vị ấy thật như voi,
Tuyệt luân đẹp rực rỡ
Ðứng trên đỉnh núi cao
Dãy trường sơn Hi-mã,
Trong mọi danh Nàga,
Ngài chân danh Vô thượng.
Tuyệt luân đẹp rực rỡ
Ðứng trên đỉnh núi cao
Dãy trường sơn Hi-mã,
Trong mọi danh Nàga,
Ngài chân danh Vô thượng.
693. Rồi ta sẽ tán thán,
Nàga này cho người,
Nàga không làm ác,
Nên được gọi Nàga,
Từ tốn, không làm hại,
Là hai chân Nàga.
Nàga này cho người,
Nàga không làm ác,
Nên được gọi Nàga,
Từ tốn, không làm hại,
Là hai chân Nàga.
694. Chánh niệm và tỉnh
giác,
Hai chân khác Nàga,
Voi Nàga là tín,
Ngà màu trắng là xả
Hai chân khác Nàga,
Voi Nàga là tín,
Ngà màu trắng là xả
695. Chánh niệm là cổ
họng,
Trí tuệ chỉ cho đầu,
Suy tầm với cái vòi,
Chỉ cho tư duy pháp.
Hòa trú là bụng pháp,
Viễn ly ví đuôi voi.
Trí tuệ chỉ cho đầu,
Suy tầm với cái vòi,
Chỉ cho tư duy pháp.
Hòa trú là bụng pháp,
Viễn ly ví đuôi voi.
696. Tu thiền, thở vô
lạc,
Nội tâm, khéo định tỉnh,
Nàga đi, định tỉnh,
Nàga đứng, định tỉnh.
Nội tâm, khéo định tỉnh,
Nàga đi, định tỉnh,
Nàga đứng, định tỉnh.
697. Nàga nằm, định
tỉnh,
Nàga ngồi, định tỉnh,
Trong tất cả tình huống,
Nàga sống chế ngự
Ðây thành tích Nàga.
Nàga ngồi, định tỉnh,
Trong tất cả tình huống,
Nàga sống chế ngự
Ðây thành tích Nàga.
698. Ăn đồ ăn không tội,
Ðồ có tội không ăn;
Ðược đồ ăn, y phục,
Từ bỏ, không tích trữ.
Ðồ có tội không ăn;
Ðược đồ ăn, y phục,
Từ bỏ, không tích trữ.
699. Kiết sử tế hay thô,
Chặt đứt mọi trói buộc,
Chỗ nào vị ấy đi,
Bước đi, không kỳ vọng.
Chặt đứt mọi trói buộc,
Chỗ nào vị ấy đi,
Bước đi, không kỳ vọng.
700. Như sen sanh trong
nước,
Lớn lên được tăng trưởng,
Không có dính nước ướt,
Thơm ngát, rất khả ái.
Lớn lên được tăng trưởng,
Không có dính nước ướt,
Thơm ngát, rất khả ái.
701. Cũng vậy bậc Chánh
Giác,
Sanh và trú ở đời,
Không có dính sự đời,
Như sen không dính nước.
Sanh và trú ở đời,
Không có dính sự đời,
Như sen không dính nước.
702. Như đống lửa cháy
đỏ,
Không củi tự tắt dần,
Trong than tro lắng dịu,
Ðược gọi lửa diệt tận.
Không củi tự tắt dần,
Trong than tro lắng dịu,
Ðược gọi lửa diệt tận.
703. Ví dụ, bậc trí
thuyết,
Ðể nêu rõ ý nghĩa,
Ðại Nàga sẽ hiểu,
Những gì về Nàga,
Do Nàga ấy giảng.
Ðể nêu rõ ý nghĩa,
Ðại Nàga sẽ hiểu,
Những gì về Nàga,
Do Nàga ấy giảng.
704. Vô tham và vô sân,
Vô si, không lậu hoặc,
Nàga từ bỏ thân,
Sẽ diệt độ Niết-bàn,
Không còn có lậu hoặc.
Vô si, không lậu hoặc,
Nàga từ bỏ thân,
Sẽ diệt độ Niết-bàn,
Không còn có lậu hoặc.
0 Komentar