Phẩm Mười Một
(CI) Belatthakàni (Thera. 15)
Tái sanh trong thời đức
Phật hiện tại ở Sàvatthi trong một gia đình Bà-la-môn, ngài được đặt tên
là Belatthakàni. Sau khi nghe đức Phật thuyết giảng, ngài xuất
gia, tu tập chỉ quán trong một khu rừng ở Kosala. Nhưng ngài rất biếng
nhác và hay nói lời thô ngữ, do vậy tâm tư ngài không chơn chánh để tu tập, Thế
Tôn biết được thiền quán chín muồi của ngài, khích lệ ngài với bài kệ như sau:
101. Từ bỏ đời cư sĩ,
Trách nhiệm chưa làm xong,
Dùng miệng như cái cày,
Bụng ăn no, biếng nhác,
Như con heo to lớn,
Ðồ ăn thật đầy đủ,
Kẻ nhác lại liên tục,
Ði đến chỗ thai tạng.
Trách nhiệm chưa làm xong,
Dùng miệng như cái cày,
Bụng ăn no, biếng nhác,
Như con heo to lớn,
Ðồ ăn thật đầy đủ,
Kẻ nhác lại liên tục,
Ði đến chỗ thai tạng.
Như thấy đức Bổn Sư
trước mặt, ngài cảm thấy xúc động mãnh liệt khi nghe bài kệ này và triển khai
thiền quán, không bao lâu chứng quả A-la-hán, ngài dùng bài kệ này nói lên
chánh trí của ngài.
(CII) Setuccha (Thera. 15)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh làm con một vị Của địa phương. Không thể giữ nước nhà độc lập,
ngài bị mất ngôi vua. Lang thang trong nước với tâm tư sầu khổ, ngài thấy và
nghe Thế Tôn thuyết pháp, xuất gia, chứng quả A-la-hán. Cân nhắc trong bài kệ,
chống đối đời thế tục, ngài nói lên chánh trí của ngài:
102. Bị kiêu mạn lừa
đảo,
Tâm uế nhiễm trong hành,
Lợi bất lợi, dao động,
Họ không chứng thiền định.
Tâm uế nhiễm trong hành,
Lợi bất lợi, dao động,
Họ không chứng thiền định.
(CIII) Bandhura (Thera. 15)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở thành Silàvatì, con của một người nghị sĩ được đặt tên là Bandhara. Một hôm, đi đến Sàvatthi có công việc, ngài đi với một số cư sĩ đến ngôi
tinh xá, nghe Thế Tôn thuyết giảng, khởi lòng tin, xuất gia và chứng quả
A-la-hán. Ðể đền ơn vị vua của mình, đã giúp đỡ cho ngài thành công, ngài đi
đến Sìlavatì để thuyết pháp, giảng cho vị vua về Bốn sự thật. Vị vua trở thành
một Phật tử, xây dựng một ngôi tinh xá lớn đặt tên là Sudassana, cúng dường cho ngài. Ngài cúng dường tất cả cho
giáo hội, đi khất thực như lúc trước và ngài muốn đi đến Sàvatthi. Các Tỷ-kheo nói với ngài: 'Hãy ở lại đây với chúng tôi, nếu Hiền
giả thiếu thốn điều gì, chúng tôi sẽ tìm kiếm cho Hiền giả!'. Ngài trả lời:
'Tôi không có cần điều gì khác, tôi sống với những gì tôi có được. Tôi tự bằng
lòng với vị của Chánh pháp'. Và ngài nói lên bài kệ:
103. Ta không có cần
thiết,
Việc này hay vật này,
Ta sống trong hạnh phúc,
Thọ hưởng được pháp vị.
Sau khi uống vị ngọt,
Tối thượng và đệ nhất,
Ta sẽ không thân thiết,
Với thuốc độc nọc độc.
Việc này hay vật này,
Ta sống trong hạnh phúc,
Thọ hưởng được pháp vị.
Sau khi uống vị ngọt,
Tối thượng và đệ nhất,
Ta sẽ không thân thiết,
Với thuốc độc nọc độc.
(CIV) Khitaka (Thera. 15)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh ở Sàvatthi (Xá-vệ), trong gia đình Bà-la-môn. Khi lớn lên,
nghe danh tiếng của ngài Mahà Moggallàna (Ðại Mục-kiền-liên) về thần thông lực, ngài
nghĩ: 'Ta rồi cũng sẽ như vậy'. Thúc đẩy bởi thiện duyên đời trước, ngài xuất
gia tinh tấn tu tập chỉ và quán, không bao lâu chứng được sáu thắng trí. Rồi
dùng sáu thắng trí ấy, ngài bắt đầu thi ơn cho chúng sanh với thần túc thông và
tha tâm thông. Khi các Tỷ-kheo hỏi ngài: 'Hiền giả Khitaka, có phải Hiền giả dùng thần thông?', ngài trả lời với bài kệ:
104. Thân ta thật nhẹ
nhàng,
Cảm xúc hỷ lạc lớn,
Như bông thổi trước gió,
Thân ta nhẹ trôi bay.
Cảm xúc hỷ lạc lớn,
Như bông thổi trước gió,
Thân ta nhẹ trôi bay.
(CV) Malytavambha (Thera. 15)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn, ở thành phốKurukaccha. Ngài
được Trưởng lão Bacchabhu cảm hóa và xuất gia, tu tập thiền quán, ngài trú
tại chỗ đồ ăn khất thực khó kiếm, chỗ nào ba đồ vật dụng cần thiết khó kiếm,
còn đồ ăn khất thực dễ kiếm thời ngài bỏ đi. Tiếp tục như vậy, và nhờ thiện
duyên đời trước, ngài trở thành bậc Ðại nhân, phát triển thiền quán và chứng
được quả A-la-hán. Suy nghĩ trên quả chứng của mình, ngài nói lên bài kệ:
105. Ta không muốn an
trú,
Khi ta không vừa ý,
Chỗ nào có lạc thú,
Ta liền rời bỏ đi,
Tại chỗ nào mục đích,
Không phải không liên hệ,
Chỗ ấy, người có mắt,
Có thể an trú được.
Khi ta không vừa ý,
Chỗ nào có lạc thú,
Ta liền rời bỏ đi,
Tại chỗ nào mục đích,
Không phải không liên hệ,
Chỗ ấy, người có mắt,
Có thể an trú được.
(CVI) Suhemanta (Thera. 15)
Trong thời đức Phật tại
thế, ngài sanh ở nơi biên địa, con một Bà-la-môn giàu có, ngài đến nghe đức
Phật thuyết pháp, tại vườn Lộc Uyển ở thành phố Sankassa, Ngài xuất gia và trở thành người tụng đọc ba Tạng, cuối cùng
chứng được sáu thắng trí. Ngài suy nghĩ: 'Ta đã được những gì một người đệ tử
có thể chứng. Vậy ta hãy phục vụ cho giáo hội'. Rồi ngài thuyết giảng cho các Tỷ-kheo
và giải quyết các vấn đề khó khăn của các vị ấy. Một hôm, ngài nói với đại
chúng và các người có trí như sau:
106. Tại chỗ nào mục
đích,
Trăm tánh, tướng ẩn chứa,
Kẻ ngu thấy một phần,
Kẻ trí thấy trăm phần.
Trăm tánh, tướng ẩn chứa,
Kẻ ngu thấy một phần,
Kẻ trí thấy trăm phần.
Như vậy, vị Trưởng lão
nói lên trước các Tỷ-kheo về trí tuệ, phân tích biệt tài của ngài.
(CVII) Dhammasava (Thera. 15)
Sanh tại xứ Magadha (Ma-kiệt-đà), trong một gia đình Bà-la-môn, bị thúc đẩy bởi điều
kiện chín muồi, ngài chọn đời sống xuất gia, bỏ đời sống thế tục. Tìm gặp bậc
Ðạo Sư ở núi Nam Sơn, ngài nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, xin xuất gia, sau một
thời gian chứng quả A-la-hán. Hoan hỷ với quả chứng của mình, ngài nói lên bài
kệ:
107. Cân nhắc, suy tư
xong,
Ta xuất gia, không nhà,
Ba minh ta đạt được,
Lời Phật dạy, làm xong.
Ta xuất gia, không nhà,
Ba minh ta đạt được,
Lời Phật dạy, làm xong.
(CVIII) Phụ Thân Của Dhammasava (Thera. 15)
Ngài theo gương người
con, nói rằng: 'Con ta từ bỏ đời sống thế tục khi còn trẻ như vậy, sao ta không
noi theo gương?' Rồi ngài tìm gặp Thế Tôn xuất gia, không bao lâu chứng quả
A-la-hán và nói lên bài kệ:
108. Với tuổi trăm hai
mươi,
Ta xuất gia không nhà,
Ba minh ta đạt được,
Lời Phật dạy, làm xong.
Ta xuất gia không nhà,
Ba minh ta đạt được,
Lời Phật dạy, làm xong.
(CIX) Langha Rakkhita (Thera. 16)
Trong thời đức Phật tại
thế , sanh trong một gia đình giàu có ở Sàvatthi. Ngài tìm được lòng
tin, xuất gia, lấy một đề tài để thiền quán, và cùng với một Tỷ-kheo sống trong
rừng. Không xa chỗ ngài ở, có con nai mẹ nuôi con nai con trong một đám cây rậm
rạp, vì thương con, con nai mẹ không đi xa được, nên phải đói khát, không đủ
cỏ, nước gần đó. Thấy vậy, ngài nói: 'Thật vậy, thế giới này bị ái triền trói
buộc, sống trong đau khổ, không thể chặt đứt được!'. Với cảm thọ ấy để khích
lệ, ngài phát triển thiền quán, chứng quả A-la-hán. Thấy bạn mình nuôi dưỡng
nhiều tư tưởng sai lầm, ngài giáo giới bạn mình với bài kệ như sau:
109. Dầu có sống cô độc,
Với lòng thương từ mẫn,
Của bậc đã lo nghĩ,
Ðến hạnh phúc tối thượng,
Vị này vẫn không nghĩ,
Ðến lời dạy Bổn Sư.
Như vậy vị ấy sống,
Với căn còn mộc mạc,
Chẳng khác con nai cái,
Non yếu trong khu rừng.
Với lòng thương từ mẫn,
Của bậc đã lo nghĩ,
Ðến hạnh phúc tối thượng,
Vị này vẫn không nghĩ,
Ðến lời dạy Bổn Sư.
Như vậy vị ấy sống,
Với căn còn mộc mạc,
Chẳng khác con nai cái,
Non yếu trong khu rừng.
Khi nghe những lời này,
vị Tỷ-kheo kia bị dao động mạnh, phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán.
(CX) Usabha (Thera. 16)
Trong thời đức Phật hiện
tại, ngài sanh trong một gia đình giàu có ở Kosala, ngài khởi lên lòng tin
khi bậc Ðạo Sư nhận lãnh tinh xá Jetavana (Kỳ Viên). Sau khi hành
trì hạnh Sa-di, ngài sống trong rừng dưới chân núi. Vào mùa mưa, các mây xả mưa
xuống cây cỏ trong rừng, các bụi cây nhóm cây đều đầy những hoa lá. Rồi ngài từ
hang đi ra, thấy cây cối xanh tươi đẹp nên nghĩ rằng: 'Các cây và các cây lau
này không có ý thức, tuy vậy với mùa mưa tiếp sức, chúng được lớn mạnh. Sao ta
lại không làm lớn mạnh các đức tánh tốt đẹp khi ta đã đạt thời tiết thuận
tiện?' Rồi ngài nói lên bài kệ, tuyên bố chánh trí của ngài, và với tinh tấn
nghị lực, ngài chứng quả A-la-hán.
110. Những cây được vươn
cao,
Nhờ mây cao tưới mát,
Với mưa mới thấm nhuần,
Ðược xanh tươi lớn mạnh,
Ðối với U-xa-bha,
Ưa thích sống viễn ly,
Ý thức được rừng núi,
Vị ấy khiến sanh khởi,
Rất nhiều điều tốt đẹp.
Nhờ mây cao tưới mát,
Với mưa mới thấm nhuần,
Ðược xanh tươi lớn mạnh,
Ðối với U-xa-bha,
Ưa thích sống viễn ly,
Ý thức được rừng núi,
Vị ấy khiến sanh khởi,
Rất nhiều điều tốt đẹp.
0 Komentar