Chương XX
-ooOoo-
Phẩm Sáu Mươi Kệ
(CCLXIII) Mahà-Moggallàna (Thera. 104)
Ðời ngài được kể với đời
ngài Sàriputta (CCLIX). Sau khi xuất gia một tuần, ở gần làngKallavàla tại Magadha, trong khi du hành ngài
bị hôn trầm thụy miên và được Thế Tôn dạy: 'Này Moggallàna, biếng nhác không giống với im lặng của bậc Thánh'. Ngài liền
tinh tấn chế ngự sự yếu đuối của mình. Khi chỉ nghe đề tài về các giới do đức
Phật giảng dạy, ngài chứng được quả A-la-hán. Một thời, Thế Tôn ở tại Jetavana, xác chứng ngài là bậc thần thông đệ nhất. Các bài kệ của ngài
được kiết tập thứ nhất.
I
Khích lệ các Tỷ-kheo:
1147. Chúng ta người ở
rừng,
Sống đồ ăn khất thực,
Bằng lòng với miếng ăn
Ðược bỏ rơi trong bát,
Phá nát ma, ma quân,
Nếu nội tâm khéo định.
Sống đồ ăn khất thực,
Bằng lòng với miếng ăn
Ðược bỏ rơi trong bát,
Phá nát ma, ma quân,
Nếu nội tâm khéo định.
1148. Chúng ta người ở
rừng,
Sống đồ ăn khất thực,
Bằng lòng với miếng ăn,
Ðược bỏ rơi trong bát,
Dẹp sạch ma, ma quân,
Như voi, nhà bằng lau.
Sống đồ ăn khất thực,
Bằng lòng với miếng ăn,
Ðược bỏ rơi trong bát,
Dẹp sạch ma, ma quân,
Như voi, nhà bằng lau.
1149. Chúng ta ở gốc
cây,
Nhẫn nại, tâm kiên trì,
Bằng lòng với miếng ăn,
Ðược bỏ rơi trong bát,
Phá nát ma, ma quân,
Nếu nội tâm khéo định
Nhẫn nại, tâm kiên trì,
Bằng lòng với miếng ăn,
Ðược bỏ rơi trong bát,
Phá nát ma, ma quân,
Nếu nội tâm khéo định
1150. Chúng ta ở gốc
cây,
Nhẫn nại, tâm kiên trì,
Bằng lòng với miếng ăn,
Ðược bỏ rơi trong bát,
Dẹp sạch ma, ma quân,
Như voi, nhà bằng lau.
Nhẫn nại, tâm kiên trì,
Bằng lòng với miếng ăn,
Ðược bỏ rơi trong bát,
Dẹp sạch ma, ma quân,
Như voi, nhà bằng lau.
II
Với một kỹ nữ muốn cám
dỗ ngài:
1151. Với am, sườn bằng
xương,
May dính với gân thịt,
Gớm thay, đầy hơi thối!
Mang tay chân người khác,
Làm thân thể của mình!
May dính với gân thịt,
Gớm thay, đầy hơi thối!
Mang tay chân người khác,
Làm thân thể của mình!
1152. Cái bị đựng đầy
phân,
Ðược da bao bọc lại,
Ôi con Quỷ cái kia!
Với vú bị ung nhọt,
Thân Ngươi, chín dòng nước
Luôn luôn được tuôn chảy.
Ðược da bao bọc lại,
Ôi con Quỷ cái kia!
Với vú bị ung nhọt,
Thân Ngươi, chín dòng nước
Luôn luôn được tuôn chảy.
1153. Thân Ngươi chín
dòng nước
Hôi thối, tạo trói buộc,
Tỷ-kheo tránh thân ấy,
Như kẻ sạch tránh phân.
Hôi thối, tạo trói buộc,
Tỷ-kheo tránh thân ấy,
Như kẻ sạch tránh phân.
1154. Nếu người khác
biết Ngươi
Như ta biết được Ngươi,
Người ấy tránh xa Ngươi,
Như khi mưa tránh phân.
Như ta biết được Ngươi,
Người ấy tránh xa Ngươi,
Như khi mưa tránh phân.
Người đàn bà ấy cảm thấy
hổ thẹn, đảnh lễ vị Truởng lão rồi thưa:
1155. Thật là vậy, Ðại
hùng,
Như Sa-môn, ngài nói:
Ở đây, có kẻ đắm,
Như bò già trong bùn.
Như Sa-môn, ngài nói:
Ở đây, có kẻ đắm,
Như bò già trong bùn.
Bậc Trưởng lão:
1156. Ai nghĩ có thể
nhuộm,
Bầu trời với màu nghệ,
Hoặc với màu sắc khác
Kẻ ấy chỉ thất bại.
Bầu trời với màu nghệ,
Hoặc với màu sắc khác
Kẻ ấy chỉ thất bại.
1157. Tâm ta giống trời
ấy,
Nội tâm khéo định tĩnh,
Chớ đem ác tâm đến
Như chim rơi đống lửa.
Nội tâm khéo định tĩnh,
Chớ đem ác tâm đến
Như chim rơi đống lửa.
1158. Hãy xem bóng trang
sức
Nhóm vết thương tích tụ,
Bệnh hoạn nhiều tham tưởng
Nhưng không gì trường cửu.
Nhóm vết thương tích tụ,
Bệnh hoạn nhiều tham tưởng
Nhưng không gì trường cửu.
III
Khi được tin Trưởng lão Sàriputta viên tịch:
1159. Ôi, thật hãi hùng
thay!
Ôi! Lông tóc dựng ngược,
Bậc đủ nhiều đức tánh,
Xá-lợi-phất nhập diệt.
Ôi! Lông tóc dựng ngược,
Bậc đủ nhiều đức tánh,
Xá-lợi-phất nhập diệt.
1160. Các hành là vô
thường
Có sanh phải có diệt,
Sau khi sanh, chúng diệt,
Nhiếp chúng là an lạc.
Có sanh phải có diệt,
Sau khi sanh, chúng diệt,
Nhiếp chúng là an lạc.
IV
Nói về Trưởng lão Tissa:
1161. Những ai thấy năm
uẩn,
Là khác, không phải ngã,
Quán thấu vật tế nhị,
Như tên đâm mũi tóc.
Là khác, không phải ngã,
Quán thấu vật tế nhị,
Như tên đâm mũi tóc.
1162. Những ai thấy các
hành,
Là khác, không phải ngã,
Chúng thấu triệt tế nhị,
Như têm đâm mũi tóc.
Là khác, không phải ngã,
Chúng thấu triệt tế nhị,
Như têm đâm mũi tóc.
V
Nói về Trưởng lão
Vaddhamàna
1163. Như bị kiếm chém xuống,
Như bị lửa cháy đầu,
Vị Tỷ-kheo xuất gia,
Chánh niệm, đoạn tham dục.
1163. Như bị kiếm chém xuống,
Như bị lửa cháy đầu,
Vị Tỷ-kheo xuất gia,
Chánh niệm, đoạn tham dục.
1164. Như bị kiếm chém
xuống,
Như bị lửa cháy đầu,
Vị Tỷ-kheo xuất gia,
Chánh niệm, đoạn tham hữu.
Như bị lửa cháy đầu,
Vị Tỷ-kheo xuất gia,
Chánh niệm, đoạn tham hữu.
VI
Tuyên bố liên hệ đến
kinh Pàsàdakamma:
1165. Ðược khuyên bảo
bởi vị,
Ðã tu tập tự ngã,
Mang thân này tối hậu,
Với ngón chân ta làm,
Rung chuyển cả lâu đài,
Migàramàtu.
Ðã tu tập tự ngã,
Mang thân này tối hậu,
Với ngón chân ta làm,
Rung chuyển cả lâu đài,
Migàramàtu.
VII
Nói liên hệ với một
Tỷ-kheo:
1166. Không với nhu
nhược này,
Không với ít lực này
Có thể chứng Niết-bàn,
Giải thoát mọi buộc ràng.
Không với ít lực này
Có thể chứng Niết-bàn,
Giải thoát mọi buộc ràng.
1167. Vị Tỷ-kheo trẻ
này,
Con người tối thượng này,
Chiến thắng ma, ma quân,
Mang thân này tối hậu.
Con người tối thượng này,
Chiến thắng ma, ma quân,
Mang thân này tối hậu.
VIII
Về đời sống viễn ly của
mình:
1168. Giữa đồi Vebhàra,
Giữa đồi Pandava,
Sét đánh vào hang động,
Con bậc Vô tỷ ấy,
Ðã đi vào hang núi,
Ðang ngồi nhập thiền định.
Giữa đồi Pandava,
Sét đánh vào hang động,
Con bậc Vô tỷ ấy,
Ðã đi vào hang núi,
Ðang ngồi nhập thiền định.
IX
Ði vào Ràjagaha (Vương Xá) để khất thực, ngài khuyến giáo người cháu của Sàriputta, một Bà-la-môn có tà kiến, người này thấy ngài Ðại-ca-diếp, cảm
thấy ghê tởm, như thấy được một nữ thần bất hạnh.
An tịnh và thoải mái,
Ẩn sĩ trú vùng xa,
Thừa tự Phật tối thắng,
Ðược Phạm thiên tán thán.
Ẩn sĩ trú vùng xa,
Thừa tự Phật tối thắng,
Ðược Phạm thiên tán thán.
1169. Hỡi này Bà-la-môn,
Hãy đảnh lễ Ca-diếp,
Ngài là con thừa tự,
Bậc Giác Ngộ tối thắng,
Ẩn sĩ trú vùng xa
An tịnh và thoải mái.
Hãy đảnh lễ Ca-diếp,
Ngài là con thừa tự,
Bậc Giác Ngộ tối thắng,
Ẩn sĩ trú vùng xa
An tịnh và thoải mái.
1170. Vị trải trăm đời
sống,
Ðều thuộc dòng Phạm chí,
Học giả, giỏi Vệ-đà,
Sanh tiếp tục làm người.
Ðều thuộc dòng Phạm chí,
Học giả, giỏi Vệ-đà,
Sanh tiếp tục làm người.
1171. Dầu là bậc giáo
sư,
Thấu triệt ba Vệ-đà,
Ðảnh lễ vị như vậy,
Chỉ giá một mười sáu.
Thấu triệt ba Vệ-đà,
Ðảnh lễ vị như vậy,
Chỉ giá một mười sáu.
1172. Vị ấy trước bữa
ăn,
Thấy được tám giải thoát.
Thuận hướng và nghịch hướng.
Rồi mới đi khất thực.
Thấy được tám giải thoát.
Thuận hướng và nghịch hướng.
Rồi mới đi khất thực.
1173. Chớ có đến tấn
công
Một Tỷ-kheo như vậy,
Hỡi này Bà-la-môn,
Chớ có đào tự ngã,
Hãy khởi ý tín nhiệm
Vị La hán như vậy,
Chấp tay đảnh lễ gấp,
Chớ để đầu ông hỏng.
Một Tỷ-kheo như vậy,
Hỡi này Bà-la-môn,
Chớ có đào tự ngã,
Hãy khởi ý tín nhiệm
Vị La hán như vậy,
Chấp tay đảnh lễ gấp,
Chớ để đầu ông hỏng.
X
Khi khuyến giáo một
Tỷ-kheo tên Potthila:
1174. Người không thấy
diệu pháp,
Dẫn đầu về luân hồi,
Chạy theo hướng tà đạo,
Ðường cong không nên đi.
Dẫn đầu về luân hồi,
Chạy theo hướng tà đạo,
Ðường cong không nên đi.
1175. Như con sâu dính
phân,
Say mê theo các hành,
Ðắm sâu vào lợi danh,
Trống rỗng, hỡi Pôt-thi.
Say mê theo các hành,
Ðắm sâu vào lợi danh,
Trống rỗng, hỡi Pôt-thi.
XI
Tán thán Tôn giả Sàriputta:
1176. Hãy xem Tôn giả này
Xá-lợi-phất đẹp sắc,
Giải thoát cả hai phần,
Nội tâm khéo định tĩnh.
Xá-lợi-phất đẹp sắc,
Giải thoát cả hai phần,
Nội tâm khéo định tĩnh.
1177. Không bị tên khát
ái,
Các kiết sử đoạn tận,
Ba minh đã đạt được,
Sát hại xong thần chết,
Ðáng được người cúng dường,
Là ruộng phước vô thượng.
Các kiết sử đoạn tận,
Ba minh đã đạt được,
Sát hại xong thần chết,
Ðáng được người cúng dường,
Là ruộng phước vô thượng.
XII
Do ngài Sàriputta nói lời tán thán Moggallàna:
1178. Có nhiều chư Thiên
này,
Có thần lực danh xưng,
Ðến mười ngàn chư Thiên
Tất cả Phạm phụ Thiên.
Họ đứng chấp hai tay
Ðảnh lễ Mục-kiền-liên.
Có thần lực danh xưng,
Ðến mười ngàn chư Thiên
Tất cả Phạm phụ Thiên.
Họ đứng chấp hai tay
Ðảnh lễ Mục-kiền-liên.
1179. Ðảnh lễ thượng
sanh nhân!
Ðảnh lễ vô thượng nhân!
Lậu hoặc ngài đã đoạn,
Ngài xứng được cúng dường.
Ðảnh lễ vô thượng nhân!
Lậu hoặc ngài đã đoạn,
Ngài xứng được cúng dường.
1180. Ðược trời người
đảnh lễ,
Ðã sanh, bậc thắng chết,
Như sen không dính nước,
Ngài không dính các hành.
Ðã sanh, bậc thắng chết,
Như sen không dính nước,
Ngài không dính các hành.
1181. Vị trong một
sát-na,
Biết đời, dưới ngàn cách,
Chẳng khác Ðại Phạm Thiên,
Tỷ-kheo ấy Thiên tử
Ðầy đủ thần thông lực,
Thấy được những thời cơ
Chết sống của mọi loài.
Biết đời, dưới ngàn cách,
Chẳng khác Ðại Phạm Thiên,
Tỷ-kheo ấy Thiên tử
Ðầy đủ thần thông lực,
Thấy được những thời cơ
Chết sống của mọi loài.
XIII
Mahà-Moggàllàna nói lên, xác nhận khả năng của mình:
1182. Xá-lợi-phất với
tuệ,
Giới hạnh, an tịnh tâm,
Tỷ-kheo đến bờ kia,
Vị ấy thật tối thượng.
Giới hạnh, an tịnh tâm,
Tỷ-kheo đến bờ kia,
Vị ấy thật tối thượng.
1183. Nhưng ta ngay giây
phút
Ðến trăm ngàn triệu lần,
Biến hóa tự thân được,
Ta thiện xảo biến hóa,
Thuần thục với thần thông.
Ðến trăm ngàn triệu lần,
Biến hóa tự thân được,
Ta thiện xảo biến hóa,
Thuần thục với thần thông.
1184. Dòng họ
Môg-gal-la,
Sống thiền định trí tuệ
Ði đến bờ bên kia,
Không ái giáo pháp đạt.
Hiền trí, các căn tịnh,
Chặt đứt các trói buộc,
Như voi bựt đứt ngang,
Dây leo đã mục nát.
Sống thiền định trí tuệ
Ði đến bờ bên kia,
Không ái giáo pháp đạt.
Hiền trí, các căn tịnh,
Chặt đứt các trói buộc,
Như voi bựt đứt ngang,
Dây leo đã mục nát.
1185. Ta hầu hạ Bổn Sư,
Lời Phật dạy làm xong,
Gánh nặng đã đặt xuống,
Gốc sanh hữu nhổ sạch.
Lời Phật dạy làm xong,
Gánh nặng đã đặt xuống,
Gốc sanh hữu nhổ sạch.
1186. Sanh của ta đã
tận,
Chiến thắng dạy làm xong,
Lưới danh được đoạn diệt,
Gốc sanh hữu nhổ lên,
Mục đích hạnh xuất gia,
Bỏ nhà, sống không nhà,
Ðích ấy đã đạt được,
Mọi kiết sử diệt xong.
Chiến thắng dạy làm xong,
Lưới danh được đoạn diệt,
Gốc sanh hữu nhổ lên,
Mục đích hạnh xuất gia,
Bỏ nhà, sống không nhà,
Ðích ấy đã đạt được,
Mọi kiết sử diệt xong.
La mắng Màra đã vào và ra khỏi bụng ngài:
1187. Ðịa ngục ấy thế
nào,
Dù si bị nấu sôi,
Vì đánh Vidhura,
Ðệ tử Kà-kùsandha.
Dù si bị nấu sôi,
Vì đánh Vidhura,
Ðệ tử Kà-kùsandha.
1188. Có trăm loại cọc
sắt,
Tự cảm thọ riêng biệt,
Ðịa ngục là như vậy,
Dù si bị nấu sôi,
Vì đánh Vidhura,
Ðệ tử Kakusandha.
Tự cảm thọ riêng biệt,
Ðịa ngục là như vậy,
Dù si bị nấu sôi,
Vì đánh Vidhura,
Ðệ tử Kakusandha.
1189. Tỷ-kheo đệ tử
Phật,
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì người đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ.
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì người đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ.
1190. Dựng lên giữa biển
cả,
Cung điện trải nhiều kiếp,
Bằng ngọc chói lưu ly,
Huy hoàng cùng chiếu diệu,
Tiên nữ múa tại đây,
Trang sức màu dị biệt.
Cung điện trải nhiều kiếp,
Bằng ngọc chói lưu ly,
Huy hoàng cùng chiếu diệu,
Tiên nữ múa tại đây,
Trang sức màu dị biệt.
1191. Tỷ-kheo đệ tử
Phật,
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ.
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ.
1192. Ai Thế Tôn khuyến
khích,
Chúng Tỷ-kheo chứng kiến,
Với ngón chân rung chuyển
Lầu mẹ Migàra.
Chúng Tỷ-kheo chứng kiến,
Với ngón chân rung chuyển
Lầu mẹ Migàra.
1193. Tỷ-kheo đệ tử
Phật,
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ.
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ.
1194. Với ngón chân rung
chuyển,
Lầu Vi-ja-yan-ta,
Ðầy đủ thần thông lực,
Chư Thiên cũng hoảng sợ.
Lầu Vi-ja-yan-ta,
Ðầy đủ thần thông lực,
Chư Thiên cũng hoảng sợ.
1195. Tỷ-kheo đệ tử
Phật,
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ.
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ.
1196. Ai hỏi vị Sakka,
Tại lầu Vijayan,
Hiền giả, ngươi có biết,
Ái tận được giải thoát?
Sakka đã chân thành,
Trả lời câu được hỏi.
Tại lầu Vijayan,
Hiền giả, ngươi có biết,
Ái tận được giải thoát?
Sakka đã chân thành,
Trả lời câu được hỏi.
1197. Tỷ-kheo đệ tử
Phật,
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ.
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ.
1198. Ai từng hỏi Phạm
thiên
Tại hội chúng Thiện Pháp:
Hiền giả nay vẫn chấp,
Các tà kiến thuở xưa,
Có thấy cảnh huy hoàng
Phạm thiên cảnh thiên giới.
Tại hội chúng Thiện Pháp:
Hiền giả nay vẫn chấp,
Các tà kiến thuở xưa,
Có thấy cảnh huy hoàng
Phạm thiên cảnh thiên giới.
1199. Brahmà đã chân
thành,
Tiếp tục đáp câu hỏi:
Tôn giả tôi không chấp
Các tà kiến thuở xưa.
Tiếp tục đáp câu hỏi:
Tôn giả tôi không chấp
Các tà kiến thuở xưa.
1200. Tôi thấy sự huy
hoàng
Phạm thiên cảnh thiên giới,
Sao nay tôi nói được,
Tôi thường hằng thường tại?
Phạm thiên cảnh thiên giới,
Sao nay tôi nói được,
Tôi thường hằng thường tại?
1201. Tỷ-kheo đệ tử
Phật,
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ.
Hiểu biết rõ như vậy,
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ.
1202. Ai với sự giải
thoát,
Cảm xúc Cao Sơn đảnh,
Rừng đông Videha
Và người nằm trên đất,
Cảm xúc Cao Sơn đảnh,
Rừng đông Videha
Và người nằm trên đất,
1203. Tỷ-kheo đệ tử
Phật,
Hiểu biết rõ như vậy.
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ.
Hiểu biết rõ như vậy.
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kanha chịu khổ thọ.
1204. Thật sự lửa không
nghĩ:
'Ta đốt cháy kẻ ngu',
Kẻ ngu đột kích lửa,
Tự mình bị thiêu cháy.
'Ta đốt cháy kẻ ngu',
Kẻ ngu đột kích lửa,
Tự mình bị thiêu cháy.
1205. Cũng vậy này
Ác-ma,
Ngươi đột kích Như Lai,
Tự đốt mình cháy mình,
Như kẻ ngu chạm lửa.
Ngươi đột kích Như Lai,
Tự đốt mình cháy mình,
Như kẻ ngu chạm lửa.
1206. Ác ma tạo ác
nghiệp,
Do nhiễu hại Như Lai,
Ngươi nghĩ chăng Ác-ma,
Ác quả không đến ta.
Do nhiễu hại Như Lai,
Ngươi nghĩ chăng Ác-ma,
Ác quả không đến ta.
1201. Ðiều ác Ác ma làm,
Chất chứa đã lâu rồi,
Ác-ma, hãy tránh Phật,
Chớ vọng tưởng Tỷ-kheo.
Chất chứa đã lâu rồi,
Ác-ma, hãy tránh Phật,
Chớ vọng tưởng Tỷ-kheo.
1208. Tỷ-kheo chống Ác
ma,
Tại rừng Bhe-kalà,
Vị Dạ-xoa thất vọng,
Biến mất tại chỗ ấy.
Tại rừng Bhe-kalà,
Vị Dạ-xoa thất vọng,
Biến mất tại chỗ ấy.
Như vậy, Tôn giả Mahà-Moggallàna nói lên những bài kệ.
0 Komentar