Phẩm Bốn
(XXXI) Gahvaratìrya (Thera. 6)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở Sàvatthi trong một gia đình Bà-la-môn và được gọi là Aggidatta. Khi lớn lên ngài thấy đức Phật hiện hóa thần
thông song hành, khởi lòng tin và xuất gia. Lấy một đề tài để hành trì, ngài đi
vào rừng Ratìra và được biết với tên là Gahvaratìriya, phát triển thiền quán, không bao lâu ngài chứng quả A-la-hán.
Rồi ngài đi đến đảnh lễ đức Phật ở Sàvatthi, các bà con ngài nghe
tin ngài đến, liền cúng dường ngài rất nhiều. Khi ngài muốn trở lui lại khu
rừng, các bà con ngăn lại, nói rằng núi nhiều muỗi và ruồi lằng rất khó sống.
Ngài trả lời đời sống rừng núi thích hợp với ngài và ngài nói lên chánh trí của
ngài với bài kệ:
31. Trong núi rừng rộng
lớn,
Bị muỗi lằng đốt cắn,
Như voi đầu chiến trận,
Tại đấy sống chánh niệm.
Bị muỗi lằng đốt cắn,
Như voi đầu chiến trận,
Tại đấy sống chánh niệm.
(XXXII) Suppiya (Thera. 6)
Trong thời đức Phật tại
thế, do nghiệp quá khứ, ngài được sanh trong gia đình người giữ nghĩa địa ở Sàvatthi. Ðược bạn Sopàka thuyết pháp cảm hóa, ngài xuất gia và chứng được
quả vị cao nhất, và trong bài kệ, ngài nói lên chánh trí của ngài khi đang phấn
đấu để chứng quả A-la-hán.
32. Bị già, được không
già,
Bị nung nấu, được tịnh,
Mong rằng ta sẽ được
Tịch tịnh thật tối thượng,
An ổn thật vô thượng,
Thoát khỏi các khổ ách.
Bị nung nấu, được tịnh,
Mong rằng ta sẽ được
Tịch tịnh thật tối thượng,
An ổn thật vô thượng,
Thoát khỏi các khổ ách.
(XXXIII) Soopaka, Một Tỷ-Kheo Trẻ Con (Thera. 6)
Ngài sanh trong thời đức
Phật hiện tại ở Sàvatthi, từ một người đàn bà rất nghèo khổ. Khi bà mẹ
đau đẻ, bà bất tỉnh và người ta tưởng bà đã chết nên đem thân bà đi thiêu. Một
phi nhân không cho lửa đốt cháy, làm mưa làm gió và những người thiêu thân bỏ
đi. Ðứa con trẻ được sanh mạnh khỏe, còn người mẹ bị chết. Vị phi nhân hóa làm
người, bế đứa con và bỏ trong nhà người giữ nghĩa địa, nuôi đứa con trong một
thời gian với đồ ăn thích hợp. Sau đó, người giữ nghĩa địa nhận làm con nuôi,
và Sopàkalớn lên với Suppiya, con trai nhỏ của người giữ cửa. Vì ngài sanh ở
nghĩa địa, nên đặt tên là Sopàka. Khi ngài bảy tuổi, Thế Tôn với thiên nhãn thanh
tịnh, vào buổi sáng, nhìn xem những ai có thiện căn tốt lành, thấy Sopàka và đi đến nghĩa địa. Sopàka được nghiệp duyên đời
trước, đi đến Thế Tôn với tâm tư hoan hỷ và đảnh lễ Thế Tôn, Thế Tôn thuyết
pháp và Sopàka xin xuất gia. Sau khi được phép người cha nuôi, Sopàkaxuất gia và được dạy tình thương huynh đệ làm đề tài tu hành. Sopàka lấy đề tài này và sống ở nghĩa địa và chứng được cảnh giới thiền
tương đương. Lấy cảnh giới thiền làm đề tài căn bản, ngài triển khai thiền quán
và chứng được quả A-la-hán. Sau khi chứng quả, ngài làm bài kệ, trong ấy ngài
nêu cho các Tỷ-kheo rõ đề tài tình thương anh em, không có phân biệt người thân
kẻ sơ. Với tất cả, tình thương phải là một, bao trùm mọi cảnh giới, mọi chúng
sanh mọi thời gian:
33. Như người mẹ tốt
lành
Thương người con độc nhất,
Cũng vậy đối chúng sanh,
Ðủ mọi loài, mọi chỗ,
Hãy có lòng tốt đẹp,
Thương mến và từ ái.
Thương người con độc nhất,
Cũng vậy đối chúng sanh,
Ðủ mọi loài, mọi chỗ,
Hãy có lòng tốt đẹp,
Thương mến và từ ái.
(XXXIV) Posiya (Thera. 6)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh làm con một triệu phú ở Sàvatthi, là em trai của Trưởng
lão Sangàmaji. Khi lớn lên, ngài lập gia đình. Khi sanh được đứa con trai, do
nghiệp duyên đời trước, ngài cảm thấy lo lắng trước vấn đề sống chết, nên ngài
xuất gia, sống một mình trong rừng và tu tập đề tài bốn sự thật. Sau một thời
gian, ngài chứng quả A-la-hán.
Rồi ngài đi đến Sàvatthi để đảnh lễ Thế Tôn và về thăm lại nhà cũ, người
vợ cũ cúng dường ngài và muốn cám dỗ ngài sống lại đời sống cũ, ngài biết được
dụng ý của vợ ngài nên cáo lui và về lại trong rừng, các bạn đồng tu hỏi vì sao
ngài về sớm như vậy, ngài kể lại câu chuyện đã xảy ra và nói lên bài kệ:
34. Không gần là tốt
đẹp,
Kẻ trí thường biết vậy,
Từ làng đi đến rừng,
Từ rừng, ta vào nhà,
Từ đấy, đứng dậy đi,
Không đoái hoài Bô-syà.
Kẻ trí thường biết vậy,
Từ làng đi đến rừng,
Từ rừng, ta vào nhà,
Từ đấy, đứng dậy đi,
Không đoái hoài Bô-syà.
(XXXV) Sàmannakàni (Thera. 6)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh làm con một du sĩ và xuất gia theo đức Phật. Khi thấy đức Phật
hóa hiện thần thông song hành; và nhờ thiền, ngài chứng quả A-la-hán.
Lúc bấy giờ, một du sĩ
tên Kàtiyàna, ngài quen khi còn là cư sĩ, du sĩ này mất hết sự ủng hộ của giới
cư sĩ từ khi đức Phật được mọi người qui ngưỡng, và trở thành khốn cùng. Kàtiyàna đến ngài và yêu cầu ngài ủng hộ để được hạnh phúc đời này đời sau,
ngài đáp: 'Hạnh phúc không liên hệ đến đời và chỉ những người hiểu biết quá
trình tu chứng mới hưởng sự an lạc thuần nhất này'. Và ngài nói lên bài kệ để
chứng minh sự thành đạt của ngài:
35. Kẻ tìm lạc, được lạc,
Nếu sở hành đúng đắn,
Lại thêm được kính trọng,
Danh vọng được tăng trưởng.
Ai tu tập chánh trực,
Con đường Thánh tám ngành,
Ðây là đường lộ trình,
Ðạt đến cảnh bất tử.
Nếu sở hành đúng đắn,
Lại thêm được kính trọng,
Danh vọng được tăng trưởng.
Ai tu tập chánh trực,
Con đường Thánh tám ngành,
Ðây là đường lộ trình,
Ðạt đến cảnh bất tử.
(XXXVI) Con Của Kunmà (Thera. 6)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài được sanh ở xứ Anvanti thành Velukanda,
và được đặt tên là Nanda. Nhưng vì mẹ tên Kumà nên ngài được gọi là con của Kumà. Khi nghe Tôn giả Sàriputta thuyết pháp, ngài xuất gia và tu tập trên sườn
đồi. Nhưng chỉ sau khi nghe đức Phật thuyết pháp và sửa lại phương pháp tu tập,
ngài mới chứng quả A-la-hán. Khi đã trở thành A-la-hán, ngài thấy các Tỷ-kheo
khác quá lo cho thân thể, nên ngài dùng bài kệ để hướng dẫn họ theo Chánh pháp:
36. Lành thay, điều được
nghe!
Lành thay, hạnh phúc sống!
Lành thay, thường an trú!
Ðời sống kẻ không nhà.
Tìm hỏi nghĩa Chánh pháp,
Làm các hạnh cung kính,
Ðấy là hạnh Sa-môn,
Của bậc Vô sở hữu.
Lành thay, hạnh phúc sống!
Lành thay, thường an trú!
Ðời sống kẻ không nhà.
Tìm hỏi nghĩa Chánh pháp,
Làm các hạnh cung kính,
Ðấy là hạnh Sa-môn,
Của bậc Vô sở hữu.
(XXXVII) Bạn Của Con Kumà (Thera. 6)
Ngài được sanh trong
thời đức Phật hiện tại, tại thành Velukanda,
trong một gia đình giàu có tên Sudanta. Có người nói ngài tên là Vasulokì. Ngài trở thành bạn thân với con của Kumà. Khi con của Kumà xuất gia, ngài nghĩ đạo của con Kumà không thể là đạo tầm thường nên đến nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp.
Nghe xong, ngài cảm thấy nhiều xúc động và xuất gia. Ngài cùng an trú với con
của Kumà trên sườn đồi để tu hành.
Trong lúc ấy, nhiều
Tỷ-kheo bộ hành nhiều địa phương, đều an trú tại chỗ hai vị này và tạo nên cảnh
ồn ào. Sudanta, tâm thiền định bị chi phối, lấy sự kiện này làm
đề tài để tinh tấn tu hành và nói lên bài kệ này:
37. Bộ hành nhiều xứ sở,
Với hạnh không suy tưởng,
Thiêu đốt phần thiền định,
Ði khắp xứ làm gì?
Do vậy, ngăn vọng động,
Không vọng hướng, hãy thiền.
Với hạnh không suy tưởng,
Thiêu đốt phần thiền định,
Ði khắp xứ làm gì?
Do vậy, ngăn vọng động,
Không vọng hướng, hãy thiền.
(XXXVIII) Gavampati (Thera. 6)
Ngài được sanh trong
thời đức Phật hiện tại, ngài là một trong bốn người bạn của Yasa(Da-xá). Khi họ nghe Yasa xuất gia, tất cả đều
xuất gia và chứng quả A-la-hán. Rồi ngài sống ở rừng Anjana tại Sàkela, và hưởng lạc giải thoát. Khi bấy giờ, Thế Tôn
đến với một số đông Tỷ-kheo tại Anjana. Chỗ ngủ không đầy đủ và một số Tỷ-kheo ngủ
xung quanh tinh xá, trên bãi cát sông Sarabhà. Nửa đêm, nước sông
dâng lên và các Tỷ-kheo trẻ la lớn. Thế Tôn nghe vậy, bảo Gavampati can thiệp, ngăn sông không cho dâng cao, khiến
các Tỷ-kheo yên tâm. Vị Trưởng lão với thần túc thông của mình, làm theo lời
Phật dạy, dừng dòng sông lại từ xa, khiến dòng sông dựng đứng lại như ngọn núi,
do vậy ngài được mọi người biết là có thần thông. Một ngày kia, Thế Tôn đang
thuyết pháp giữa một số đông người, thấy Gavampati vì lòng từ bi nghĩ đến
đời, đức Phật tán thán các hạnh của Gavampati với bài kệ:
38. Ai với thần túc
thông,
Dựng đứng Sarabhu,
Chính Gavampati,
Không ỷ lại, không động,
Vượt qua mọi trói buộc,
Chư Thiên đều đảnh lễ,
Bậc Ðại sĩ Mâu-ni
Ðã vượt qua sanh hữu.
Dựng đứng Sarabhu,
Chính Gavampati,
Không ỷ lại, không động,
Vượt qua mọi trói buộc,
Chư Thiên đều đảnh lễ,
Bậc Ðại sĩ Mâu-ni
Ðã vượt qua sanh hữu.
(XXXIX) Tissa (Thera. 6)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài được sanh ở Kapilavatthu, con người dì của đức Phật và được đặt tên là Tissa. Ngài xuất gia theo đức Phật, sống tại một lâm trại và tự phụ với
địa vị của mình, tánh hay nóng nảy bất thường, vì vậy ngài không làm bổn phận
của mình được hăng hái.
Rồi bậc Ðạo Sư, với
thiên nhãn thấy ngài đang ngủ há miệng liền hiện đến trước ngài, thức ngài dậy
với bài kệ:
39. Như bị kiếm chém
xuống,
Như bị lửa cháy đầu,
Vị Tỷ-kheo xuất gia,
Chánh niệm, đoạn tham dục.
Như bị lửa cháy đầu,
Vị Tỷ-kheo xuất gia,
Chánh niệm, đoạn tham dục.
(XL) Vaddhamàna (Thera. 7)
Ngài sanh ở Vesàli, trong gia đình một vị vua Licchavì, ngài trở thành một thiếu niên có tín tâm và phục vụ Tăng chúng.
Về sau, khi đã xuất gia, ngài trở thành biếng nhác và được Như Lai khích lệ với
bài kệ:
40. Như bị kiếm chém
xuống,
Như bị lửa cháy đầu,
Vị Tỷ-kheo xuất gia,
Chánh niệm, đoạn tham hữu.
Như bị lửa cháy đầu,
Vị Tỷ-kheo xuất gia,
Chánh niệm, đoạn tham hữu.
0 Komentar