Phẩm Chín
(LXXXI) Samitigutta (Thera. 12)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở Sàvatthi, tên là Samitigutta (hộ trì nhờ hòa khí).
Nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, ngài xuất gia và chứng được giới thanh tịnh. Do
kết quả nghiệp đời trước, ngài bị bệnh hủi, tay chân của ngài rơi xuống từng
phần một, ngài sống trong một nhà bệnh.
Một hôm, Tôn giả Sàriputta đi thăm các người bệnh và hỏi thăm các bệnh nhân, thấySamitigutta,
Tôn giả cho một đề tài để thiền quán, nói rằng: 'Này Hiền giả, nếu nói về vấn
đề năm thủ uẩn, thời toàn bộ khổ uẩn là một vấn đề cảm thọ. Và khi không có năm
uẩn, thời không có đau khổ'. Nói xong, Tôn giả Sàriputta tiếp tục đi. Nhưng bệnh nhânSamigutta được phấn khởi với bài dạy ấy, triển khai thiền
quán và chứng được sáu thắng trí. Nhờ đó, ngài nhớ đến các hành ngài làm đời
trước, khiến nay ngài phải mắc bệnh hủi. Và tán thán sự kiện này mọi việc đã
được chấm dứt, ngài nói lên bài kệ:
81. Việc ác ta đã làm,
Trong các đời sống trước,
Ở đây chỉ cảm thọ,
Thọ lãnh từ nghiệp ấy,
Căn bản các nghiệp khác,
Thật sự không còn nữa.
Trong các đời sống trước,
Ở đây chỉ cảm thọ,
Thọ lãnh từ nghiệp ấy,
Căn bản các nghiệp khác,
Thật sự không còn nữa.
(LXXXII) Kassapa (Thera. 12)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở Sàvatthi, con một Bà-la-môn thuộc Tây Bắc (Udicca-hahmanacsa) và được đặt tên là Kassapa. Cha ngài mất khi ngài còn nhỏ, mẹ ngài nuôi ngài lớn lên. Một ngày
kia, ngài nghe đức Phật giảng ở Jetavana, ngay lúc ấy nhờ nghiệp duyên thuần thục, ngài
chứng được Sơ quả. Ngài đi đến gặp mẹ và xin xuất gia.
Khi đức Phật an cư, làm
lễ tự tứ xong, bắt đầu bộ hành, Kassapa muốn được đi theo Thế Tôn. Trước hết ngài đến
xin phép bà mẹ và được mẹ cho phép đi với lời khuyên dạy như sau:
82. Hãy đi tại chỗ nào,
Khất thực nhận dễ dàng,
Những chỗ được an toàn,
Những chỗ không sợ hãi,
Tại những chỗ như vậy,
Này con, con hãy đi,
Chớ khiến cho đời con,
Sầu muộn bị va chạm.
Khất thực nhận dễ dàng,
Những chỗ được an toàn,
Những chỗ không sợ hãi,
Tại những chỗ như vậy,
Này con, con hãy đi,
Chớ khiến cho đời con,
Sầu muộn bị va chạm.
Ngài suy nghĩ 'Mẹ ta
muốn ta đến đến chỗ ta giải thoát khỏi phiền não, như vậy đây là dịp cho ta đạt
được giải thoát hoàn toàn, không có sầu não buồn phiền'.
Rồi ngài cố gắng triển
khai thiền quán, chứng quả A-la-hán. Vì rằng lời khuyên của mẹ giúp ngài tinh tấn
hành trì chứng quả, nên ngài nói lại bài kệ ấy.
(LXXXIII) Sìha (Thera. 12)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở xứ Malla, trong gia đình hoàng tộc và được đặt tên là Sìha. Khi thấy đức Phật, ngài bị cảm hóa, đảnh lễ và ngồi xuống một
bên, bậc Ðạo Sư biết được tâm tư của ngài, thuyết pháp cho ngài, ngài khởi lòng
tin, xuất gia và lấy một đề tài vào trong rừng để thiền quán. Tâm tư của ngài
bị nhiều đối tượng ám ảnh, ngài không thể thiền định, bậc Ðạo Sư thấy vậy, liền
nói lên với ngài bài kệ như sau:
83. Hỡi Sìha, hãy sống,
Không buông lung, phóng dật,
Ngày đêm không biếng nhác,
Kiên trì trong tu tập,
Hãy thực hành thiện pháp,
Gấp bỏ thân tích tụ.
Không buông lung, phóng dật,
Ngày đêm không biếng nhác,
Kiên trì trong tu tập,
Hãy thực hành thiện pháp,
Gấp bỏ thân tích tụ.
Nhờ vậy ngài có thể
triển khai thiền quán và chứng quả A-la-hán. Lúc nói lên chánh trí của mình,
ngài đọc lại bài kệ trên.
(LXXXIV) Nita (Thera. 13)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài được sanh ở Sàvatthi, con một Bà-la-môn và được đặt tên là Nita. Khi lớn lên, ngài nghĩ: 'Các tu sĩ Thích-ca thật may mắn, được
cúng dường đầy đủ các vật cần dùng. Thật là một đời sống thoải mái, đời sống
của một Tu sĩ'. Rồi ngài xin xuất gia để được sống thoải mái, không chú ý đến
tu tập, ăn no, nói chuyện nhảm nhí, và ban đêm ngủ dài. Bậc Ðạo Sư thấy được
thiện duyên của ngài đời trước, nên nói lên bài kệ này để giáo giới ngài.
84. Trọn đêm Thầy nằm
ngủ,
Ban ngày thích tụ hội,
Kẻ ngu sống như vậy,
Sẽ đoạn khổ được sao?
Ban ngày thích tụ hội,
Kẻ ngu sống như vậy,
Sẽ đoạn khổ được sao?
Bị dao động bởi lời dạy
của bậc Ðạo Sư, ngài triển khai thiền quán, không bao lâu chứng quả A-la-hán.
Rồi ngài nói lên chánh trí của ngài, bằng cách lập lại bài kệ trên.
(LXXXV) Sunàga (Thera. 13)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở làng Nàlaka, con một Bà-la-môn và bạn củaSàriputta trước khi Sàriputta xuất gia. Nghe Tôn giả Sàriputta thuyết pháp, ngài xuất gia, an trú trên thiền
quán và không bao lâu chứng quả A-la-hán. Do vậy, khi ngài dạy cho các Tỷ-kheo,
ngài nói lên chánh trí của ngài với bài kệ:
85. Thiện xảo tướng của
tâm,
Biết vị ngọt viễn ly,
Hành thiền, niệm, thận trọng,
Chứng lạc không thế tục.
Biết vị ngọt viễn ly,
Hành thiền, niệm, thận trọng,
Chứng lạc không thế tục.
(LXXXVI) Nàgita (Thera. 13)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ỏ Kapilavatthu, trong gia đình hoàng tộc Thích-ca, tên là Nàgita. Khi bậc Ðạo Sư đến tại chỗ của ngài, Thế Tôn thuyết kinh Mật
Hoàn, ngài khởi lòng tin, xuất gia không bao lâu chứng quả A-la-hán. Rồi hân
hoan với sự thật trong lời dạy của đức Phật, và sự chỉ đạo có hiệu quả của
Chánh pháp, ngài nói lên bài kệ này:
86. Ngoài đây có ngoại
đạo,
Họ dạy những con đường,
Không như con đường này,
Ðưa đến quả Niết-bàn,
Thật khác, đức Thế Tôn,
Giáo giới hàng Tăng chúng,
Ðạo Sư chỉ Niết-bàn,
Như thấy trên bàn tay.
Họ dạy những con đường,
Không như con đường này,
Ðưa đến quả Niết-bàn,
Thật khác, đức Thế Tôn,
Giáo giới hàng Tăng chúng,
Ðạo Sư chỉ Niết-bàn,
Như thấy trên bàn tay.
(LXXXVII) Pavittha (Thera. 13)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sống ở quốc độ Magadha, trong một gia đình Bà-la-môn, tánh thiên về
đời sống ẩn sĩ, ngài trở thành một du sĩ. Sau khi học tập, ngài đi chỗ này chỗ
khác, nghe Upatissa và Kolita (Sàriputta và Moggallàna) xuất gia theo đức Phật, nghĩ rằng giáo hội này phải tốt đẹp mới có
những vị như vậy chấp nhận. Ngài đến nghe đức Phật thuyết pháp, khởi lòng tin,
xuất gia không bao lâu chứng quả A-la-hán, ngài nói lên chánh trí của ngài với
bài kệ này:
87. Thấy như thật các
uẩn,
Mọi sanh hữu phá hủy,
Ðoạn sanh tử luân hồi,
Nay không còn tái sanh.
Mọi sanh hữu phá hủy,
Ðoạn sanh tử luân hồi,
Nay không còn tái sanh.
(LXXXVIII) Ajjuna (Thera. 13)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở Sàvatthi, trong gia đình một nghị sĩ, được đặt tên là Ajjuna. Khi lớn lên, ngài liên hệ với phái Ni-kiền-tử, xuất gia trong
tôn phái này khi còn trẻ, nghĩ rằng sẽ tìm được đạo giải thoát. Nhưng ngài
không tìm được gì trong giáo hội ấy, ngài gặp bậc Ðạo Sư, khởi lòng tin, xuất
gia và không bao lâu chứng quả A-la-hán. Hân hoan trong quả chứng của mình,
ngài nói lên bài kệ này:
88. Ta có thể tự mình,
Kéo nước từ đất liền,
Như nước lớn cuốn trôi,
Ta thể nhập sự thật.
Kéo nước từ đất liền,
Như nước lớn cuốn trôi,
Ta thể nhập sự thật.
(LXXXIX) Devasabha (Thera. 13)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài là con của một hoàng tộc, lên ngôi vua khi còn trẻ. Nhưng khi tỉnh
ngộ, ngài đi nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, từ bỏ ngôi vua, xuất gia và không bao
lâu chứng quả A-la-hán. Ngài hân hoan khi nghĩ đến những uế nhiễm ngài đã từ
bỏ, và nói lên bài kệ này:
89. Vượt khỏi các bùn
nhơ,
Từ vực thẳm trở về,
Thoát bọc lưu trói buộc,
Mọi kiêu mạn tiêu trừ.
Từ vực thẳm trở về,
Thoát bọc lưu trói buộc,
Mọi kiêu mạn tiêu trừ.
(XC) Sàmidatta (Thera. 13)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), con một Bà-la-môn, được đặt tên là Sàmidatta. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài nghe uy lực của
đức Phật, và đi đến tinh xá với những cư sĩ để nghe bậc Thế Tôn thuyết pháp,
ngài khởi lòng tin và xuất gia. Nhưng vì thiếu kinh nghiệm trong một thời gian,
ngài không có nhiệt tâm tu tập, cuối cùng, lại được nghe đức Phật thuyết pháp,
ngài trở nên phấn khởi, nhiệt tâm và chứng thực quả A-la-hán.
Về sau, các Tỷ-kheo hỏi
ngài: 'Làm sao Hiền giả chứng được pháp Thượng nhân?' Và ngài nói lên hiệu năng
của giáo pháp, sự tu chứng pháp và tùy pháp. Ngài tuyên bố chánh trí của ngài
trong bài kệ như sau:
90. Năm uẩn được rõ
biết,
Tồn tại sẽ cắt đứt,
Vòng sanh tử đoạn tận,
Nay không còn tái sanh.
Tồn tại sẽ cắt đứt,
Vòng sanh tử đoạn tận,
Nay không còn tái sanh.
0 Komentar