PHẨM VARANA
71.
CHUYỆN CÂY VARANA (Tiền thân Vanara)
Ai có
việc làm trước...,
Câu
chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về Trưởng lão tên là
Kutumbikaputtatissa (Tissa, con vị điền chủ). Theo truyền thuyết, một hôm, ba
mươi thiện nam tử thân hữu với nhau ở Xá-vệ, đem theo hương hoa, vải, áo, với
đại chúng vây quanh, đi đến Kỳ Viên để nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp. Khi đến, họ
ngồi một lát trong những lùm cây Sàla có tàm lá phủ xung quanh.
Cho đến
chiều, khi bậc Ðạo Sư từ Hương phòng thơm ngát đến Pháp đường, ngồi trên Phật
tọa trang nghiêm, họ cùng với tùy tùng đi đến cúng dường hương hoa lên bậc Ðạo
Sư, đảnh lễ dưới chân Ngài, đôi bàn chân tốt đẹp như hoa sen nở rộ, dưới bàn
chân có dấu bánh xe, và họ ngồi xuống một bên nghe pháp. Họ suy nghĩ như sau:
"Tùy theo sự hiểu biết của chúng ta đối với pháp được Thế Tôn thuyết
giảng, chúng ta sẽ xuất gia".
Khi Như
Lai từ Pháp đường đi ra, họ đến đảnh lễ Ngài rồi xin xuất gia. Bậc Ðạo Sư cho
họ xuất gia. Ðược sự chấp nhận của bậc Sư trưởng và Giáo thọ sư, họ được thọ
đại giới. Trong năm năm, sống gần bậc Sư trưởng và Giáo thọ sư, họ học thuộc
lòng hai bản tóm tắt, biết được những điều gì nên làm, những điều gì không nên
làm, học thuộc lòng ba cách thức nói lên lời tùy hỷ, biết may và nhuộm các y.
Muốn thực hành Sa-môn pháp, họ xin phép vị Sư trưởng và Giáo thọ sư, đi đến bậc
Ðạo Sư đảnh lễ, ngồi xuống một bên và thỉnh cầu:
- Bạch
Thế Tôn, chúng con ưu não đối với sanh hữu, lo âu về sanh, già, bệnh, chết; vì
mục đích thoát khỏi luân hồi, xin Thế Tôn cho chúng con đề tài Thiền quán.
Bậc Ðạo
Sư lựa chọn một đề tài thích hợp trong ba mươi tám đề tài Thiền quán, và đã nói
cho họ đề tài ấy. Sau khi được nghe đề tài Thiền quán từ bậc Ðạo Sư, họ đảnh lễ
Ngài, thân hướng vế phía hữu, đi về am thất. Rồi nhìn vị Sư trưởng và Giáo thọ
sư, lấy y bát, với ý định sẽ hành trì Sa-môn pháp, họ ra đi.
Trong
hội chúng, có một Trưởng lão Tỷ-kheo tên là Kutumbika-puttatissa biếng nhác,
yếu kém, thiếu tinh tấn, tham ăn vị ngon. Vị ấy suy nghĩ: "Ta không thể
sống ở trong rừng, ta không thể nổ lực tinh tấn, ta không thể sống theo hạnh
khất thực. Vậy ta đi theo họ nào có ích lợi gì? Ta sẽ trở lui". Vị ấy thối
thất tinh tấn, đi theo các Tỷ-kheo một đoạn rồi trở lui. Các Tỷ-kheo đi bộ
trong xứ Kosala, đến một làng ở biên địa, an cư mùa mưa tại một khu rừng gần
làng ấy. Sau ba tháng khổ luyện tinh cần, nhận được hột giống Thiền quán khiến
cho quả đất reo mừng, các Tỷ-kheo ấy chứng quả A-la-hán, làm lễ tự tứ, xuất an
cư, với ý định: Chúng ta sẽ báo tin công đức đạt được lên bậc Ðạo Sư".
Từ chỗ
ấy họ dần dần đi đến Kỳ Viên. Sau khi cất đặt y bát, gặp vị Sư trưởng và Giáo
thọ sư, các Tỷ-kheo ấy đi đến yết kiến bậc Ðạo Sư, đảnh lễ rồi ngồi xuống. Bậc
Ðạo Sư nói lên những lời thăm hỏi dịu ngọt. Sau đó, họ báo cáo lên bậc Ðạo Sư
những công đức tự mình chứng đắc. Bậc Ðạo Sư tán thán các Tỷ-kheo ấy.
Riêng
Trưởng lão Kutumbikaputtatissa nghe bậc Ðạo Sư tán thán những công đức của họ,
liền khởi ý muốn tự mình hành trỉ Sa-môn pháp. Còn các Tỷ-kheo kia xin phép bậc
Ðạo Sư được trở về sống tại khu rừng trước của họ và được bậc Ðạo Sư chấp
thuận. Họ đảnh lễ Ngài và đi về am thất.
Rồi
Trưởng lão Kutumbikaputtatissa, giữa đêm, quá hăng hái tinh tấn, quá hấp tấp
hành trì Sa-môn pháp, trong canh giữa, ngủ đứng, dựa vào giường gỗ, trở mình và
ngã xuống, làm gãy xương bắp vế, đau đớn vô cùng. Các Tỷ-kheo phải chăm sóc cho
Trưởng lão Tissa nên không đi được. Vào giờ họ đến yết kiến bậc Ðạo Sư, Ngài
hỏi:
- Này
các Tỷ-kheo, phải chăng hôm nay các ông sẽ lên đường. Hôm qua các ông đã xin
phép rồi mà?
- Thưa
phải, bạch Thế Tôn. Nhưng bạn của chúng con là Trưởng lạo Tissa, vì tinh tấn
phi thời, quá hấp tấp hành trì Sa-môn pháp, bị giấc ngủ chi phối, xoay mình và
ngã xuống, làm bắp vế gãy. Vì Trưởng lão ấy, chúng con chưa đi được, Bậc Ðạo Sư
nói:
- Này
các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay, do thiếu sự tinh tấn của mình, Tissa đã tinh
tấn phi thời và quá hấp tấp, tạo chướng ngại việc các ông ra đi. Thuở trước,
Tissa cũng đã tạo chướng ngại cho sự ra đi của các ông rồi.
Nói vậy
xong, theo lời yêu cầu của các vị Tỷ-kheo, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.
*
Thuở
xưa, tại nước Gandhara, ở Takkasila, Bồ-tát sanh ra làm vị giáo sư có danh
tiếng khắp nơi, dạy nghề cho năm trăm thanh niên Bà-la-môn. Các thanh niên ấy,
một hôm, đi vào rừng để lượm củi đem về. Trong bọn họ có một thanh niên biếng
nhác, thấy một cây Varana lớn, tưởng cây ấy đã khô, nên nghĩ: "Ta sẽ nằm
ngủ một lát, sau sẽ leo lên cây, bẻ củi xuống, nhặt lấy rồi mang về". Nghĩ
vậy, anh ta trải áo ngoài, nằm xuống, rơi vào giấc ngủ và ngáy lớn. Các thanh
niên khác bó lại từng bó củi, mang đi, đến chỗ ấy, lấy chân đá vào lưng cho đến
khi anh ta thức dậy rồi bỏ đi.
Thanh
niên biếng nhác thức dậy, chùi mắt chùi mấy lần vẫn còn ngái ngủ. Anh ta leo
lên cây, nắm một cành, kéo đến sát mặt mình và bẻ gãy cành ấy. Khi bẻ gãy, phần
bị gãy của cành cây quật lại đập vào mắt anh ta. Với một tay, anh ta bịt mắt,
và với một tay anh ta bẻ gãy cành tươi. Rồi anh ta leo xuống, bó lại thành bó
củi, mang lên vai, đi mau về nhà, quăng bó củi của mình trên các bó củi của
những người khác.
Hôm
ấy, một gia đình ở làng quê mời vị giáo sư ngày mai đến nhà họ làm lễ cúng
dường. Vị giáo sư nói với các thanh niên:
-
Này các con thân, ngày mai các con phải đến một làng. Các con không thể đi mà
không ăn. Vậy sáng sớm, hãy cho nấu cháo và ăn cháo trước khi đi đến đấy. Rồi
các con sẽ lấy phần của ta, và lấy tất cả phần các con mang về.
Sáng
sớm hôm sau, các thanh niên đánh thức một tỳ nữ dậy, bảo nó nấu cháo gấp cho
họ. Nữ tỳ ấy đi lấy củi, lấy những bó củi xanh chồng trên cao nhất, liên tiếp
dùng miệng thổi, nhưng không làm cho lửa cháy được, cho đến khi mặt trời mọc.
Các thanh niên thấy trời đã quá sáng, không thể đi được nữa, bèn đi đến gặp
giáo sư. Giáo sư hỏi sao các thanh niên chưa đi. Họ nói lý do:
-
Có một thanh niên biếng nhác đi cùng với chúng con hái củi, nằm ngủ dưới gốc
cây Vanara, sau khi leo lên cây hấp tấp, bị cành cây đánh vào mắt, đã đem về
các củi xanh của cây Vanara, quăng lên trên các bó củi của chúng con đem về. Vì
vậy, người tỳ nữ định nấu cháo, lấy các củi ấy tưởng là khô, cho đến khi mặt
trời mọc vẫn không thể nhen lửa. Ðó là lý do làm chướng ngại việc chúng con đi.
Vị
giáo sư nghe việc làm của thanh niên ấy, liền nói:
-
Chính việc làm của kẻ ngu si đã đem đến sự tổn hại như vậy.
Rồi
vị giáo sư đọc bài kệ này:
Ai có việc làm trước,
Về sau mới chịu làm
Như bẻ Va-ra-na,
Về sau nó chịu khổ.
Về sau mới chịu làm
Như bẻ Va-ra-na,
Về sau nó chịu khổ.
Như
vậy, Bồ-tát nói rõ lý do này cho các đệ tử, rồi trọn đời làm các công đức như
bố thí.... Và khi mạng chung, ngài đi theo nghiệp của mình.
*
Bậc Ðạo
Sư nói:
- Này
các Tỷ-kheo, không phải ngày nay kẻ ấy mới làm chướng ngại cho các ông. Thuở
trước, kẻ ấy cũng đã làm vậy rồi.
Sau khi
bậc Ðạo Sư kể pháp thoại này, Ngài kết hợp hai mẩu chuyện, và nhận diện Tiền
thân như sau:
- Thời
ấy, thanh niên bị cành cây đánh vào mắt là Tỷ-kheo bị gãy xương bắp vế. Các
thanh niên khác là hội chúng của đức Phật, còn giáo sư Bà-la-môn là Ta vậy.
-ooOoo-
72.
CHUYỆN TƯỢNG VƯƠNG ÐỨC HẠNH (Tiền thân Sìlavanàga)
Con
người không biết ơn...,
Câu
chuyện này, khi ở tại Trúc Lâm, bậc Ðạo Sư đã kể về Ðề-bà-đạt-đa. Các Tỷ-kheo,
ngồi tại Pháp đường, và nói chuyện:
- Thưa
các Hiền giả, Ðề-bà-đạt-đa vô ơn, không biết những công hạnh của đức Như Lai.
Bậc Ðạo
Sư đến, hỏi:
- Này
các Tỷ-kheo, các ông ngồi ở đây đang nói chuyện gì?
Sau khi
được biết câu chuyện ấy, bậc Ðạo Sư nói:
- Này
các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ðề-bà-đạt-đa mới vô ơn. Trước kia, kẻ ấy cũng
đã vô ơn rồi. Kẻ ấy không bao giờ biết công đức gì của Ta.
Nói vậy
xong, theo lời yêu cầu của họ, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.
*
Thuở
xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát nhập thai trong bụng một
con voi ở dãy Hy-mã-lạp Sơn. Khi sanh ra, Bồ-tát toàn trắng như một khối bạc;
đôi mắt Bồ-tát giống như những hòn châu báu, chói sáng như năm loại ánh sáng;
miệng giống như tấm vải đỏ; vòi giống như sợi dây bạc điểm thêm những chấm vàng
đỏ. Bốn chân như mài láng như sơn mài. Như vậy, thân hình Bồ-tát có sắc đẹp tối
thượng, được trang điểm với mười hạnh Ba-la-mật tuyệt hảo.
Khi
Bồ-tát lớn lên, tất cả con voi Hy-mã-lạp Sơn tụ họp lại để hầu hạ Bồ-tát. Khi
sống ở Hy-mã-lạp Sơn được vây quanh với tám vạn con voi, Bồ-tát thấy tội lỗi
của đàn voi trong tương lai, nên tách rời khỏi đàn, sống một mình trong rừng,
và với đức hạnh của mình, được gọi là Tượng vương có đức hạnh.
Một
người sống ở Ba-la-nại, chưa quen sống ở rừng, đi vào dãy Hy-mã-lạp Sơn, tìm
những vật liệu cho nghề nghiệp nuôi sống của mình. Do không nhận định được
phương hướng, lạc đường kẻ ấy hoảng hốt vì sợ bị chết, vừa đi vừa dang tay ra
than khóc. Bồ-tát nghe kẻ ấy than khóc quá độ, động lòng thương, muốn cứu kẻ ấy
thoát khổ, liền đi đến gần. Kẻ ấy thấy Bồ-tát liền hoảng sợ chạy trốn. Bồ-tát
thấy kẻ ấy chạy, liền đứng lại ngay tại chỗ. Người ấy thấy Bồ-tát đứng, cũng
đứng lại. Bồ-tát đi đến, người ấy lại bỏ chạy. Khi thấy Bồ-tát đứng, kẻ ấy cũng
đứng lại và suy nghĩ: "Con voi này, khi ta chạy thì đứng lại, khi ta đứng
thì đi đến gần, ta thoát khỏi khổ này". Nghĩ vậy, trở thành mạnh dạn, kẻ
ấy đứng lại. Bồ-tát đi đến gần và nói:
-
Này bạn, sao bạn lại đi lang thang ở đây, và khóc than như vậy?
-
Thưa chúa voi, không nhận định được phương hướng, lạc đường, nên tôi sợ chết!
Rồi
Bồ-tát đưa người ấy về trú xứ của mình, trong một vài ngày, thết đãi kẻ ấy với
trái cây và những vật thực khác, và nói:
-
Này bạn, chớ sợ hãi. Ta sẽ đưa bạn đến con đường của loài người đi.
Bồ-tát
để kẻ ấy ngồi trên lưng ngựa, đưa đến con đường có loàn người đi. Người ấy là
một người phản bạn, nghĩ rằng nếu có ai hỏi, sẽ nói lên những gì cần phải nói.
Tuy ngồi trên lưng Bồ-tát, nhưng người ấy vừa đi vừa nhận diện tướng cây, tướng
núi. Bồ-tát đi ra khỏi rừng, đứng trên con đường lớn đưa đến Ba-la-nại, tiễn
người ấy đi và nói:
-
Này bạn, hãy đi theo con đường này. Dù có ai hỏi hay không hỏi chỗ của ta, cũng
đừng nói cho ai biết.
Nói
xong, để người ấy ra đi, rồi Bồ-tát trở lại trú xứ của mình.
Người
ấy đến Ba-la-nại, trong khi đang đi đến con đường của người thợ ngà voi, thấy
nhiều đồ vật khác nhau được làm ra từ ngà voi, bèn hỏi:
-
Các bạn, nếu được ngà một con voi đang sống, bạn có lấy không?
-
Bạn nói gì vậy? Ngà con voi đang sống có giá trị nhiều hơn ngà con voi chết
rồi.
-
Ta sẽ đem về cho bạn ngà một con voi đang sống.
Sau
khi chuẩn bị lương thực, đem theo một cái cưa sắc bén, kẻ ấy đi đến trú xứ của
Bồ-tát. Chúa voi thấy kẻ ấy liền hỏi:
-
Ngươi đến đây vì mục đích gì?
-
Thưa chúa voi, tôi nghèo khổ, đời sống quá khổ cực. Nếu bạn cho tôi đôi ngà của
bạn, tôi sẽ bán chúng lấy tiền để nuôi sống.
-
Vậy này bạn, ta cho bạn ngà của ta, bạn có cái cưa để cưa cặp ngà không?
-
Thưa chúa voi, tôi đến đây có đem theo cái cưa.
-
Vậy hãy cưa ngà rồi đem về.
Rồi
Bồ-tát co hai chân lại, ngồi xuống như con bò ngồi. Người ấy cưa hai ngà tối
thượng của chúa voi. Bồ-tát lấy cái vòi giao hai cái ngà cho kẻ ấy và nói:
-
Này bạn, không phải vì không thích ý, vì không ưa cặp ngà này mà ta cho bạn.
Nhưng ngàn lần, trăm ngàn lần thân yêu hơn đối với ta là cặp ngà giải thoát
giác ngộ, ngà này có thể giúp ta hiểu tất cả các pháp. Do vậy, mong rằng sự bố
thí đôi ngà này của ta sẽ đem lại cho ta Nhứt thiết trí!
Với
lời nói ấy, Bồ-tát đưa hai cái ngà cho người ấy như là cái giá của Nhứt thiết
trí. Kẻ ấy lấy ngà xong, đem bán đi. Khi tiền tiêu hết rồi, kẻ ấy lại đi đến
Bồ-tát và nói:
-
Thưa chúa voi, sau khi bán hai cái ngà của bạn, với tiền lấy được, tôi chỉ trả
hết nợ cũ. Vậy hãy cho tôi các ngà còn lại.
Bồ-tát
chấp thuận, bảo cưa các ngà còn lại như trước. Người ấy đem bán chúng, rồi lại
đi đến và nói:
-
Tôi không thể sống được, hạy cho tôi chân gốc của các ngà.
-
Ðược lắm!
Con
voi nói và ngồi xuống như lần trước. Con người độc ác ấy đạp lên trên cái vòi
giống như sợi dây bạc của bậc Ðại Sĩ, leo lên trên đầu voi như đỉnh núi Kelasa
đánh vào gốc chân của hai cái ngà, cho đến khi móc thịt ra. Rồi kẻ ấy dùng cưa
sắc bén cưa cái gốc chân ngà, và lấy đem đi. Khi người ác độc ấy vừa ra khỏi tầm
mắt của Bồ-tát, thì quả đất cứng dày đặc, dài hơn hai trăm ngàn dặm, có thể chở
nổi sức nặng kinh khủng của núi Tu-di, với các triền núi bao vây, với tất cả
phân tiểu ghê tởm hôi thối; nhưng quả đất không thể chịu nổi sự độc ác kia, nên
đã nứt ra tạo thành một vực thẳm. Các ngọn lửa từ đáy đại A-tỳ địa ngục phun
lên, bao phủ con người phản bạn với một cái màn tử vong, cuốn lấy kẻ ấy đem đi.
Như vậy, khi con người độc ác ấy bị nuốt vào lòng đất, vị thần trú ở khóm rừng
làm vang dậy khắp cả khu rừng với lời nói:
-
Người bạn vô ơn phản bội, dầu được cho quốc độ của vua Chuyển luân, cũng không
cảm thấy thỏa mãn.
Và
để thuyết pháp, vị thần ấy đọc bài kệ này:
Con người không biết ơn
Luôn luôn thấy kẽ hỡ,
Dầu được cho quả đất,
Không bao giờ thỏa mãn.
Luôn luôn thấy kẽ hỡ,
Dầu được cho quả đất,
Không bao giờ thỏa mãn.
Như
vậy, vị thầy cây thuyết pháp, làm vang động cả khu rừng ấy, Còn Bồ-tát sống cho
đến mạng chung, rồi đi theo nghiệp của mình.
*
Bậc Ðạo
Sư nói:
- Này
các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ðề-bà-đạt-đa mới vô ơn. Trong quá khứ, kẻ ấy
cũng đã vô ơn rồi.
Sau khi
kể pháp thoại ấy, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân như sau:
- Lúc
bấy giờ, người bạn phản bội là Ðề-bà-đạt-đa, vị thần cây là Xá-lợi-phất, còn
Tượng vương có đức hạnh là Ta vậy.
-ooOoo-
73.CHUYỆN
ÐÚNG VẬY CHĂNG? (Tiền thân Saccankira)
Như
vậy, họ nói thật...
Câu chuyện
này, khi ở tại Trúc Lâm, bậc Ðạo Sư kể về âm mưu sát hại. Khi ấy, chúng Tỷ-kheo
đang ngồi trong Pháp đường nói về sự độc ác của Ðề-bà-đạt-đa:
- Này
các Hiền giả, Ðề-bà-đạt-đa không biết công đức của bậc Ðạo Sư, nên đã âm mưu
sát hại Ngài.
Bậc Ðạo
Sư đi đến và hỏi:
- Này
các Tỷ-kheo, các ông ngồi họp, và đang bàn câu chuyện gì?
Khi
được biết câu chuyện ấy, bậc Ðạo Sư nói:
- Này
các Tỷ-kheo, không phải nay Ðề-bà-đạt-đa mới âm mưu sát hại Ta, trong thời quá
khứ, kẻ ấy cũng đã làm như vậy.
Nói
xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.
*
Thuở
xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, vua có một con trai tên là hoàng
tử Ác Ðộc. Hoàng tử bạo ngược giống như con rắn độc bị thương, không nói với ai
mà không mắng nhiếc, đánh đập. Ðối với dân trong nội cung và ngoại cung, hoàng
tử như bụi trong mắt, như con quỷ đến ăn thịt, ai cũng ghét bỏ và sợ hãi.
Một
hôm, muốn chơi trò dưới nước, cùng với một đám tùy tùng đông đảo, hoàng tử đi
đên bờ sông. Trong lúc ấy, dông tố nổi lên. Các phương trời trở thành tối tăm
mù mịt. Hoàng tử bảo các người hầu hạ:
-
Này các ngươi, hãy đưa ta ra giữa sông, tắm cho ta và đưa ta về.
Họ
đưa hoàng tử ra giữa sông bàn với nhau:
-
Vua sẽ làm gì chúng ta? Chúng ta hãy giết đứa ác nhân này ngay ở nơi đây!
Họ
thả hoàng tử xuống nước và nói:
-
Ðồ con quỷ đen, hãy đi vào đấy.
Rồi
họ leo lên, đứng trên bờ. Khi được hỏi hoàng tử ở đâu, họ trả lời:
-
Chúng tôi không thấy hoàng tử. Thấy dông tố khởi lên, hoàng tử ra khỏi nước và
đi trước rồi.
Các
đại thần đi đến hầu vua, và vua hỏi hoàng tử đâu, họ trả lời:
-
Thưa Thiên tử, chúng tôi không được biết. Khi dông tố khởi lên, chúng tôi nghĩ
rằng hoàng tử đã đi trước rồi, nên chúng tôi mới đi về.
Vua
sai mở rộng cửa, đi xuống sông, sai đi tìm chỗ này, chỗ khác, nhưng không một
ai thấy hoàng tử.
Trong
cơn dông, trời tối mù, đang mưa, hoàng tử trôi theo dòng nước cuốn, bỗng thấy
một khúc cây, liền ngồi trên ấy, vừa sợ chết vừa khóc than. Lúc bấy giờ, một
triệu phú ở Ba-la-nại đã chết có chôn trên bờ sông số tài sản trị giá bốn trăm
triệu. Vì tham luyến tài sản, nên vị ấy sanh làm con rắn tại chỗ chôn tài sản.
Một người khác, cũng tại chỗ ấy, đã chôn ba trăm triệu, và vì tham lam tài sản
nên tái sanh làm con chuột tại chỗ ấy. Nước vào ngập chỗ chúng ở. Chúng thoát
ra từ con đường nước vào, cắt ngang dòng bơi đi, đến được khúc cây trên ấy
hoàng tử đang ngồi, một con leo lên đầu này, một con leo lên đầu kia và nằm
trên khúc cây ấy.
Trên
bờ sông, có một cây bông gòn, tại đó có một con vẹt trẻ đang ở. Cây bông gòn bị
nước làm bật gốc rễ, rơi xuống dòng sông. Con vẹt trẻ gặp mưa xối xả, không thể
bay lên được, liền ẩn núp vào một bên khúc cây ấy. Như vậy có bốn sinh vật cùng
trôi theo dòng nước với nhau.
Lúc
bấy giờ, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn phía tây bắc, lớn lên xuất
gia làm vị tiên nhân du sĩ tại một khúc quanh của sông. Bồ-tát dụng lên một
chòi lá để ở. Nửa đêm, đang đi kinh thành, Bồ-tát nghe tiếng khóc than thảm
thiết của hoàng tử, tự nghĩ: "Trước mắt một người tu khổ hạnh có lòng từ
bi như ta, thật không thích đáng để người này chết. Ta hãy vớt nó ra khỏi nước,
và cứu mạng nó". Rồi Bồ-tát an ủi hoàng tử:
-
Chớ sợ hại.
Và
Bồ-tát lội cắt ngang dòng nước, đến cầm lấy một đầu của khúc cây ấy, với sức
mạnh kiên trì như con voi, Bồ-tát kéo nhanh khúc gỗ vào bờ, bồng hoàng tử lên,
đặt trên bờ. Thấy các con vật kia, Bồ-tát đỡ chúng lên và đưa đến am thất, rồi
nhen lửa. Những con yếu nhất, được Bồ-tát hơ cho ấm, trước là con rắn, con
chuột, con vẹt... rồi sau mới hơ ấm thân hoàng tử, khiến cho chúng được bình
phục, rồi cho chúng đồ ăn; trước hết cho các con vật ăn, rồi sau mới bày biện
các thứ trái và các thức ăn khác cho hoàng tử. Hoàng tử suy nghĩ: "Kẻ khổ
hạnh khốn nạn này không kể ta là hoàng tử, lại tỏ sự cung kính đối với loài thú
vật". Rồi hoàng tử nuôi dưỡng hận thù đối với Bồ-tát.
Sau
một vài ngày, khi tất cả đã lấy lại sức khỏe, và nước sông đã rút xuống, con
rắn đảnh lễ vị khổ hạnh và nói:
-
Thưa Tôn giả, Tôn giả đã giúp đỡ tôi rất nhiều. Tôi không phải nghèo khổ. Tại
một chỗ ấy, tôi có chôn vàng đáng giá bốn trăm triệu. Khi nào Tôn giả cần tiền,
tôi có thể cho Tôn giả số tiền ấy. Tôn giả chỉ cần đến chỗ ấy và gọi: Rắn ơi.
Nói
xong, con rắn bỏ đi. Rồi con chuột, cũng như vậy, đến chào vị tu khổ hạnh, và
nói: Hãy đến tại chỗ ấy và gọi: Chuột ơi.
Nói
xong, con chuột bỏ đi. Con vẹt đảnh lễ vị tu khổ hạnh và nói:
-
Thưa Tôn giả, tôi không có tài sản. Nhưng nếu Tôn giả cần gạo đỏ, hãy đến trú
xứ của tôi và gọi: Vẹt ơi. Tôi sẽ gọi bà con của tôi, chúng tôi sẽ đem gạo đỏ
đến, chở đầy nhiều xe và tôi sẽ biếu Tôn giả.
Nói
xong, con vẹt bay đi. Rồi đến hoàng tử, không nói gì để cảm ơn, với tâm tánh
phản bội bạn bè, hoàng tử suy nghĩ: "Nếu nó đến gần ta, ta sẽ giết
nó". Tuy vậy, cố giấu ý định, hoàng tử nói:
-
Thưa Tôn giả, khi tôi lên ngôi vua, tôi sẽ cúng dường Tôn giả bốn vật dụng cần
thiết.
Rồi
ra đi và không bao lâu, hoàng tử được đặt lên vương vị.
Bồ-tát
muốn thử thách chúng, trước hết đi đến con rắn đứng, không xa chỗ nó ở và gọi:
-
Rắn ơi!
Khi
nghe tiếng gọi, con rắn bò ra, đảnh lễ Bồ-tát và nói:
-
Thưa Tôn giả, tại chỗ này có bốn trăm triệu tiền vàng. Hãy đào chúng lên và lấy
tất cả!
Bồ-tát
nói:
-
Như vậy là tốt. Khi nào cần đến chúng, tôi sẽ cho biết.
Từ
giã con rắn, Bồ-tát đi đến chỗ con chuột ở và lên tiếng:
-
Chuột ơi!
Con
chuột làm y như con rắn đã làm. Bồ-tát từ biệt con chuột, đi đến con vẹt, và
gọi:
-
Vẹt ơi!
Con
vẹt nghe tiếng, từ trên ngọn cây bay xuống, đảnh lễ Bồ-tát và hỏi:
-
Thưa Tôn giả, Tôn giả có cần tôi nói những bà con đem gạo mọc hoang từ dãy
Hy-mã-lạp Sơn về cho Tôn giả không?
Bồ-tát
trả lời khi nào cần ngài sẽ cho biết, và từ biệt con vẹt. Rồi để thử thách
hoàng tử, Bồ-tát đi đến trú ở công viên của vua. Vào ngày hôm sau, ngài chuẩn
bị y phục đàng hoàng, bộ hành khất thực, và đi vào thành. Trong lúc ấy, ông vua
phản bội bạn bè ngồi với tất cả nghi vệ trang nghiêm trên lưng con voi được
trang sức, đang đi vòng quanh thành với một đám tùy tùng lớn. Vua thấy Bồ-tát
từ đàng xa, suy nghĩ như sau: "Tên khổ hạnh khốn nạn này nay đã đến để xin
ăn và sống nhờ ta. Ta phải bảo chém đầu nó trước khi nó tuyên bố giữa đại chúng
công đức mà nó đã làm cho ta".
Vua
ra hiệu các người tùy tùng, và họ hỏi vua bảo họ làm gì. Vua bảo:
-
Ta nghĩ rằng tên khổ hạnh khốn nạn này muốn đến xin ta một việc gì đó. Ðừng cho
ta thấy tên quỷ đen tu khổ hạnh ấy. Hãy bắt nó trói chặt tay ra đàng sau, đánh
nó tại những ngã tư đường, đưa nó ra khỏi thành, chặt đầu tại pháp trường, và
bêu đầu trên cây nhọn.
Họ
vâng lời đi đến, trói bậc Ðại Sĩ vô tội, đánh ngài tại ngã tư đường, rồi dẫn
ngài đến pháp trường. Bồ-tát, trong khi bị đánh, không than khóc, không kêu mẹ,
kêu cha, không bị dao động, chỉ nói lên bài kệ này:
Như vậy, họ nói thật,
Những người hiểu đời này:
Cứu vớt khúc gỗ trôi
Tốt hơn một số người.
Những người hiểu đời này:
Cứu vớt khúc gỗ trôi
Tốt hơn một số người.
Như
vậy, tại những chỗ bị đánh, Bồ-tát nói lên bài kệ này. Nghe vậy, những người có
trí ở đấy bèn nói:
-
Này vị xuất gia, đối với vua của chúng ta, Hiền giả đã làm công đức gì?
Bồ-tát
kể lại câu chuyện ấy và nói:
-
Như vậy, vì cứu vớt người này ra khỏi dòng nước lớn, tôi đã làm khổ tôi thôi!
Nhớ lại vì tôi không nghe lời các bậc hiền trí thời xưa, tôi mới nói như các
ông vừa nghe.
Khi
họ nghe xong, các vị Sát-đế-ly, Bà-la-môn v.v.... trú ở thành đều phẫn nộ nói:
-
Nhà vua phản bạn này đối với vị đầy công đức như vậy, lại không biết đến ơn của
người đã cho mình mạng sống. Làm sao chúng ta có được lợi ích gì từ vua ấy? Hãy
bắt lấy nó!
Trong
cơn phẫn nộ, họ xông tới vua từ nhiều ngã, với cung, kiếm, đá, gậy... họ giết
vua đang cưỡi trên lưng voi, nắm lấy chân vua kéo đi và quăng xác xuống hố. Rồi
họ làm lễ quán đảnh Bồ-tát, và đặt Bồ-tát lên vương vị. Bồ-tát trị nước rất
đúng pháp.
Rồi
một hôm, muốn thử thách con rắn, Bồ-tát cùng với đám tùy tùng lớn đi đến chỗ ở
của rắn và kêu:
-
Rắn ơi.
Con
rắn bò tới, đảnh lễ vua và thưa:
-
Thưa ngài, đây là tài sản của ngài... Hãy lấy nó đi.
Vua
bảo các đại thần cất số tiền vàng bốn trăm triệu, rồi đi đến chỗ ở của con
chuột và gọi:
-
Chuột ơi.
Nó
bò ra, đảnh lễ vua rồi đưa tài sản ba trăm triệu. Vua bảo các đại thần cất giữ
số vàng, rồi đi đến chỗ ở của con vẹt và gọi:
-
Vẹt ơi.
Con
vẹt đến, đảnh lễ chân vua, và thưa:
-
Thưa ngài, tôi có phải đem gạo đến không?
Vua
nói:
-
Khi nào cần lúa gạo, ngươi hãy mang đến. Nay chúng ta hãy đi.
Ðem
theo ba sinh vật với bảy trăm triệu tiền vàng, vua đi vào thành, ngự lên trên
lầu cao trong cung điện sang trọng, cho cất giữ và phòng hộ tài sản. Rồi ngài
truyền làm một ống bằng vàng để con rắn ở, một hang bằng pha lê cho con chuột,
và một lồng bằng vàng cho con vẹt.
Hằng
ngày, theo lệnh của vua, đồ ăn được dọn cho ba con vật trong bát đĩa bằng vàng,
bắp rang ngọt cho con vẹt và con rắn, còn gạo thơm cho con chuột. Vua thường
làm các công đức như bố thí và nhiều thiện sự khác. Như vậy, vua và các con vật
này sống hòa hợp hoan hỷ với nhau cho đến trọn đời rồi chúng đi theo nghiệp của
chúng.
*
Bậc Ðạo
Sư nói:
- Này
các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ðề-bà-đạt-đa mới âm mưu sát hại Ta. Thuở trước,
kẻ ấy cũng đã làm như vậy rồi.
Sau khi
kể câu chuyện quá khứ, bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện và nhận diện Tiền
thân:
- Thời
ấy, nhà vua ác độc là Ðề-bà-đạt-đa, con rắn là Xá-lợi-phất, con chuột là
Mục-kiền-liên, con vẹt là Ànanda, còn vị vua được vương quốc và trị vì đúng
pháp là Ta vậy.
-ooOoo-
74.
CHUYỆN LUẬT CÂY RỪNG (Tiền thân Rukkadhamma)
Lành
thay, nhiều bà con...,
Câu
chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một cuộc tranh chấp nước. Do
cuộc tranh chấp này, bà con của Ngài gặp nạn diệt vong. Biết việc này, bậc Ðạo
Sư đi ngang qua hư không, ngồi kiết già trên sông Rohini, chiếu sáng hào quang
xanh, làm các bà con Ngài hoảng sợ. Rồi từ hư không bước xuống, bậc Ðạo Sư ngồi
trên bờ sông kể câu chuyện tranh chấp này. (Ðây chỉ là tóm tắt. Phần chi tiết
được nói đến trong Tiền thân Kunala số 536). Lúc bấy giờ, bậc Ðạo Sư gọi các bà
con lại nói và với vua:
- Thưa
Ðại vương, các bà con cần phải đối xử với nhau hòa hợp và hoan hỷ. Khi các bà
con hòa hợp đoàn kết, kẻ thù không tìm được cơ hội để phá hoại. Không phải chỉ
riêng loài người mới cần phải đoàn kết mà các loài vật vô tri cũng cần phải hòa
hợp đoàn kết. Thuở trước, trong dãy Hy-mã-lạp Sơn, một ngọn gió thổi qua rừng
cây Sà-la, tuy thế vì các cây, lùm cây, bụi cây, dây leo v.v... của khu rừng ấy
cột chặt với nhau, nên cơn gió không thể làm ngã một cây nào, chỉ thổi lướt qua
trên đầu cây thôi. Nhưng trong sân có một cây Sà-la rất lớn đứng một mình, đầy
đủ cành cây, thân cây, nhưng không cột chặt với các cây khác, nên gió thổi bật
gốc ngã xuống đất. Vì lý do này, các vị cần phải sống hòa hợp, hoan hỷ với
nhau.
Nói vậy
xong, theo lời các Tỷ-kheo yêu cầu, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.
*
Thuở
xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Ðại vương Vessavana (Tỳ-sa-môn)
thứ nhất mệnh chung. Ðế Thích đặt một vị vua khác thay thế. Trong sự thay đổi
này, vau Vessavana mới kế vị gửi thông điệp đến các thần cây, lùm cây, bụi cây,
cây leo...
-
Các ngươi hãy tự lựa chọn trú xứ mình ưa thích.
Lúc
bấy giờ, Bồ-tát sanh làm thần cây trong một rừng cây Sàla. Bồ-tát nói với các
bà con:
-
Khi các ngươi lựa chọn trú xứ, chớ lựa chọn các cây mọc một mình ở khoảng
trống. Hãy lựa chọn trú xứ chung quanh chỗ mà ta đã lựa chọn trong rừng Sàla
này.
Các
thần cây hiền trí làm theo lời Bồ-tát, lựa chọn trú xứ của họ quanh trú xứ của
Bồ-tát. Những thần cây không có trí nói:
-
Sao chúng ta lại lựa chọn trú xứ ở trong rừng?
Chúng
ta hãy lựa chọn trú xứ tại chỗ có người, ngoài cửa các làng, thị trấn, kinh đô,
vì các thần cây sống gần làng nhận được lễ vật cúng dường tối thượng và danh
vọng tối thượng.
Vì
thế những thần cây ấy lựa chọn trú xứ tại con đường có người, những chỗ có cây
lớn, tại các khoảng trống. Một hôm, mưa to gió lớn nổi lên, những cây xưa nhất
ở trong rừng có rễ ăn sâu chắc chắn đã kiên trì đứng riêng biệt trong quá khứ,
cũng đều bị gãy cành và thân, bị bật gốc rễ và ngã xuống.
Trái
lại, khi dông tố thổi qua rừng, các cây Sàla đứng thành nhóm cột chặt vào nhau,
tuy dông tố có đánh mạnh chỗ này chỗ kia, nhưng không thể làm ngã một cây nào.
Các thần cây có trú xứ bị phá vỡ, không còn chỗ nương tựa, tay bồng các con nhỏ
đi đến dãy Hy-mã-lạp Sơn và kể lại nỗi đau khổ của mình cho chư thần trong rừng
Sàla. Những vị này báo cáo cho Bồ-tát biết sự việc này. Bồ-tát nói:
-
Chính vì chúng không vâng theo lời các bậc hiền trí, đi đến trú xứ không đủ
nhân duyên, nên gặp phải sự tình như vậy.
Rồi
Bồ-tát thuyết pháp qua bài kệ này:
Lành thay, nhiều bà con,
Như cây sanh từ rừng,
Gió thổi ngã những cây
Ðứng một mình riêng lẻ.
Như cây sanh từ rừng,
Gió thổi ngã những cây
Ðứng một mình riêng lẻ.
Bồ-tát
thuyết pháp như vậy và sống cho đến khi mạng chung, Bồ-tát đi theo nghiệp của
mình.
*
Bậc Ðạo
Sư nói:
- Như
vậy, thưa Ðại vương, các bà con cần sống với nhau trong hòa hợp, hòa thuận,
hoan hỷ, ái kính nhau.
Sau khi
thuyết pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân như sau:
- Lúc
bấy giờ, chư thần là hội chúng của đức Phật, còn vị thần hiền trí là Ta vậy.
-ooOoo-
75.
CHUYỆN CON CÁ (Tiền thân Maccha)
Nổi
sấm, Paj-ju-na...,
Câu
chuyện này khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về cơn mưa do chính Ngài làm.
Một thời, theo truyền thuyết, tại nước Kosala, trời không mưa, mùa màng khô
héo, chỗ này chỗ kia, ao hồ, bể nước đều khô cạn. Ngay cả hồ Kỳ Viên cũng khô
cạn nước. Các loài cá, rùa đi vào đám bùn, nằm mắc cạn. Rồi quạ, diều hâu...
đến, với mỏ như lưỡi giáo, mổ chúng, kéo chúng ra và ăn chúng đang còn vùng
vẫy. Bậc Ðạo Sư thấy cá rùa mặc nạn ấy, với từ tâm, ngài xúc động suy nghĩ:
- Hôm
nay, ta phải làm mưa.
Khi đêm
đã qua, tắm rửa thân thể xong, xét đã đến giờ khất thực, với đại chúng Tỷ-kheo
vây quanh, với uy nghi của một đức Phật, Ngài đi vào thành Xá-vệ để khất thực.
Sau bữa ăn, trên con đường đi khất thực từ Xá-vệ trở về, Ngài đi đến tinh xá
đứng trên tầng cấp của hồ Kỳ Viên, bảo Trưởng lão Ananda:
- Này
Ànanda, hãy đem áo tắm đến đây. Ta sẽ tắm trong hồ Kỳ Viên!
- Nhưng
bạch Thế Tôn, hồ Kỳ Viên đã cạn nước. Chỉ có bùn còn lại.
- Này
Ànanda, Phật lực rất lớn. Hãy đem áo tắm lại.
Trưởng
lão đem áo tắm và đưa cho bậc Ðạo Sư. Bậc Ðạo Sư, với một đầu áo quấn quanh
thân dưới và một đầu áo che thân trên, đứng trên tầng cấp và nói:
- Ta sẽ
tắm ở hồ Kỳ Viên.
Trong
thời khắc ấy, chiếc ngai bằng tảng đá vàng của Thiên chủ Ðế Thích trở thành
nóng. Ðế Thích tìm hiểu nguyên nhân, biết được lý do, liền cho gọi thần mưa
thần mây và nói:
- Này
các thần, bậc Ðạo Sư đứng trên tầng cấp chính, muốn tắm ở hồ Kỳ Viên, hãy cho
mưa đổ xuống gấp thành một dòng, khắp tất cả nước Kosala.
Vâng
theo lời Ðế Thích, thần mây và thần mưa lấy một đám mây mặc vào như mặc đồ lót,
lấy một đám mây khác che thân, và hát lên bài ca dông tố, vị ấy vụt ra đi, mặt
hướng về phương đông. Ở phương đông, khởi lên một đám mây lớn bằng sân đập lúa.
Ðám mây ấy lớn dần lên cho đến bằng một trăm, một ngàn sân đập lúa, và nó làm
sấm, làm chớp đổ nước xuống xứ Kosala như một dòng nước lớn.
Cơn mưa
không gián đoạn, và trong giây lát nước ngập đầy hồ Kỳ Viên. Khi chạm đến tầng
cấp cao nhất, thì nước đứng lại. Bậc Ðạo Sư tắm trong hồ xong, mặc đôi y màu
đỏ, buộc cái nịt thân, đắp đại y Thiện Thệ vào một bên vai. Với chung Tỷ-kheo
vây quanh, ngài đi đến Hương phòng, ngồi trên Phật tọa được trang hoàng đẹp đẽ,
và khi chúng Tỷ-kheo làm xong phận sự, bậc Ðạo Sư đứng dậy, từ trên tầng cấp
châu báu của bảo tọa, Ngài khuyên giáo chúng Tỷ-kheo và cho họ giải tán. Rồi
ngài vào Hương phòng, nằm phía hông bên phải như dáng nằm con sư tử.
Vào
buổi chiều, khi chúng Tỷ-kheo tụ hội tại Pháp đường, họ nói đến sự thành tựu
đức nhẫn nhục, từ bi, lân mẫn của bậc Ðạo Sư:
- Khi
mùa màng bị khô héo, khi các hồ đều ráo cạn, khi các loài cá, loài rùa gặp đau
khổ lớn, vì lòng thương xót muốn cứu chúng thoát khổ, Ngài mặc áo tắm, đứng
trên tầng cấp cao nhất của hồ Kỳ Viên, và chỉ trong thời gian ngắn, làm mưa
xuống khiến toàn xứ Kosala tràn ngập dòng nước lớn, giải thoát đại chúng khỏi
đau khổ về thân, về tâm rồi trở về tinh xá.
Khi câu
chuyện nói đến đó, bậc Ðạo Sư từ Hương phòng đi ra, đến Pháp đường và hỏi:
- Này
các Tỷ-kheo, các ông ngồi họp lại ở đây, và đang bàn vấn đề gì?
Khi
nghe câu chuyện ấy, bậc Ðạo Sư nói:
- Này
các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Như Lai mới làm mưa cho đại chúng khỏi mệt mỏi.
Thuở xưa, khi sanh làm thú vật, khi làm vua loài cá, Như Lai cũng đã làm trời
mưa rồi.
Nói vậy
xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.
*
Thuở
trước, trong nước Kosala, ở Xá-vệ này, tại chỗ hồ Kỳ Viên, có một hồ chằng chịt
những cây leo. Bồ-tát sanh ra làm con cá, với đàn cá vây quanh sống tại đấy.
Giống như nay vậy, trong xứ ấy trời không mưa, mùa màng của dân chúng bị khô
héo: các ao hồ cạn nước, các con cá, con rùa bị mắc cạn. Trong hồ này, các con
cá mắc cạn trong bùn, ẩn núp tại những chỗ ấy. Các con quạ đến nơi, mổ chúng
với cái mỏ đem chúng lên và ăn chúng.
Bồ-tát
thấy bà con mình gặp tai nạn ấy, tự nghĩ: "Ngoài ta ra, không một ai khác
có thể cứu chúng thoát khỏi cảnh khổ này. Ta hãy làm một hạnh nói lên. Sự thật,
khiến trời mưa, và giải thoát bà con ta khỏi cảnh khổ phải chết này".
Rẽ
bùn đen ra làm hai, Bồ-tát đi lên, đó là một con cá lớn, đen đủi với bùn, như
một cái hộp làm bằng lõi cây mun. Bồ-tát mở mắt như hòn ngọc được rửa sạch,
nhìn lên trời, và nói với Pajjuna, vua chư Thiên:
-
Này bạn Pajjuna, ta đau khổ vì bà con ta. Khi ta, một bậc giữ giới bị đau buồn,
làm sao bạn lại không làm trời mưa? Vì ta, dầu sanh ra trong loài phải ăn thịt
bà con, từ thuở ban đầu là con cá nhỏ, ta cũng không bao giờ ăn một con cá chỉ
bằng hột gạo, cũng không bao giờ đoạt mạng sống của một sanh vật khác. Với sự
thật này, hãy làm cho trời mưa và giải thoát bà con ta thoát khỏi đau khổ!
Sau
khi nói vậy, như ra lệnh cho nô tỳ hầu hạ, Bồ-tát nói với Pajjuna, vua chư
Thiên, bài kệ này:
Nổi sấm, Pàj-ju-na,
Chận quạ gây tai hại!
Hãy làm quạ sầu muộn,
Giúp ta khỏi sầu bi!
Chận quạ gây tai hại!
Hãy làm quạ sầu muộn,
Giúp ta khỏi sầu bi!
Như
vậy Bồ-tát bảo Pajjuna làm mưa lớn trong toàn nước Kosala và giải thoát đại
chúng khỏi đau khổ vì phải chết. Và khi mạng chung, Bồ-tát đi theo nghiệp của
mình.
*
Bậc Ðạo
Sư nói:
- Này
các Tỷ-kheo, không phải chỉ có nay Như Lai mới làm trời mưa. Thuở trước, khi
sanh làm con cá, Ta cũng đã làm trời mưa rồi.
Sau khi
kể lại pháp thoại này, bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện và nhận diện Tiền thân
như sau:
- Thời
ấy, đàn cá là hội chúng đức Phật, vua chư Thiên Pajjuna là Ànanda, và vua loài
cá là Ta vậy.
-ooOoo-
76.
CHUYỆN NGƯỜI KHÔNG SỢ HÃI (Tiền thân Asankiya)
Trong
làng, ta không sợ...,
Câu
chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một nam cư sĩ sống ở tại
Xá-vệ. Theo truyền thuyết, vị này, một bậc Dự lưu, Thánh đệ tử, vì một công
việc phải làm, cùng đi đường với một người cầm đầu đoàn xe lữ hành. Trong một
khu rừng, các cỗ xe được mở ra, đặt thành một doanh trại, và vị ấy đi kinh hành
không xa người cầm đầu bao nhiêu.
Có năm
trăm tên cướp, sau khi xem giờ đã định, tay cầm cung, gậy và các binh khí khác
với mục đích đánh cướp trại, bao vây chỗ ấy. Vị nam cư sĩ vẫn đi kinh hành. Các
tên cướp thấy vị ấy tưởng đó là người canh gác doanh trại, quyết định chờ đợi
vị ấy ngủ mới đánh cướp. Vì không thể đột kích, nên chúng đứng yên tại nhiều
chỗ. Nam cư sĩ ấy vẫn đi kinh hành trong canh thứ nhất, trong canh thứ hai, và
trong canh cuối.
Ðến
rạng đông, các tên cướp không tìm được cơ hội, liền quăng bỏ đá và côn chúng
đem theo, rồi bỏ chạy. Vị nam cư sĩ, làm xong công việc của mình, đi đến Xá-vệ
đến yết kiến bậc Ðạo Sư và hỏi:
- Bạch
Thế Tôn, có phải khi nào bảo vệ mình cũng là bảo vệ người khác không?
- Này
nam cư sĩ, đúng vậy. trong khi bảo vệ mình, con người cũng bảo vệ người khác.
Trong khi bảo vệ người khác, con người cũng bảo vệ mình.
- Ôi,
khéo nói thay là lời của Thế Tôn! Khi con cùng đi đường với người cầm đầu đoàn
lữ hành, con đi kinh hành dưới một gốc cây để bảo vệ con, và do đó, con đã bảo
vệ cả đoàn lữ hành.
Bậc Ðạo
Sư nói:
- Này
nam cư sĩ, thuở trước, các bậc hiền trí, trong khi tự bảo vệ mình, đã bảo vệ
người khác.
Nói vậy
xong, theo lời yêu cầu, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.
*
Thuở
xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình
Bà-la-môn. Khi đến tuổi trưởng thành, thấy được sự nguy hiểm trong các dục,
Bồ-tát xuất gia làm vị tiên nhân du sĩ, sống ở dãy Hy-mã-lạp Sơn.
Vì
cần đi lấy muối và giấm, Bồ-tát đi về vùng quê, Bồ-tát đi cùng đường với vị cầm
đầu đoàn lữ hành. Khi đoàn lữ hành dừng lại tại một khu rừng, Bồ-tát quyết định
đi kinh hành dưới một gốc cây, thọ hưởng thiền lạc, không xa đoàn lữ hành bao
nhiêu. Rồi có năm trăm tên cướp, sau buổi ăn chiều, bao vây doanh trại để đánh
cướp đoàn lữ hành ấy; thấy vị tu khổ hạnh, bọn chúng dừng lại và nói:
-
Nếu nó thấy chúng ta, nó sẽ báo động. Hãy chờ, cho nó ngủ, rồi chúng ta sẽ đánh
cướp trại.
Nghĩ
vậy, bọn chúng chờ tại chỗ ấy. Vị tu khổ hạnh suốt đêm vẫn đi kinh hành. Các
tên cướp không có được cơ hội, quăng bỏ các côn gậy, đá chúng đã mang theo và
la lên cho những người trong đoàn lữ hành nghe:
-
Này các bạn lữ hành, nếu hôm nay không có vị tu khổ hạnh đi kinh hành, thì tất
cả các bạn đã bị cướp phá lớn rồi. Ngày mai, hãy tôn trọng vị tu khổ hạnh ấy.
Nói
xong, bọn cướp bỏ đi. Khi đêm đã sáng, đoàn lữ hành thấy các côn, gậy, các hòn
đá mà bọn cướp bỏ lại, họ rất sợ hãi, đi đến Bồ-tát, đảnh lễ và hỏi:
-
Thưa Tôn giả, Tôn giả có thấy bọn cướp không?
-
Này các Hiền giả, tôi có thấy.
-
Thưa Tôn giả, thấy chừng ấy bọn cướp, Tôn giả không sợ hãi, không e ngại sao?
Bồ-tát
nói:
-
Này các Hiền giả, thấy bọn cướp, kẻ có tài sản mới sợ hại. Ta không có tài sản,
sao ta lại sợ hãi? Khi sống ở làng hay ở rừng, ta không sợ hãi, không e ngại vì
ta không có gì để mất.
Sau
khi thuyết pháp cho họ, Bồ-tát đọc bài kệ này:
Trong làng, ta không sợ,
Trong rừng, ta không sợ,
Bước lên đường giải thoát
Với lòng từ, lòng bi.
Trong rừng, ta không sợ,
Bước lên đường giải thoát
Với lòng từ, lòng bi.
Như
vậy, Bồ-tát thuyết pháp với bài kệ này, làm các người ấy được hoan hỷ, và họ
cung kính đảnh lễ Bồ-tát. Bồ-tát sống cho đến khi mạng chung, tu tập Bốn Vô
lượng tâm (từ, bi, hỷ, xả) và được sanh lên cảnh giới Phạm thiên.
*
Sau khi
kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện, và nhận diện Tiền thân
như sau:
- Thời
ấy, các người trong đoàn lữ hành là hội chúng đức Phật, và vị tu khổ hạnh là Ta
vậy.
-ooOoo-
77.
CHUYỆN GIẤC MỘNG LỚN (Tiền thân Mahàsupina)
Trước
bò đực cây con...,
Câu
chuyện này được bậc Ðạo Sư kể trong khi trú tại Kỳ Viên, về mười sáu giấc mộng
kỳ bí. Tương truyền vào khoảng canh năm, đêm gần mãn, vua Pasenadi (Ba-tư-nặc)
nước Kosala đang ngủ say suốt đêm lại mơ mười sáu giấc mộng lạ lùng khiến vua
kinh hãi tỉnh dậy và lo ngại về những điểm xấu có thể xảy đến cho mình. Vua sợ
chết đến nỗi không cử động được, mà cứ nằm trùm chăm trên long sàng. Bấy giờ,
khi trời gần sáng, các vị Bà-la-môn tế sư đến yết kiến vua và cung kính đảnh
lễ, vấn an Hoàng thượng có được ngon giấc chăng.
- Này
các Quốc sư, làm sao trẫm ngủ ngon giấc được vì đúng lúc tảng sáng, trẫm mơ
thấy mười sáu giấc mơ thật kỳ bí, và trẫm kinh hoàng từ đó! Này các quốc sư,
thử nói cho trẫm biết ỳ nghĩa giấc mơ này.
- Tâu
Hoàng thượng, chúng thần sẽ phán đoán khi nghe chuyện.
Thế rồi
vua kể cho nghe các giấc mơ và hỏi những cảnh kia báo trước tai họa gì cho mình
chăng.
Các vị
Bà-la-môn đều nắm chặt bàn tay lại. Nhà vua hỏi:
- Này
các quốc sư, sao nắm tay lại thế?
- Tâu
Ðại vương, vì chính toàn ác mộng cả.
- Vậy
chuyện gì sẽ xảy ra? Vua hỏi.
- Tâu
Ðại vương, một trong ba đại nạn sẽ xảy ra làm hại vương quyền, tính mạng cùng
tài sản của Ðại vương.
- Vậy
có cách gì cứu chữa được chăng?
- Hiển
nhiên những giấc mộng này báo trước những điểm hiểm nguy khó mà cứu vãn được;
tuy thế, chúng thần quyết tìm phương cách đối trị chúng. Nếu không thì việc học
hành thông thái uyên bác của chúng thần để làm gì chứ?
- Vậy
chư vị Hiền khanh định làm gì để tránh tai họa đó?
- Tâu
Ðại vương, ở bất kỳ ngã tư đường nào, chúng thần cũng xin lập tế đàn cúng bái
cả.
Nhà vua
trong lúc lo sợ, vội kêu lên:
- Này
các Hiền khanh, tính mạng trẫm trong tay chư vị, xin hãy mau mau hành sự cho
trẫm được bình an.
Các
Bà-la-môn như mở cờ trong bụng, nghĩ thầm: "Thế là những số tiền kết sù,
thực phẩm ê hề đủ loại sắp về tay ta rồi!".
Và họ
trấn an vua, rồi cùng lui về. Ngoài kinh thành, họ đào hố tế lễ và thu góp cả
đàn súc vật bốn chân, lựa giống toàn hảo, không tỳ vết bệnh tật và vô số chim
muông. Song họ vẫn thấy còn thiếu nhiều thứ quá, nên cứ lui tới cung điện đòi
thức nọ thức kia mãi. Thời bấy giờ, nhưng việc làm không thoát khỏi tầm mắt của
Hoàng hậu Mallikà, bà bèn đến yết kiến vua và hỏi việc gì khiến các Bà-la-môn
cứ đến gặp vua mãi vậy.
Vua
phán bảo:
- Trẫm
thèm được như ái khanh, thật con rắn đã chui vào tai, mà ái khanh chẳng biết gì
cả.
Tâu
Hoàng thượng, ngài phán bảo điều gì đấy?
- Ôi,
trẫm đã mơ thấy những giấc mộng thật xui xẻo! Các vị Bà-la-môn kia bảo rằng
chúng báo trước một trong ba đại họa, nên các vị ấy nôn nóng dâng lễ tế đàn để
tránh tai ương đó, vì thế chư vị đến đây hoài.
- Song
Hoàng thượng đã thỉnh ý vị Bà-la-môn tối thượng của loài người và chư Thiên
chưa?
- Này
ái khanh, hãy cho trẫm biết vị đó là ai vậy? Quốc vương hỏi.
- Thế
Hoàng thượng không biết vị Ðạo Sư Bà-la-môn tối thượng của thế gian, bậc Toàn
tri, thanh tịnh, vô cấu ấy chăng? Dĩ nhiên Ngài là đức Thế Tôn sẽ hiểu rõ các
giấc mộng của Hoàng thượng, xin Hoàng thượng hãy đến yết kiến Ngài và hỏi cho
rõ.
Nhà vua
đáp:
- Này
ái hậu, vậy thì trẫm sẽ đi ngay.
Thế là
vua liền ngự đến tinh xá, đảnh lễ bậc Ðạo Sư và ngồi xuống.
- Có
việc gì khiến Ðại vương đến đây từ sáng tinh mơ thế này? Bậc Ðạo Sư hỏi bằng
giọng êm dịu.
- Bạch
Thế Tôn, nhà vua đáp. Lúc gần tảng sáng, trẫm đã mơ mười sáu giấc mộng kỳ bí
khiến trẫm kinh hoàng và kể lại cho các vị Bà-la-môn nghe. Các vị ấy bảo giấc
mộng kia báo trước điềm dữ, vậy để tránh tai họa xảy ra, chư vị ấy phải dâng lễ
tế đàn ở bất kỳ ngã tư đường nào. Và chư vị ấy bận rộn chuẩn bị tế lễ, trong
khi nhiều sinh vật lo sợ cái chết đang kề trước mắt. Song bạch Thế Tôn, xin hãy
cho biết những gì sẽ xảy ra từ những giấc mộng kia, Thế Tôn là bậc tối thượng
của chư Thiên và loài người, bậc toàn trí về mọi việc hiện tại, quá khứ và vị
lai.
- Thật
vậy, này Ðại dương, không có ai ngoài Ta có thể nói đúng ý nghĩa các giấc mộng
của Ðại vương và những gì sẽ xảy ra sau đó. Ta sẽ nói. Vậy trước tiên ngài hãy
kể cho Ta nghe những giấc mộng xuất hiện ra sao.
- Thưa
vâng, bạch Thế Tôn.
Vua đáp
và lập tức đưa ra bản liệt kê này, theo thứ tự các giấc mộng xuất hiện:
Trước bò đực, cây con,
Sau bò cái, bê non,
Ngựa, bát vàng, sơn cẩu,
Bình nước, hồ sen trong,
Cơm sống, chiên-đàn quí,
Bầu bí lặn xuống dòng.
Ðá to thì trôi nổi,
Nhái bén, ễnh ương cùng
Xé tan bầy rắn hổ,
Quạ lại có tùy tùng
Chính bầy hoàng nga đẹp,
Chó sói sợ dê rừng!
Sau bò cái, bê non,
Ngựa, bát vàng, sơn cẩu,
Bình nước, hồ sen trong,
Cơm sống, chiên-đàn quí,
Bầu bí lặn xuống dòng.
Ðá to thì trôi nổi,
Nhái bén, ễnh ương cùng
Xé tan bầy rắn hổ,
Quạ lại có tùy tùng
Chính bầy hoàng nga đẹp,
Chó sói sợ dê rừng!
Như
vậy, bạch Thế Tôn, trẫm đã mơ thấy những giấc mơ này nghĩa là thế nào?
1. -
Hình như có bốn con bò đực, sắc đen tuyền từ bốn hướng chạy vào sân chầu với vẻ
muốn đánh nhau, dân chúng đổ xô đến xem đấu bò, họp thành một đám đông, nhưng
bầy bò chỉ giương oai múa võ, gầm thét ầm ĩ rồi cuối cùng bỏ đi chứ không đánh
nhau. Ðó là giấc mơ đầu của trẫm. Nó báo trước điều gì sẽ xảy ra chăng?
- Này
Ðại vương, giấc mơ ấy không có hậu quả gì ngay trong thời Ðại vương hay trong
thời của Ta đâu. Mà sau này, vào thời kỳ vua chúa xan tham, bất công, khi dân
chúng không theo Chánh pháp, thế giới đảo điên, việc thiện suy giảm, và điều ác
đồng thời tăng trưởng. Trong những ngày thế giới điêu tàn ấy, sẽ không có mưa
từ trời rơi xuống, gió không thổi, mùa màng cây cỏ khô héo, nạn đói nổi lên
trên địa cầu. Rồi mây sẽ kéo đến từ góc trời như thể sắp mưa, khiến dân chúng
vội vã, trước tiên là mang vào nhà mọi thứ thóc lúa, hoa màu mà phụ nữ đã đem
phơi nắng, vị sợ ướt hết. Sau đó đám đàn ông đem xẻng, thúng... đi đắp đê. Bầu
trời như thể có dấu hiệu mưa tới, sấm nổ ầm ầm, chớp lóe sáng lòa xé mây, nhưng
rồi cũng như bầy bò trong giấc mơ nọ không đánh nhau thì mây kia cũng sẽ tan
nhanh và mưa chẳng đến. Những việc nọ mà các Bà-la-môn bảo ngài làm chỉ cốt để
sinh lợi cho họ thôi.
Khi bậc
Ðạo Sư đã nói xong giấc mộng này, Ngài bảo:
- Ðại
vương hãy kể cho ta nghe giấc mộng thứ hai.
2. -
Bạch Thế Tôn, vua đáp, giấc mộng thứ hai của trẫm như vầy: Hình như có những
bụi cây con từ dưới đất trồi lên, khi chúng chỉ mới cao chừng vài tấc thì chúng
đã đơm hoa kết trái. Ðó là giấc mơ thứ hai, và chuyện gì sẽ xảy ra từ đây
chăng?
- Này
Ðại vương, giấc mộng này sẽ thành hiện thực vào thời thế giới này suy đồi và con
người yểu mệnh. Trong thời vị lai, dục vọng sẽ rất mãnh liệt, có những bọn con
gái rất non trẻ đi đến sống chung với bọn đàn ông và rồi cũng theo lề lối đàn
bà, chúng sẽ thụ thai và sinh con cái. Hoa quả kia tượng trưng cho con cái của
chúng. Nhưng Ðại vương chẳng có gì phải lo sợ cả. Ðại vương hãy nói cho Ta nghe
giấc mơ thứ ba đi.
3. -
Bạch Thế Tôn, hình như trẫm mơ thấy bầy bò cái bú sữa con mà chúng vừa sinh ra
trong một ngày thôi. Ðó là giấc mơ thứ ba. Vậy điều gì sẽ xảy ra chăng?
- Giấc
mơ này, thưa Ðại vương, chỉ thành hiện thực trong thời vị lai, khi các người
già không còn được kính trọng nữa. Trong thời ấy, con người đời không tỏ lòng
kính trọng cha mẹ mình hay nhạc phụ nhạc mẫu. Chính con cháu sẽ cai quản tài
sản gia đình, và nếu họ muốn, họ sẽ cho cha mẹ thức ăn, áo mặc, còn nếu không
thích thì họ sẽ cất hết các quà biếu ấy lại. Lúc ấy đám người già sống thiếu
thốn và lệ thuộc vào bọn con cháu, tùy theo ân huệ ban bố của con cháu mình,
giống như bò cái bú sữa bò con vừa mới sinh một ngày! Nhưng Ðại vương chẳng cần
phải lo sợ gì cả. Hãy kể cho Ta nghe giấc mơ thứ tư đi.
4. -
Bạch Thế Tôn, hình như trẫm thấy người ta mở dây buộc đàn bò lực lưỡng mạnh bạo
ra, rồi đem đàn bò con bắt kéo xe, và chúng không đủ sức mang gánh nặng đặt lên
đầu chúng, nên không chịu đi, chỉ đứng yên, khiến xe cộ không chạy được trên
đường sá. Ðó là giấc mộng thứ tư của trẫm, và việc gì sẽ xảy ra chăng?
- Giấc
mộng này, thưa Ðại vương, cũng chẳng thành hiện thực mãi cho đến ngày vị lai,
thời có các vua chúa bất minh. Trong thời vị lai ấy, các vua chúa xan tham bất
chánh không có lòng tôn kính các bậc trưởng thượng thông thái, am hiểu luật
pháp cổ kim, đa mưu túc kế, thành thạo việc đời, nên vua không bổ nhiệm vào
pháp đình những vị phán quan thông minh uyên bác về luật vua phép nước. Chẳng
những thế, bọn vua chúa ấy quý trọng những người quá non trẻ ngu si và chỉ định
chúng vào những chức chủ tọa tòa án. Ðám người này vừa ngu dốt việc triều
chính, vừa kém cỏi không thể vận dụng kiến thức và thực hành, nên không đủ sức
mang nổi trách nhiệm cao cả của chúng hoặc trị dân trị nước, mà sẽ làm nghiêng
ngả giềng mối quốc sự vì thiếu năng lực tài ba. Do đó những bậc cao niên trưởng
thượng thông thái kia, dù đầy đủ tài năng đương đầu với mọi trở lực gian lao,
vẫn nhớ rõ là họ đã bị bỏ rơi như thế nào rồi, nên sẽ từ chối giúp sức và bảo:
"Ðây không phải là việc của chúng ta, chúng ta là người ngoài cuộc, cứ để
cho bọn trẻ nội bộ lo liệu". Từ đó, các vị ấy đứng tách rời ra, và cảnh
suy tàn sẽ vây hãm đám vua chúa kia từ mọi phía. Chuyện ấy cũng giống như dây
thắng đem buộc vào bầy bò con chưa đủ sức kéo xe nặng nề, chứ không phải buộc
vào đàn bò kéo xe lực lưỡng từ xưa, chính bọn chúng đã thừa khả năng đảm đang
việc ấy. Tuy vậy, Ðại vương chẳng có gì phải sợ hãi cả. Hãy kể tiếp giấc mơ thứ
năm đi.
5. -
Bạch Thế Tôn, hình như trẫm mơ thấy một co ngựa có cái mồm cả hai bên, thức ăn
được bỏ vào cả hai bên, nên nó ăn luôn cả hai mồm cùng một lúc, đó là giấc mơ
thứ năm. Vậy việc gì sẽ xảy ra chăng?
- Giấc
mơ này cũng chỉ thành hiện thực trong tương lai, thời kỳ các vua chúa ngu si
bất chánh bổ nhiệm bọn người tham lam bất chánh làm phán quan. Bọn người hèn hạ
này là một bọn ngu si, khinh chê điều thiện, sẽ nhận tiền của hối lộ từ cả hai
bên trong lúc chúng ngồi ghế xét xử, chúng sẽ nhét đầy túi tham với cách nhũng
lạm cả hai phía này, chẳng khác nào con ngựa ăn cỏ cả hai mồm cùng một lúc. Tuy
thế, Ðại vương chẳng có gì phải lo sợ chuyện đó cả. Hãy kể tiếp giấc mộng thứ
sáu.
6. -
Bạch Thế Tôn, hình như trẫm thấy người ta cầm một cái bát vàng sáng loáng đáng
giá trăm ngàn đồng tiền, lại đưa ra mời một con chó rừng già nua tiểu tiện vào
đấy. Và trẫm thấy con vật kia đã làm như vậy. Ðó là giấc mộng thứ sáu. Việc gì
sẽ xảy ra chăng?
- Giấc
mộng này cũng chỉ thành hiện thực trong tương lai, khi các vua chúa, dù xuất
thân từ dòng dõi hoàng tộc, lại không tin dùng các vương tôn công tử quí phái
từ xưa, mà đem ban chức tước cho bọn hạ đẳng, khiến đám quí tộc phải sa sút
nghèo hèn và đám cùng đinh lên ngôi cao trọng. Sau đó những danh gia vọng tộc
bị quẩn bách bần cùng phải cố tìm kế mưu sinh bằng cách nương tựa vào đám người
trưởng giả mới lên, và đem con gái mình gả cho chúng. Như vậy mối nhân duyên
kết hợp bầy tiểu thư đài các với đám tục tử hạ lưu có khác gì việc con chó rừng
giả tiểu tiện vào cái bát vàng kia! Tuy thế Ðại vương chẳng có gì phải lo ngại
cả. Hãy kể tiếp giấc mộng thứ bảy đi.
7. -
Bạch Thế Tôn, có một kẻ đan sợi dây thừng, trong khi vừa đan, nó lại vừa thả
dây này xuống chân, dưới ghế ngồi khi ấy có một con chó cái rừng đói mồi, nên
cứ ăn mãi sợi dây thừng kia mà người ấy chẳng hề biết. Ðó là giấc mơ thứ bảy mà
trẫm đã thấy. Việc gì sẽ xảy ra chăng?
- Giấc
mộng này cũng không thành hiện thực cho tới thời vị lai, khi ấy đám nữ nhân đầy
tham dục chạy theo bọn đàn ông và rượu nồng, ngọc ngà, trang sức vàng bạc, lê
bước khắp nẻo đường thọ hưởng mọi lạc thú trần gian. Trong lối sống phóng đãng
hoang phí kia, chúng cũng say sưa bên men rượu nồng cùng bọn tình nhân, chúng
cứ phô trương đủ thứ vòng hoa, sáp thơm thật bóng lộn, chẳng còn quan tâm đến việc
tề gia nội trợ dù cấp bách đến đâu đi nữa, chúng chỉ suốt ngày chờ đợi bọn tình
nhân, cứ nhìn qua khe hở cao tít ở ngoài vách tường quanh nhà; chúng lại đem
hết thóc giống để dành gieo hạt ngày sau ra giã làm bột, cốt để ăn chơi thỏa
thích. Bằng mọi cách trên, chúng lấy hết kho thóc lúa do công lao của chồng
chúng làm ra trên đồng ruộng, chúng xâu xé tài sản của bọn đàn ông khốn khổ
kia, có khác gì con chó rừng đói mồi dưới chân ghế cứ gặm hết đoạn dây thừng
trong lúc người ấy đang kết dây lại. Tuy vậy, Ðại vương chẳng có gì phải sợ hãi
cả. Hãy kể giấc mộng thứ tám của Ðại vương đi.
8. -
Bạch Thế Tôn, hình như trẫm thấy tại hoàng môn có một bình lớn đầy nước tận
miệng, ở giữa một số bình trống không. Rồi từ bốn phương có bốn dòng người gồm
cả bốn giai cấp (Sát-đế-ly, Bà-la-môn, Vệ-xá, Thủ-đà), liên tục mang nước trong
các bình đất đến đổ vào chiếc bình lớn kia, làm nước tràn chảy hết ra ngoài.
Tuy vậy, họ vẫn cứ đổ mãi nước vào bình đã tràn ấy, mà chẳng có người nào thèm
liếc mắt tới những bình trống trơn cả. Ðó là giấc mơ thứ tám của trẫm. Xin cho
biết có việc gì xảy ra chăng?
- Giấc
mơ này cũng chẳng thành hiện thực cho tới thời vị lai. Khi ấy thế giới sẽ suy
tàn, vương quốc trở thành kiệt quệ, vua chúa sẽ nghèo khó và sinh thói xan
tham, người giàu nhất trong đám vua chúa cũng không thể có nhiều hơn một trăm
ngàn đồng tiền trong kho. Trong lúc túng quẩn, bọn vua chúa này bắt toàn dân ra
sức làm việc cho họ; vì thế, để phụng sự vua, dân chúng bỏ hết công việc riêng
của mình, đi gieo hạt lúa, đậu, trông coi gặt hái, đập giã và cất vào công khố;
để phụng sự vua, dân chúng phải trồng mía làm đường, nấu mật; để phụng sự vua,
dân chúng phải trồng vườn hoa vườn trái, và thu hoạch hoa màu. Khi thu hoạch đủ
loại sản phẩm, chúng đem chứa đầy vào các kho tích trữ của vua chúa đến tràn
lan, mà chẳng khác gì đổ tràn các bình đã đầy và chẳng quan tâm những bình
trống rỗng. Tuy nhiên, Ðại vương chẳng có gì phải lo sợ vì việc ấy cả. Hãy kể
cho Ta nghe giấc mộng thứ chín.
9. -
Bạch Thế Tôn, hình như trẫm thấy một hồ sâu có bờ cao bao quanh mọc đầy năm
loại hoa sen. Từ bốn phía hồ các loài vật hai chân, bốn chân kéo đến từng đàn
để uống nước. Chính giữa hồ thì nước sâu lại đục ngầu như quấy bùn, nhưng nước
lại trong trẻo lấp lánh ở các bờ hổ, nơi đủ loại súc vật bước xuống uống ăn. Ðó
là giấc mộng thứ chín của trẫm. Chuyện gì sẽ xảy ra từ điềm ấy chăng?
- Giấc
mơ này cũng chỉ thành hiện thực ở thời tương lai. Thời ấy vua chúa trở thành
bất công, cai trị theo ý muốn và sở thích riêng của mình, nên không xử án theo
công lý. Bọn vua chúa này thèm khát vàng bạc và gia tăng việc nhận hối lộ, họ
không tỏ lòng thương xót yêu mến dân chúng mình, mà lại tàn ác vơ vét của cải
bằng cách chà đạp bọn bề tôi như ép mía và đánh thuế dân đến độ đồng xu chẳng
còn dính túi. Vì không thể nào trả nổi sưu thuế đè nặng trên lưng, dân chúng
khắp thị thành làng mạc sẽ bỏ trốn, tìm nơi trú ẩn ở các vùng biên địa của xứ
sở nên trung tâm của tổ quốc trở thành chốn hoang vu, trong khi vùng biên địa
lại đông đúc dân chúng. Chuyện ấy cũng giống như nước giữ hồ vẩn đục, còn ở bờ
hồ lại trong trẻo. Tuy vậy, Ðại vương chẳng có gì phải lo sợ gì việc ấy cả, hãy
kể cho Ta nghe giấc mộng thứ mười.
10. -
Bạch Thế Tôn, hình như trẫm thấy cơm sôi trong nồi mà không được trộn cho đều.
Vì không được khuấy đều, nên nồi gạo giống như được chia ra ba phần rõ rệt theo
ba giai đoạn nấu cơm: phần thì nhão nhẹt, phần thì sống sượng, phần thì vừa
chín thật ngon lành! Ðó là giấc mộng thứ mười của trẫm. Việc gì sẽ xảy ra từ
điềm ấy chăng?
- Giấc
mộng này cũng chẳng thành sự thật cho đến thời vị lai. Thời ấy vua chúa bất
công, dân chúng dưới quyền cũng trở thành bất chánh, các Bà-la-môn, gia chủ,
thị dân, nông dân cũng thế; đúng vậy, dân chúng đều thành ra bất chánh cả, ngay
cả những Bà-la-môn thông thái. Kế đó là các thần linh hộ trì chúng, những thần
linh mà chúng thường dân tế lễ, như thần cây cối, thần giữa không gian, cũng
trở thành bất chánh luôn, ngay cả gió thổi qua quốc độ của các hôn quân này
cũng trở thành cuồng phong hỗn loạn, làm rung chuyển các đền đài trên Thiên giới,
khiến chư thần trên đó phẫn nộ, không cho mưa rơi xuống; hoặc là nếu có mưa đi
nữa cũng chẳng rơi đều khắp quốc độ cùng một lúc, cũng chẳng có những cơn mưa
dông lớn tốt lành tưới đều trên các vùng đất cày cấy gieo hạt để giúp dân chúng
đang cơn túng quẩn. Vì thế, trong một quốc gia rộng lớn, trong mỗi thôn làng,
hồ, ao, mưa không rơi xuống cùng một lúc trong cùng một phạm vi; nếu mưa ở phần
trên, thì không mưa ở phần dưới, nơi này mùa màng bị hư hại nặng vì úng thủy,
nơi kia lại khô cằn vì hạn hán, nơi khác nữa lại thịnh vượng nhờ những cơn mưa
thuận gió hòa đều đặn. Thế là mùa màng trong cùng một quốc độ - như cơm trong
một nồi - sẽ không giống nhau. Tuy thế, Ðại vương không có gì phải lo sợ vì
chuyện đó cả. Hãy kể cho Ta nghe giấc mộng thứ mười một đi.
11. -
Bạch Thế Tôn, hình như trẫm thấy bơ tươi được đem đi đổi lấy gỗ chiên- đàn
(trầm hương) quý trị giá cả một trăm ngàn đồng tiền. Ðó là giấc mơ thứ mười
một. Có điều gì xảy ra từ đó chăng?
- Giấc
mộng này cũng không thành hiện thực cho đến thời vị lai, ngày mà Giáo pháp của
Ta suy tàn. Vào thời đó, nhiều Tỷ-kheo tham lam vô tàm vô quý sẽ xuất hiện, chỉ
vì miếng cơm manh áo mà chúng thuyết giảng chính Giáo pháp Ta đã truyền bá cốt
để tận diệt dục tham! Do chúng từ bỏ Giáo hội chỉ vì lợi dưỡng tấm thân và đứng
vào hàng ngũ của bọn tà giáo, nên chúng không thể giảng Chánh pháp đưa đến
Niết-bàn. Không, chúng chỉ suy nghĩ, trong lúc giảng pháp, làm sao dùng đủ lời
lẽ hoa mỹ và giọng nói ngọt ngào để dụ dỗ quần chúng đem cho chúng thực phẩm, y
phục đắt tiền cùng các thứ đại loại như thế và chỉ chuyên tâm đến lợi dưỡng
cúng dường. Có những kẻ ngồi ở đại lộ, góc đường, hoàng môn... cúi mình xuống
giảng pháp vì tiền, vì các đồng tiền lớn nhỏ. Và trong khi chúng đem bán rẻ
Giáo pháp đưa đến Niết-bàn vô giá để đổi lấy thực phẩm, y phục, vàng bạc thì
chúng có khác gì kẻ đem đổi gỗ chiên-đàn đáng giá trăm ngàn đồng để lấy thứ bơ
tươi kia? Tuy thế, Ðại vương chẳng có gì phải lo sợ chuyện ấy cả, hãy kể giấc
mộng thứ mười hai cho Ta nghe.
12. -
Bạch Thế Tôn, trẫm thấy dây bí bầu rỗng ruột lại chìm xuống nước. Vậy có điều
gì sẽ xảy ra chăng?
- Giấc
mộng này cũng không thành hiện thực cho đến thời vị lai có vua chúa bất công,
thế giới điên đảo. Thời ấy vua chúa không quý trọng những người dòng dõi quý
tộc mà chỉ ưu đãi bọn hạ đẳng, nên bọn này sẽ thành ra những chúa tể quyền cao
chức trọng trong khi đám quý tộc phải bị dìm xuống cảnh nghèo khổ. Cũng vậy ở
chốn triều đình, ở cung môn, tại sảnh đường hay tòa án chỉ có lời nói của bọn
hạ đẳng - mà xác lập vững vàng, như thể chìm tận đáy nước. Ngay trong tứ sự
cúng dường: thực phẩm y phục, sàng tọa, dược liệu... cũng vậy, chỉ ý kiến của
kẻ ác dục, suy đồi được xem là có quyền định đoạt chứ không phải ý kiến của các
Tỷ-kheo biết thiểu dục trí túc. Chuyện như thế khắp nơi chẳng khác gì cảnh dây
bầu bí rỗng ruột lại chìm. Tuy vậy, Ðại vương không có gì phải lo sợ chuyện đó
cả. Hãy kể giấc mộng thứ mười ba cho Ta nghe.
13. -
Khi ấy nhà vua nói:
- Bạch
Thế Tôn, hình như trẫm thấy những tảng đá lớn bằng ngôi nhà, lại nổi bồng bềnh
như thuyền bè trên nước. Vậy việc gì sẽ xảy ra chăng?
- Giấc
mộng này cũng không thành sự thật cho tới thời vị lai như Ta đã nói trên. Thời
ấy, vua chúa bất công, tận dụng đám người hạ đẳng, chúng sẽ trở thành các chúa
tể đầy quyền lực trong lúc đám người quý tộc sa sút nghèo khổ. Người ta không
còn tôn sùng quý tộc, mà chỉ tôn sùng bọn mới giàu sang thôi. Lúc vua lâm
triều, trong phòng họp cơ mật, hay ở chốn pháp đình, lời nói của các vị quý tộc
tinh thông luật pháp - chính các tảnh đá lớn tượng trưng cho hạng người này -
lại trôi giạt bồng bềnh, chứ không lắng sâu vào tâm tư mọi người. Khi các vị
này cất tiếng thì bọn trưởng giả mới nổi sẽ cười nhạo khinh bỉ, bảo nhau:
"Các tên kia đang nói gì thế?". Cũng vậy, trong các hội chúng
Tỷ-kheo, giống như đã nói trên đây, người ta không biết kính trọng những bậc
tối thắng giữa hàng Sa-môn, nên lời nói của các vị này không lắng đọng lại, mà
chỉ trôi dật dờ đi mất, chẳng khác nào các tảng đá nổi bồng bềnh trên mặt nước.
Tuy nhiên, Ðại vương không có gì phải sợ hãi chuyện ấy cả. Hãy kể tiếp cho ta
nghe giấc mộng thứ mười bốn cho ta nghe.
14. -
Bạch Thế Tôn, hình như trẫm thấy những con nhái bén chẳng lớn hơn những cánh
hoa bé tí teo, lại nhanh nhẹn săn bắt những con rắn khổng lồ, cắn xé chúng ra
từng khúc như các ngó sen và nhai ngấu nghiến chúng trong chốc lát là xong.
Việc gì sẽ xảy ra chăng?
- Giấc
mộng này cũng chẳng thành sự thực cho tới thời vị lai, những việc trước Ta đã
nói, thời thế giới suy tàn. Lúc ấy tham ái của bọn nam nhân nổi lên quá mãnh
liệt, dục vọng quá nồng nàn đến độ chúng trở thành lũ nô lệ cho bọn hầu thiếp
còn trẻ con, trong nhà, từ những kẻ tôi tớ, làm công, trâu bò, heo gà, vàng
bạc, cho đến mọi vật khác đều tùy thuộc đám thê thiếp định đoạt. Giả sử người
chồng khốn khổ kia hỏi xem tiền bạc, áo quần để ở đâu, liền được đáp rằng nó ở
đâu kệ nó, chàng ta phải lo chuyện mình đi, đừng hỏi han gì lôi thôi về việc gì
trong nhà "vợ chàng ta" cả! Rồi sau đó bằng mọi cách, bọn thê thiếp
kia dùng lời người chồng như bầy nô lệ, tôi tớ, như vậy chẳng khác gì lũ nhái
bén, chẳng lớn hơn cái hoa tí xíu, lại nuốt chửng rắn hổ mang! Tuy nhiên ngài
chẳng có gì phải lo lắng về việc đó cả. Hãy nói cho Ta nghe giấc mộng thứ mười
lăm.
15. -
Bạch Thế Tôn, hình như trẫm thấy một con quạ đồng quê, đầy đủ mười ác hạnh, lại
được một đoàn tùy tùng gồm toàn chim quý hộ tống, những con chim này màu lông
vàng ánh, thường được đặt tên là Kim nga vương giả. Việc gì sẽ xảy ra chăng?
- Giấc
mơ này, thưa Ðại vương, cũng không thành tựu cho đến thời vị lai, thời đại các
quốc vương suy thoái. Ðó là thời xuất hiện những vị vua chẳng hiểu biết gì về
võ thuật, voi, ngựa, và lại hèn nhát khi ra trận, vì sợ bị truất phế hay tống
xuất ra khỏi vương quốc, nên chúng đưa những bọn cận vệ, hầu tắm, hớt tóc, đại
loại như thế lên nắm quyền thay vì đưa nhóm người quý tộc lên. Như vậy, đám
người này không được hưởng ơn vua lộc nước, nên không đủ sức cấp dưỡng cho
mình, đành phải cam chịu hạ mình chầu hầu bọn trưởng giả mới, giống như chim
quạ được đám Kim nga vương giả theo hầu. Tuy thế, Ðại vương không có gì phải lo
sợ về điều ấy cả. Hãy kể giấc mơ thứ mười sáu cho Ta.
16. -
Xưa nay, chính loài hổ báo săn bắt sơn dương, nhưng hình như trẫm mơ thấy sơn
dương săn bắt hổ báo và xé xác ăn rau ráu. Trong lúc vừa thấy bóng bầy dê từ
đàn xa bầy chó sói hoảng hốt chạy trốn và lập tức giấu mình vào bụi rậm. Ðó là
giấc mơ của trẫm. Việc gì sẽ xảy ra chăng?
- Giấc
mơ này, thưa Ðại vương, cũng không thành hiện thực cho đến thời vị lai, thời
vua chúa bất minh cai trị. Thời ấy, bọn hạ đẳng được nắm quyền cao chức trọng
và được nhiều ân sủng của vua chúa, trong lúc đám quý tộc sa vào cảnh bần cùng
tối tăm. Vì có được nhiều thế lực trong tòa án do ân sủng của vua ban, bọn mới
giàu sang này đòi tước đoạt quyền tư hữu đất đai, y phục, và mọi tài sản do tổ
tiên để lại của đám quý tộc xưa. Khi đám người này cố bênh vực cho quyền lợi
của họ trước tòa án, liền bị đám hầu cận thân tín của vua lấy gậy gộc đánh đập,
nắm cổ quẳng ra ngoài với lời thô bỉ, đại khái là: "Liệu thần hồn đấy, bọn
ngu si kia! Sao? Các ngươi muốn tranh giành với chúng ta ư? Ðức vua sẽ biết
được sự hỗn láo của các ngươi, rồi chúng ta sẽ sai chặt tay chân của các ngươi
ra và trừng phạt thích đáng cả lũ!". Sau đó đám người quý tộc kinh hoảng
nhận ra rằng tài sản của họ nay đã trở thành tài sản của đám người thống trị
mới quá khắc nghiệt kia, nên phải yêu cầu bọn mới được ân sủng này nhận lấy tài
sản của họ. Rồi họ vội vã về nhà trốn tránh trong nỗi lo âu sợ hãi. Cũng vậy,
các ác Tỷ-kheo tha hồ khủng bố, tiêu diệt các Tỷ-kheo hiền thiện, xứng đáng,
cho đến khi các người này không thấy còn ai bảo vệ mình nữa, đành phải trốn vào
rừng sâu. Như vậy sự đàn áp hội chúng quý tộc và thiện Tỷ-kheo cũng giống như
bầy chó sói bị bầy dê hăm dọa.
Tuy
nhiên, ngài không có gì phải sợ hãi chuyện ấy cả. Vì giấc mộng này cũng chỉ
liên hệ đến thời tương lai mà thôi. Như vậy, không phải vì chân lý hay lòng yêu
mến Ðại vương khiến cho các Bà-la-môn tiên đoán như cách họ đã nói với Ðại
vương đâu. Ðó chỉ là lòng tham muốn lợi dưỡng, cái tri thức được nuôi dưỡng bởi
tham dục làm cho họ thốt ra những lời nói đem mối lợi phần mình mà thôi.
Như vậy
bậc Ðạo Sư đã thuyết giảng ý nghĩa của mười sáu giấc mộng lớn trên xong, và
Ngài nói thêm:
- Này
Ðại vương, ngài không phải là người đầu tiên nằm mộng như thế; mà ngày xưa, các
vua chúa cũng từng mơ thấy những giấc mộng này, và cũng như giờ đây, các
Bà-la-môn tìm thấy những cớ đó để dâng lễ tế đàn; vì việc này, theo lời thỉnh
cầu của người hiền thiện và có trí, Bồ-tát đã được tham vấn, và các giấc mộng
đã được các bậc hiền trí ngày xưa giải thích giống hệt như cách chúng được giải
thích giờ đây.
Nói vậy
xong, theo lời thỉnh cầu của vua, Ngài kể một câu chuyện quá khứ.
*
Một
thuở nọ khi vua Ba-la-nại, Bồ-tát thọ sanh làm một Bà-la-môn ở một quốc độ
phương Bắc. Khi ngài đến tuổi trưởng thành, ngài từ giã thế tục, sống đời ẩn
sĩ. Ngài đạt được các Thắng trí và các Thiền chứng, an trú tại vùng Tuyết Sơn
với thiền lạc thanh tịnh.
Ngày
ấy, cũng như trên, vua Brahmadatta mơ những giấc mơ này tại thành Ba-la-nại, và
tham vấn ý kiến các Bà-la-môn liên hệ vấn đề và các Bà-la-môn cũng như hiện
nay, khởi sự việc tế đàn. Trong đám ấy một thanh niên Bà-la-môn có trí, thông
thái, là đệ tử của vị Tế sư của hoàng tộc, thưa với thầy mình:
-
Bạch sư phụ, sư phụ đã dạy con ba tập Thánh điển Vệ-đà. Vậy không có kinh nào
bảo rằng việc giết một sinh vật không đem lại đời sống cho một sinh vật khác
sao?
-
Này đồ đệ, việc này sẽ đem lại nhiều tiền cho chúng ta, vô số tiền đấy. Hình
như con chỉ mong đừng hao tốn công khố của đức vua thôi ư?
-
Bạch sư phụ, vậy xin sư phụ cứ làm theo ý mình. Thanh niên Bà-la-môn nói. Còn
phần con, con còn ở lại đây với sư phụ để làm gì kia chứ?
Nói
vậy xong thầy từ giã thầy mình và đi đến ngự viên của Hoàng gia.
Cùng
ngày đó, Bồ-tát biết hết việc này, ngài nghĩ thầm: "Giả sử hôm nay ta
viếng cõi trần, ta sẽ giải thoát cho nhiều sinh vật khỏi cảnh giam cầm ấy
ngay". Thế rồi ngài du hành qua không gian, giáng hạ tại ngự viên kia,
ngài an tọa và chiếu sáng như một bức tượng bằng vàng trên thạch bàn dành cho
đại lễ. Thanh niên Bà-la-môn đến gần, đảnh lễ ngài và ngồi xuống một bên với vẻ
thân hữu. Cuộc đàm đạo êm thấm diễn ra, và Bồ-tát hỏi thanh niên Bà-la-môn có
nghĩ là vua này cai trị đúng pháp chăng.
Thanh
niên đáp:
-
Thưa Tôn giả, đức vua vốn là người chân chính, song các Bà-la-môn đã làm cho
ngài thiên về ác hạnh. Khi được vua hỏi ý kiến về mười sáu giấc mộng lớn mà
ngài vừa thấy, các Bà-la-môn liền chụp ngay cơ hội đó để đòi tế đàn và bảo hành
động tức thì. Vậy thưa Tôn giả, nếu Tôn giả vui lòng đến giải thích cho vua
hiểu rõ ý nghĩa thật sự của các giấc mộng ấy và thế là giải cứu được vô số sinh
linh khỏi nỗi kinh hoàng vì chết chóc, chẳng phải là một việc thiện lành đó
chăng?
-
Nhưng này nam tử, ta không biết vua, mà vua cũng chẳng biết ta. Tuy vậy, nếu
vua muốn đến đây hỏi ta, ta sẽ nói cho vua nghe.
Thanh
niên Bà-la-môn đáp:
-
Thưa Tôn giả, con sẽ đi rước đức vua đến đây. Chỉ xin Tôn giả vui lòng ngồi đợi
đây một lát cho đến khi con trở lại.
Sau
khi được Bồ-tát nhận lời, chàng đến bệ kiến vua và tâu:
-
Trong ngự viên vừa có một ẩn sĩ phi hành qua không gian và giáng hạ, vị này bảo
có thể giải thích các giấc mộng của Ðại vương, kính mong Ðại vương kể lại các
giấc mộng này cho vị ẩn sĩ ấy được chăng?
Khi
vua nghe việc này, liền lập tức cùng đoàn tùy tùng đến ngự viên. Vừa đảnh lễ vị
ẩn sĩ, vua ngồi xuống bên ngài và hỏi có thật là ngài hiểu rõ việc gì sẽ xảy ra
từ những giấc mộng ấy chăng. Bồ-tát đáp:
-
Dĩ nhiên là đúng vậy. Nhưng trước hết hãy kể cho ta nghe những giấc mộng của
Ðại vương.
-
Bạch tôn giả, trẫm xin sẵn sàng, vua đáp và bắt đầu kể như sau:
Trước bò đực, cây con,
Sau bò cái, bê con,
Ngựa, bát vàng, sơn cẩu,
Bình nước, hồ sen trong,
Cơm sống, chiên đàn quý,
Bầu bí lặn xuống dòng,
Ðá to thì trôi nổi,
Nhái bén, ễnh ương cùng
Xé tan bầy rắn hổ,
Quạ có đám tùy tùng
Là bầy hoàng nga đẹp;
Chó sói sợ dê rừng!
Sau bò cái, bê con,
Ngựa, bát vàng, sơn cẩu,
Bình nước, hồ sen trong,
Cơm sống, chiên đàn quý,
Bầu bí lặn xuống dòng,
Ðá to thì trôi nổi,
Nhái bén, ễnh ương cùng
Xé tan bầy rắn hổ,
Quạ có đám tùy tùng
Là bầy hoàng nga đẹp;
Chó sói sợ dê rừng!
Và
kế đó vua kể các giấc mộng giống như vua Pasenadi (Ba-tư-nặc) đã kể trên.
Bậc
Ðại Sĩ bảo:
-
Thôi đủ rồi, Ðại vương không có gì phải sợ hãi về việc này cả.
Sau
khi trấn an nhà vua xong và giải thoát cho đám sinh vật kia khỏi bị giam giữ, Bồ-tát
liền trụ trên không, khuyến giáo vua, và an trú vua vào Ngũ giới rồi kết luận
với những lời này:
-
Thưa Ðại vương, từ nay về sau Ðại vương đừng cộng tác với các Bà-la-môn trong
việc giết súc vật để tế đàn.
Sau
khi thuyết giảng xong, Bồ-tát du hành qua không gian để trở lại nơi trú ngụ của
ngài. Còn nhà vua, chấp trì lời dạy đã được nghe, chuyên sống đời bố thí, cùng
làm nhiều thiện sự công đức khác và khi mạng chung đi theo nghiệp của mình.
*
Khi
chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư bảo:
- Ðại
vương không có gì phải sợ các giấc mộng ấy cả. Vậy hãy hủy bỏ việc tế đàn đi.
Sau khi
bảo vua hủy bỏ việc tế đàn và giải cứu vô số sinh linh, Ngài kết hợp hai câu
chuyện và nhận diện Tiền thân:
- Vào
thời ấy Ànanda là vua, Xá-lợi-phất là thanh niên Bà-la-môn và Ta là vị ẩn sĩ
ấy.
-ooOoo-
78.
CHUYỆN VỊ TRIỆU PHÚ ILLÌSA (Tiền thân Illìsa).
Cả hai
què và còm...,
Câu
chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một vị triệu phú keo kiệt.
Không xa Vương Xá bao nhiêu, có một thị trấn tên là Sakkhara. Tại đó, một vị
triệu phú có tài sản đến tám trăm triệu đồng tiền, tên là Maccharikosiyo. Ông
hà tiện đến nỗi một giọt dầu lấy từ ngọn cỏ kusa cũng không cho ai, và cũng
không tự mình dùng. Như vậy, tài sản của ông không đem lại lợi ích nào cho vợ
con, cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn.... Gia sản ấy nằm yên như vậy, không ai thọ
hưởng, như hồ nước có quỷ La-sát chiếm cứ.
Một hôm
thức dậy vào sáng sớm, bậc Ðạo Sư khởi lòng đại bi, nhìn toàn thể thế giới, xem
ai có khả năng giác ngộ. Ngài thấy sống cách xa Ngài khoảng bốn trăm dặm, có
hai vợ chồng ấy đủ khả năng chứng quả Dự lưu. Ðó là hai vợ chồng nhà triệu phú
keo kiệt nói trên.
Ngày
hôm trước, đi đến hoàng cung để chầu vua, sau khi trở về, người triệu phú thấy
một người nông dân đói bụng, đang ăn một loại bánh chiên nhồi với bột chua.
Ngay lúc ấy, người triệu phú khởi lên thèm khát, vừa đi về nhà vừa nghĩ:
"Nếu ta nói ta muốn ăn bánh chiên nhồi bột chua thì sẽ có nhiều người muốn
ăn với ta. Như vậy sẽ tốn cho ta nhiều gạo, bơ chín, đường.... Vì vậy, ta sẽ
không nói với ai gì hết". Về nhà ông đi qua đi lại, dằn ép thèm muốn, đến
nỗi sắc da trở thành vàng, mạch máu nổi lên trên thân. Cuối cùng, không dằn ép
được thèm muốn, ông đi vào phòng, nằm co ro trên giường.
Như
vậy, vì sợ hao hụt tài sản, ông không nói với ai cả. Vợ ông đến, xoa lưng ông
và hỏi:
- Này
ông, cái gì làm ông không được thoải mái như vậy?
- Ta
không có việc gì cả.
- Hay
nhà vua nổi giận với ông?
- Vua
không nổi giận với ta.
- Hay
con trai, con gái, hoặc người nô tỳ làm công có gì khiến ông phật ý chăng?
- Không
có gì như vậy cả.
- Hay
ông có thèm khát vật gì?
Nghe
nói vậy, sợ hao hụt tài sản, ông nằm im lặng. Người vợ nói:
- Này
ông, hãy nói đi! Ông thèm khát vật gì?
Ông
nuốt nước miếng trả lời.
- Ta có
một thèm muốn.
- Thưa
ông, ông thèm muốn gì?
- Ta
muốn ăn bánh chiên trong chảo.
- Ý
muốn ấy có gì đâu mà ông không nói! Ông đâu có nghèo? Nay tôi sẽ làm bánh ngọt
chiên trong chảo đủ dọn cho toàn thể dân chúng ở thị trấn Sakkhara.
- Sao
lại cho chúng? Chúng cần phải làm để có ăn.
- Vậy
tôi sẽ làm đủ dọn cho những người ở cùng một đường.
- Ðâu
có được.
- Vậy
tôi làm bánh ngọt vừa đủ dọn cho tất cả những người ở trong nhà này.
- Sao
bà lại hoang phí như vậy?
- Vậy
tôi làm bánh ngọt vừa đủ để dọn cho con trai, con gái của ông ăn.
- Sao
lại đề cập đến chúng làm gì?
- Vậy
tôi làm bánh ngọt đủ để dọn cho ông và tôi ăn.
- Sao
bà lại có ở trong đó?
- Vậy
tôi làm bánh ngọt vừa đủ cho một mình ông ăn.
- Nói
khẽ chứ, tại chỗ này, có nhiều người chờ đợi bà nấu ăn. Hãy để dành các hột gạo
nguyên, chỉ lấy gạo tấm, cái lò và cái chảo, với một ít sữa, bơ chín, mật,
đường cục, đem lên sàn nhà lớn tầng lầu thứ bảy và chiên ở đấy. Tại đấy, ta sẽ
ngồi ăn một mình không bị ai quấy rầy.
- Ðược
lắm!
Người
vợ vâng lời, đem theo những đồ cần dùng, leo lên trên lầu, bảo các nô tỳ đi chỗ
khác, cho mời vị triệu phú lên. Người triệu phú, từ dưới leo lên, gài chốt tất
cả các cửa, sau cùng đến sàn lớn lầu thứ bảy. Tại đấy, ông đóng cửa lại và ngồi
xuống. Người vợ đốt lửa nhen lò, đặt chảo lên và bắt đầu chiên bánh.
Lúc ấy,
bậc Ðạo Sư, vào buổi sáng, bảo Trưởng lão Ðại Mục-kiền-liên:
Này
Mục-kiền-liên, có người triệu phú hà tiện ở tại thị trấn Sakkara, không xa
Vương Xá bao nhiêu, ông ta muốn ăn bánh chiên trong chảo, nhưng sợ các người
khác thấy, nên cho làm bánh trên tầng lầu bảy. Ông hãy đến đó, nhiếp phục triệu
phú ấy, khiến ông ta từ bỏ tất cả, rồi dùng thần lực của ông đem cả hai vợ
chồng và tất cả bánh, sữa, bơ chín, mật, và đường cục về Kỳ Viên. Hôm nay, Ta
cùng năm trăm Tỷ-kheo sẽ ngồi tại Kỳ Viên, và Ta làm cho Tăng chúng sẽ dùng bữa
với bánh ấy.
Trưởng
lão vâng theo lời bậc Ðạo Sư, lập tức với thần thông lực đi đến thị trấn ấy.
Trưởng lão đứng giữa hư không, trước cửa sổ căn lầu triệu phú, khéo vận y trong
và đắp y ngoài sáng rực như một bức tượng bằng châu báu. Vừa chợt thấy vị
Trưởng lão, tim vị đại triệu phú xúc động mạnh vì sợ hãi. Ông suy nghĩ:
"Ta đã sợ như vậy nên đến chỗ này, thế mà vị này cũng đến đứng trước cửa
sổ".
Không
thể hiểu được những gì ông cần phải hiểu, ông tức giận nói lắp bắp những lời
như muối và đường bỏ vào trong lửa:
- Này
Sa-môn, đứng giữa hư không như vậy, ông đâu có được gì? Dầu ông kinh hành cho
đến khi vạch được một con đường giữa hư không, ông cũng không được gì.
Trưởng
lão bèn đi kinh hành qua lại giữa hư không. Vị triệu phú nói:
- Ði
kinh hành như vậy, ông đâu có được gì? Dầu ngồi kiết-già giữa hư không, ông
cũng sẽ không được gì.
Trưởng
lão liền ngồi kiết-già giữa hư không. Triệu phú nói:
- Ngồi
vậy, ông đâu có được gì? Dầu ông có thể đến đứng ở bậc cửa, ông cũng không được
gì.
Trưởng
lão đến đứng trên bậc cửa. Vị triệu phú nói:
- Dầu
ông phun khói, ông cũng sẽ không được gì.
Trưởng
lão phun ra cho đến khi cả lâu đài tràn đầy khói. Mắt vị triệu phú bắt đầu cay,
đau như bị kim châm. Vì sợ nhà có thể bị cháy, ông không dám nói:
- Dầu
có đốt lửa, ông cũng sẽ không được gì.
Ông suy
nghĩ: "Sa-môn này thật là gan lì. Không được gì cũng không đi. Ta phải bảo
cho nó một cái bánh mà thôi".
Vì thế
ông liền nói với vợ:
- Này
bà, hãy chiên một cái bánh nhỏ xíu cho Sa-môn ấy, rồi tống nó đi.
Người
vợ lấy một ít bột, bỏ vào miệng chảo. Bột ấy phồng to lên trở thành cái bánh
thật lớn, đầy cả miệng chảo. Vị triệu phú thấy vậy, nghĩ rằng vì vợ mình lấy
nhiều bột nên nó thành như vậy. Ông tự mình lấy một ít bột trên đầu cái muỗng
và quăng vào trong chảo. Miếng bột nhỏ trở thành cái bánh to lớn hơn bánh
trước. Như vậy ông càng chiên bột bao nhiêu, bánh trở thành to bấy nhiêu. Vị
triệu phú nản chí nói với vợ:
- Này
bà, hãy cho người này một cái bánh.
Khi bà
lấy một cái bánh từ giỏ, tất cả bánh đều dính chùm với nhau. Người vợ nói với chồng:
- Này
ông, tất cả bánh dính liền với nhau, và tôi không thể tách rời chúng ra được.
- Ðể
tôi tách rời bánh cho.
Nhưng
vị triệu phú cũng không tách rời bánh được! Cả hai người cầm cả đống bánh, kéo
bánh ra, nhưng không thể tách rời bánh được. Trong khi cố gắng kéo bánh, mồ hôi
từ thân đổ ra và lòng thèm khát của ông chấm dứt. Ông liền nói với vợ:
- Này
bà, ta nay không còn cần bánh nữa! Hãy cho Tỷ-kheo này tất cả bánh trong giỏ!
Người
vợ lấy cái giỏ đi đến Trưởng lão. Rồi vị ấy thuyết pháp cho cả hai người, và
nói lên công đức tối cao của Ba ngôi báu. Rồi dạy rằng bố thí sẽ có kết quả, vị
ấy nêu rõ kết quả của bố thí và các thiện sự khác sáng ngời như mặt trăng trên
bầu trời. Nghe Trưởng lão, vị triệu phú khởi tâm tịnh tín, và nói:
- Thưa
Tôn giả, hãy đến đây. Hãy ngồi trên giường này và ăn bánh.
Trưởng
lão nói:
- Này
Ðại triệu phú, bậc Chánh Ðẳng Giác muốn ăn bánh, Ngài đang ngồi tại tinh xá với
năm trăm Tỷ-kheo. Nếu hai vị hoan hỷ, ông bà hãy đem bánh, sữa.... và chúng ta
cùng đi đến cúng dường bậc Ðạo Sư.
- Thưa
Tôn giả, bậc Ðạo Sư nay ở tại đâu?
- Này
Ðại Triệu phú, từ đây đến tinh xá Kỳ Viên khoảng bốn trăm dặm.
- Làm
sao chúng ta đi hết khoảng đường ấy mà không mất nhiều thì giờ?
- Này
Ðại triệu phú, nếu ông hoan hỷ, ta sẽ đưa ông bà đến đó với thần thông lực của
ta! Ðầu thang lâu đài của ông sẽ ở tại chỗ này, còn chân thang lầu sẽ đến tại
cửa tinh xá Kỳ Viên. Với cách này, ta sẽ đưa ông bà đến tinh xá Kỳ Viên bằng
thời gian đi từ đầu thang xuống chân thang lầu.
Vị
triệu phú bằng lòng chấp thuận. Vị trưởng lão giữ đầu thang lầu ở tại chỗ đó và
bảo:
- Chân
thang lầu hãy đến tại cổng chính Kỳ Viên.
Sự kiện
xảy ra đúng như vậy! Rồi trưởng lão đưa vị triệu phú và bà vợ bước từ đầu thang
lầu đến chân thang lầu rất nhanh vào Kỳ Viên.
Cả hai
vợ chồng đi đến yết kiến bậc Ðạo Sư và báo giờ cúng dường. Bậc Ðạo Sư đi vào
phòng ăn, ngồi trên Phật tọa đã soạn sẵn cùng với chúng Tỷ-kheo. Ðại triệu phú
đổ nước cúng dường trên tay đức Phật và Tăng chúng, trong khi bà vợ đặt bánh
trong bình bát của Như Lai. Bậc Ðạo Sư lấy bánh vừa đủ ăn, và năm trăm Tỷ-kheo
cũng lấy tương tợ như vậy.
Rồi vị
triệu phú đi quanh cúng dường sữa, bơ chín, mật, đường cục. Bậc Ðạo Sư cùng với
năm trăm Tỷ-kheo dùng xong, cuối cùng đại triệu phú cùng với vợ ăn cho đến thỏa
thích, tuy vậy, bánh cũng không hết. Cho đến khi tất cả Tỷ-kheo và các người ăn
mót đồ thừa khắp Kỳ Viên đã có đủ phần của mình, bánh cũng không thấy hết. Họ
báo lên Thế Tôn:
- Bạch
Thế Tôn, bánh vẫn không hết.
- Vậy
hãy quăng bỏ bánh tại một bên cổng lớn của Kỳ Viên.
Họ đem
quăng bánh xuống một cái hang không xa cổng lớn. Nay, chỗ ấy được biết với tên
là "Hang chứa Bánh chiên trong chảo".
Vị đại
triệu phú và vợ đi đến Thế Tôn rồi đứng một bên. Ngài nói lên lời tùy hỷ; cuối
lời tùy hỷ, cả hai vợ chồng đều chứng được quả Dự lưu. Rồi họ đảnh lễ bậc Ðạo
Sư, leo lên thang lầu ở cổng lớn, và đi về lâu đài của mình. Từ đấy về sau, vị
đại triệu phú cúng dường cho Giáo pháp đức Phật đến tám trăm triệu đồng tiền.
Ngày
sau, bậc Chánh Ðẳng Giác đi khất thực ở Xá-vệ, đi đến Kỳ Viên, nói lời khuyến
giáo của bậc Thiện Thệ cho các Tỷ-kheo xong, Ngài đi vào Hương phòng tĩnh tọa.
Vào buổi chiều, các Tỷ-kheo tụ họp tại Pháp đường, rồi nói lên lời tán thán
công đức của Trưởng lão đại Mục-kiền-liên:
- Này
các Hiền giả, hãy xem uy lực của Trưởng lão Ðại Mục-kiền-liên! Trưởng lão nhiếp
phục vị triệu phú hà tiện trong giây lát, khiến ông ta từ bỏ tất cả, đem theo
các thứ bánh, đưa ông bà đến Kỳ Viên, trước mặt bậc Ðạo Sư và an trú, họ vào
quả Dự lưu. Ôi, Trưởng lão thật có đại uy lực!
Bậc Ðạo
Sư đến Pháp đường và hỏi:
- Này
các Tỷ-kheo, các ông đang ngồi bàn vấn đề gì?
Khi
nghe vấn đề trên, bậc Ðạo Sư nói:
- Này
các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo muốn nhiếp phục một gia đình, không nên làm hại và áp
bức gia đình ấy. Giống như con ong, chỉ đến lấy nhụy hoa, không làm hại hoa.
Cũng vậy, vị Tỷ-kheo đi đến gia đình ấy để nói lên các công đức tối thắng của
đức Phật.
Rồi bậc
Ðạo Sư tán thán Trưởng lão:
Như ong đến với hoa,
Không hại sắc và hương,
Che chở hoa, lấy nhụy,
Cũng vậy, vị Sa-môn,
Bậc chánh đi vào làng
Không được áp bức ai. (Pháp cú 49)
Không hại sắc và hương,
Che chở hoa, lấy nhụy,
Cũng vậy, vị Sa-môn,
Bậc chánh đi vào làng
Không được áp bức ai. (Pháp cú 49)
Sau khi
nói lên câu kệ trong kinh Pháp cú, bậc Ðạo Sư nêu công đức vị Trưởng lão:
- Này
các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay vị triệu phú hà tiện được Mục-kiền-liên nhiếp
phục. Thuở trước, Trưởng lão đã nhiếp phục vị triệu phú và dạy ông ta biết sự
liên hệ giữa hành động và kết quả.
Nói
xong, bậc Ðạo sư kể câu chuyện quá khứ.
*
Thuở
xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, tại thành này, người triệu phú tên
là Illisa, giàu có đến tám trăm triệu đồng tiền, và có đủ mọi tật xấu của con
người. Ông què, còm lưng và lé mắt. Ông là người không có lòng tin, hà tiện
không bao giờ cho ai, không tự mình hưởng thọ; nhà ông giống như cái hồ bị quỷ
La-sát chiếm cứ. Tuy vậy, trải qua bảy đời trước, các tổ tiên của ông là những
người bố thí, những thí chủ rất hào phóng. Khi được địa vị triệu phú, ông phá
hoại truyền thống của gia đình, đốt cháy nhà bố thí, đánh đuổi các kẻ ăn xin,
và tích lũy tài sản.
Một
hôm đi chầu vua. khi trở về nhà mình, vị triệu phú thấy một người nông dân đi
đường mệt mỏi, cầm một bình rượu, ngồi trên ghế, rót đầy cốc rượu chua, nhắm
rượu với một miếng cá khô hôi thối. Thấy vậy, ông khởi lên lòng ham muốn uống
rượu nhưng lại nghĩ: "Nếu ta uống rượu, nhiều người sẽ muốn uống với ta.
Như vậy, tài sản ta sẽ hao mòn". Vì thế ông chế ngự cơn thèm khát, đi qua
đi lại; nhưng trong khi đi, không thể trấn áp thèm khát, ông trở thành vàng da
như bông lúa và các mạch máu nổi lên trên tấm thân ốm yếu của ông. Cuối cùng,
ông vào phòng, nằm co ro trên giường. Vợ ông đến, xoa lưng ông và hỏi:
-
Này ông, cái gì làm ông không được thoải mái vậy? (Chi tiết đều giống như
chuyện đã nói ở trên).
-
Vậy tôi nấu rượu vừa đủ cho một mình ông uống.
Khi
nghe nói vậy, người triệu phú nói:
-
Tại nhà này, nhiều người đang chờ đợi nấu rượu. Còn đem rượu từ quán về và ngồi
uống tại đây thì không thể được.
Người
triệu phú cho một đồng, bảo một người nô lệ đem một ghè rượu từ quán về và bảo
anh ta mang ghè rượu ấy đi theo ra khỏi thành phố, đến bờ sông, đi vào một lùm
cây gần con đường lớn, cho đặt ghè rượu xuống, rồi bảo người nô lệ đi ra ngồi ở
đàng xa. Ông rót rượu ra chén rồi bắt đầu uống.
Người
cha đời trước của ông do làm các công đức như bố thí... đã được sanh làm Thiên
chủ Ðế Thích. Ngay trong lúc ấy, ông cha muốn biết sự bố thí của mình có được
tiếp tục hay không, và được biết, đứa con trai không tiếp tục sự nghiệp của
mình đã chấm dứt truyền thống gia đình, đã đốt trường bố thí, đánh đuổi các
người ăn xin, tánh tình hà tiện, nay sợ phải có người khác uống rượu đã lén đi
vào lùm cây để uống một mình. Thấy vậy, Ðế Thích quyết định: "Ta sẽ làm
cho nó xúc động, ta sẽ giáo hóa nó, giúp nó biết sự liên hệ giữa hành động và
kết quả, làm cho nó biết bố thí, khiến nó trở thành nhân từ xứng đáng được sanh
ở cõi đời".
Thế
rồi Thiên chủ xuống cõi nhân thế, hóa hiện thành triệu phú Illisa, cũng què
chân, cũng còm lưng, cũng lé mắt không khác gì Illisa. Với hình thù như vậy, vị
ấy đi vào thành Vương Xá, đứng trước cửa hoàng cung, tự tin báo cho vua biết
mình tới. Khi được mời vào, vị ấy vào đảnh lễ vua và đứng hầu bên cạnh. Vua
hỏi:
-
Việc gì đưa Ðại triệu phú lại đây quá sớm như vậy?
-
Thưa Thiên tử, tôi đến đây để thưa rằng trong nhà tôi có tài sản đến tám trăm
triệu đồng tiền. Xin Thiên tử hãy truyền mang về đổ đầy ngân khố của mình.
-
Thôi vừa rồi, đại triệu phú! Trong cung của ta có nhiều tài sản hơn tài sản của
ông!
-
Thưa Thiên tử, nếu ngài không làm, tôi sẽ lấy tài sản ấy bố thí theo sở thích
của tôi.
-
Hãy bố thí, này Triệu phú.
-
Thưa vâng, Thiên tử.
Sau
khi đảnh lễ vua, đi ra, Ðế Thích (tức ông cha) hóa dạng đi về nhà triệu phú
Illisa. Tất cả người hầu cận tùy tùng đến vây quanh. Không một ai có thể biết
được đây không phải là Illisa. Ðế Thích vào nhà đứng ở ngưỡng cửa, cho gọi
người gác cửa và nói:
-
Nếu có một ai giống như ta đến đây tự xưng là chủ nhà này, hãy lấy gậy đuổi nó
đi.
Nói
xong, Ðế Thích bước lên lầu, ngồi trên bảo tọa hết sức lộng lẫy, và cho gọi vợ
triệu phú vào. Với một nụ cười, ông nói:
-
Này bà, chúng ta sẽ bố thí.
Nghe
nói như vậy, vợ triệu phú, con trai, con gái, các người nô tỳ làm công đều suy
nghĩ: "Ðã lâu lắm rồi, tâm chủ ta không nghĩ đến bố thí. Nay chắc là sau
khi uống rượu, choáng váng say ông mới sanh ra ý muốn bố thí".
Vì
vậy bà vợ triệu phú nói:
-
Thưa ông, hãy bố thí theo sở thích.
-
Vậy hãy cho gọi người đánh trống đến, bảo nó đi đánh trống khắp cả thành phố và
rao lên: Những ai cần vàng, bạc, châu báu, ngọc ngà v.v... hãy đi đến nhà triệu
phú Illisa.
Bà
vợ làm theo như lời dặn. Một đám đông người đem theo giỏ và bao... tụ tập tại
cửa nhà triệu phú. Ðế Thích cho mở toang các phòng đựng châu báu và nói:
-
Ta sẽ cho các ngươi. Hãy đến đây lấy như ý các ngươi muốn rồi ra đi.
Quần
chúng đem tài sản ra, chất thành đống giữa sàn nhà, đựng đầy các giỏ các chậu
mà họ mang đến và đem chúng đi. Một người nông dân khác cột những con bò của Illisa
vào cổ xe của vị triệu phú, chất đầy xe với bảy món báu, ra khỏi thành. Trong
khi đi trên con đường lớn, anh ta đánh xe đến gần lùm cây, và tán thán triệu
phú Illisa như sau:
-
Mong rằng chủ của tôi, triệu phú Illisa sống đến một trăm tuổi! Nhờ Illisa nay
ta không cần làm việc, có thể sống cho đến trọn đời! Xe này của Illisa, con bò
này của Illisa! Bảy món báu không phải mẹ ta cho. Chính do Illisa, chủ của ta
cho!
Anh
ta vừa đi vừa tán thán công đức của vị triệu phú. Người triệu phú (thật) nghe
vậy hoảng hốt, sợ hãi, nghĩ: "Sao người này nói đi nói lại tên ta trong
lời nói của nó? Hay vua đã đem tài sản của ta cho quần chúng rồi?".
Ông
liền nhảy ra khỏi lùm cây, nhận ra chiếc xe và con bò của mình, bèn nắm dây mũi
con bò, dắt đi và nói:
-
Ôi kẻ nô lệ kia, đây là con bò của ta, đây là cỗ xe của ta. Người nông dân
xuống xe nói:
-
Ôi! đồ khốn nạn ác độc, triệu phú Illisa bố thí cho toàn thành phố. Ngươi là ai
vậy?
Người
nông dân xông tới đánh Illisa ngã như chớp nhoáng, rồi lấy xe đi. Người triệu
phú đứng dậy, tức giận run lên, phủi bụi, chạy theo thật mau, nắm lấy chiếc xe.
Người nông dân lại xuống xe, nắm lấy tóc, bẻ quặp ông ta xuống, lấy cùi chỏ
đánh ông, nắm cổ quăng ông về hướng con đường ông đã đi tới, rồi bỏ đi. Khi
tỉnh rượu vì trận đòn thô bạo ấy, vị triệu phú run lên vì tức giận, đi mau về
tới cửa nhà, thấy người ta hì hục mang tài sản đi, ông nói:
-
Ôi! sao lạ vậy! Phải chăng vua cho người ăn cướp tài sản của ta?
Ông
đi đến nắm lấy người này, người kia, và những ai bị ông nắm liền đánh ông ngã gục
dưới chân. Bị đau đớn ê chề, ông đi vào nhà ẩn tránh. Người gác cửa thấy ông,
liền kêu:
-
Ôi, đồ gia chủ giả, mi đi vào đâu đó?
Trước
hết, người ấy lấy gậy tre đán ông, rồi nắm cổ lôi ông ra ngoài cửa. Người triệu
phú nghĩ: "Nay, ngoài vua ra, không có một ai làm chỗ nương tựa cho ta
được". Ông đi đến cung vua và thưa:
-
Thưa Thiên tử, có phải ngài chiếm đoạt nhà của tôi chăng? Này Triệu phú, ta
không chiếm đoạt! Có phải ông đã đến đây và nói: nếu ngài không lấy, thì tôi sẽ
đem bố thí tài sản của tôi? Có phải ông đã cho đánh trống khắp cả thành, rao
rằng ông sẽ bố thí?
-
Thưa Thiên tử, không phải tôi đến đây gặp ngài vì việc ấy. Ngài không biết tính
hà tiện của tôi sao? Tôi không cho ai cả, dù chỉ một giọt dầu lấy từ đầu ngọn
cỏ! Ai đã bố thí tài sản tôi, xin hãy cho gọi nó đến và xét hỏi nó, thưa Thiên
tử.
Vua
cho gọi Ðế Thích đến, sự sai biệt giữa hai người này, cả vua và các đại thần
đều không thể biết. Vị triệu phú hà tiện nói:
-
Thưa Thiên tử, người này đâu phải triệu phú. Tôi mới là triệu phú.
-
Chúng tôi không biết được ai là triệu phú thật! Ai có thể biết được họ chăng?
-
Thưa Thiên tử, vợ tôi.
Vua
cho gọi bà vợ đến và hỏi:
-
Người nào là chồng bà?
Bà
vợ nói:
-
Người này, và bà đứng lại gần Ðế Thích.
Vua
cho gọi các người con trai, con gái, các nô tỳ, các người làm công và hỏi. Tất
cả đều đứng gần Ðế Thích. Rồi vị triệu phú suy nghĩ: "Trên đầu ta có một
nốt ruồi được tóc che kín, chỉ có người thợ hớt tóc mới biết. Ta sẽ cho gọi nó
đến".
Ông
nói:
-
Thưa Thiên tử, người thợ hớt tóc nhận biết tôi. Hãy cho gọi nó đến.
Thời
ấy, Bồ-tát là người thợ hớt tóc của ông. Vua cho gọi Bồ-tát đến và hỏi:
-
Ngươi có biết triệu phú Illisa không?
Thưa
Thiên tử, nhìn vào đầu tôi sẽ nhận ra!
-
Vậy hãy nhìn lên hai cái đầu.
Trong
giờ phút ấy, Ðế Thích làm cho một nốt ruồi nổi lên trên đầu mình. Bồ-tát nhìn
lên hai cái đầu, thấy hai cái nốt ruồi, liền thưa:
-
Tâu Ðại Vương, cả hai cái đầu đều có nốt ruồi. Tôi không thể nhận biết giữa hai
người này ai thật sự là Illisa.
Sau
đó, Bồ-tát đọc bài kệ:
Cả hai què và còm,
Cả hai đều lé mắt,
Cả hai có nốt ruồi,
Ta không biết hai người,
Ai là Il-li-sa.
Cả hai đều lé mắt,
Cả hai có nốt ruồi,
Ta không biết hai người,
Ai là Il-li-sa.
Nghe
Bồ-tát nói như vậy, vị triệu phú run lập cập, và vì ưu sầu mất tài sản, ông
không thể chịu đựng được liền ngã xuống bất tỉnh. Lúc bấy giờ, Ðế Thích mới
nói:
-
Thưa Ðại Vương, ta không phải là Illisa, ta là Ðế Thích.
Rồi
ngài bay lên, đứng trên hư không, với tất cả uy lực siêu phàm. Người ta lau mặt
cho Illisa và rưới nước lên người ông. Illisa hồi tỉnh đứng dậy, đảnh lễ Thiên
chủ và đứng một bên. Ðế Thích nói:
-
Này Illisa, tài sản này là của ta, không phải của ngươi. Ta là cha ngươi. Ngươi
là con ta. Trọn đời ta nhờ làm các công đức như bố thí.v.v... nên được sanh là
Ðế Thích. Ngươi đã cắt đứt truyền thống của ta, không bố thí, không giữ giới,
an trú trên xan tham, đốt cháy trường bố thí, đánh đuổi những người ăn xin, lo
tích lũy tài sản. Ngươi không hưởng thọ tài sản ấy. Người khác cũng không được
hưởng. Tài sản ngươi đứng như cái hồ bị quỷ La-sát chiếm cứ ở đó, không ai có
thể uống cho đã khát. Ngươi nên làm lại trường bố thí của ta như cũ, bố thí như
vậy là tốt! Nếu ngươi không làm vậy, ta sẽ làm biến mất tất cả tài sản của
ngươi, đập nát đầu ngươi với chùy kim cương của Inda và chấm dứt mạng sống của
ngươi.
Triệu
phú Illisa hoảng hốt vì sợ bị chết, liền xin hứa:
-
Bắt đầu từ nay con sẽ bố thí.
Ðế
Thích nhận lời hứa, ngồi trên hư không thuyết pháp, an trú ông trong giới hạnh
và đi về xứ của mình. Còn Illisa sau đó chuyên tâm làm các công đức như bố
thí.v.v... và được sanh lên thiên giới.
*
Bậc Ðạo
Sư nói:
- Này
các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Mục-kiền-liên mới nhiếp phục vị triệu phú hà
tiện, mà thuở trước cũng đã nhiếp phục kẻ ấy rồi.
Sau khi
bậc Ðạo Sư kể pháp thoại, Ngài kết hợp hai câu chuyện và nhận diện Tiền thân:
- Thời
ấy, Illisa là triệu phú hà tiện, Thiên chủ Ðế Thích là Mục-kiền-liên, vua là
Ananda và người hớt tóc là Ta vậy.
-ooOoo-
79.
CHUYỆN TIẾNG TRỐNG ỒN ÀO (Tiền thân Kharasara)
Ăn cướp
giết bò xong...,
Câu
chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một vị đại thần. Nghe noùi, một
đại thần của vua Kosala được vua tin dùng, sau khi thâu thuế cho vua ở một làng
biên địa, đã đồng lõa với các tên cướp:
- Ta sẽ
đưa các người làng vào rừng. Sau khi đánh cướp làng, các ngươi hãy chia cho ta
một nửa.
Nói vậy
xong, vào tảng sáng, vị ấy tụ họp các người làng ấy lại, dẫn họ đi vào rừng.
Rồi các tên cướp đến ngôi làng không được bảo vệ ấy, giết trâu bò ăn thịt, cướp
bóc làng và bỏ đi. Ðến chiều vị ấy về làng với đám tùy tùng. Không bao lâu,
việc làm của vị ấy bị bại lộ và được trình báo với vua. Vua cho gọi vị ấy đến,
xác nhận tội của vị ấy, xử phạt vị ấy đúng theo luật nước, và sau đó cử một
người khác lên thay. Rồi vua đi đến Kỳ Viên báo cáo với Thế Tôn sự việc ấy. Thế
Tôn nói:
- Thưa
Ðại vương, không phải chỉ nay đạo đức vị ấy mới vậy. Trước kia vị ấy đã như vậy
rồi.
Nói vậy
xong, Thế Tôn kể câu chuyện quá khứ.
*
Thuở
xưa, khi vua Brahamadatta trị vì Ba-la-nại, vua cử một ông quan làm trưởng một
làng ở biên địa. (Sự việc xảy ra như câu chuyện trước). Khi ấy, Bồ-tát là một
thương nhân đang đi qua lại tại vùng biên địa, và sống trong ngôi làng ấy. Khi
người thôn trưởng ấy trở về với một số tùy tùng đông đảo, vừa đi về vừa đánh
trống. Bồ-tát nói:
-
Người thôn trưởng ác độc này đã đồng lõa với bọn cướp để cướp làng; và đợi đến
khi bọn cướp đã chạy trốn trong rừng, nó lại trở về làng, vừa đi vừa đánh
trống.
Rồi
Bồ-tát đọc bài kệ:
Ăn cướp giết bò xong,
Nhà đốt, người bị bắt,
Nó về với tiếng trống,
Tiếng trống vang khó chịu.
Nhà đốt, người bị bắt,
Nó về với tiếng trống,
Tiếng trống vang khó chịu.
Như
vậy, Bồ-tát đọc bài kệ này chỉ trích người thôn trưởng. Không bao lâu, việc làm
của kẻ ấy bị bại lộ. Và nhà vua phạt kẻ ấy theo luật nước.
*
Bậc Ðạo
Sư nói:
- Thưa
Ðại Vương, không phải chỉ nay đạo đức của kẻ ấy như vậy. Thuở trước, đạo đức
của kẻ ấy cũng như vậy rồi.
Sau khi
bậc Ðạo Sư kể pháp loại này, Ngài kết hợp các câu chuyện và nhận diện Tiền thân
như sau:
- Thời
ấy, vị đại thần là vị đại thần hiện nay, và người hiền trí đọc bài kệ là Ta
vậy.
-ooOoo-
80.
CHUYỆN NGƯỜI THỢ DỆT BHIMASENA (Tiền thân Bhimasena)
Trước
ngươi nói khoác lác...,
Câu
chuyện này khi ở tại Kỳ viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một Tỷ-kheo nói khoác lác.
Tương truyền có Tỷ-kheo thường tụ họp một số Tỷ-kheo lại và nói như sau:
- Này
các Hiền giả, không có một thiện sanh nào bằng thiện sanh chúng tôi. Không có
một dòng họ nào bằng dòng họ chúng tôi. Tôi được sanh trong đại gia đình vương
tộc như vậy. Không có ai sánh bằng chúng tôi theo dòng họ tổ tiên. Không làm
sao kể cho cùng tận vàng, bạc v.v... của chúng tôi. Các nô tỳ và người làm công
của chúng tôi chỉ ăn cơm gạo thơm và thịt. Chúng mặc áo bằng vải Kàsi. Chúng
bôi son phấn Kàsi. Riêng tôi, vì là người xuất gia, nên phải ăn những món ăn
hèn mạt như vậy, phải mặc những thứ vải thô xấu như vậy.
Kẻ ấy
thường đại ngôn như vậy, giữa các Tỷ-kheo trưởng lão, trung niên, tân học,
khoác lác lừa dối mọi người về thọ sanh v.v... Nhưng một Tỷ-kheo khác, sau khi
điều tra gia cảnh của Tỷ-kheo ấy, nói cho các Tỷ-kheo về sự đại ngôn của kẻ ấy.
Các Tỷ-kheo hội họp trong Chánh pháp đường, nói về việc đại ngôn của Tỷ-kheo ấy
như sau:
- Thưa
các Hiền giả, Tỷ-kheo này, sau khi xuất gia trong Giáo pháp đưa đến giải thoát,
đã nói lời khoác lát và lừa dối. Bậc Ðạo Sư đến và hỏi:
- Này
các Tỷ-kheo, các ông ngồi họp ở đây bàn về vấn đề gì? Khi nghe vấn đề nêu trên,
bậc Ðạo Sư nói:
- Này
các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Tỷ-kheo ấy nói lời khoác lác, mà thuở trước
cũng đã nói lời khoác lác và lừa dối rồi. Nói xong bậc Ðạo Sư kể lại câu chuyện
quá khứ.
*
Thuở
xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình
Bà-la-môn phương Bắc, tại một làng của thị trấn. Khi đến tuổi trưởng thành,
Bồ-tát học ba tập Vệ-đà và mười tám nghề với một giáo sư trứ danh ở Takkasilà.
Sau khi đạt được sự thuần thục trong tất cả học thuật, Bồ-tát được gọi là nhà
Hiền trí Tiểu xạ thủ (Culla-Dhanuggaha-Pandita).
Rời
bỏ Takkasilà, Bồ-tát đi đến nước Andhra để tìm kinh nghiệm hành nghề trong tất
cả mọi thời. Trong Tiền thân này, Bồ-tát là một người lùn, nhỏ bé và hơi còm.
Bồ-tát suy nghĩ: "Nếu ta đi đến một nhà vua nào, vua ấy sẽ nói: Với một
thân hình lùn như ngươi, chúng ta sẽ làm gì? Vậy ta hãy tìm một người đàn ông
đẹp trai, cao và to lớn, làm cái gốc, núp sau lưng của nó, để nuôi sống
ta". Nghĩ rồi, Bồ-tát đi tìm một người như vậy. Ði đến khu thợ dệt, thấy
một người thợ dệt to lớn tên là Bhimasen (Lãnh tụ đạo quân khủng khiếp). Sau
khi thân mật chào đón, Bồ-tát hỏi kẻ ấy:
-
Này bạn, bạn tên gì?
-
Tôi tên là Bhimasena
-
Sao anh đẹp trai, đầy đủ sanh y, lại làm nghề hèn hạ này?
-
Vì không có nghề nào khác có thể kiếm sống.
-
Này bạn, chớ làm nghề này nữa, không có người nào bắn cung giỏi như ta trong
khắp xứ Diêm-phù-đề. Nếu bạn cùng ta đi đến nhà vua nào, khi vua ấy lắc đầu nói
với ta: Một người lùn như vậy, chúng tôi sẽ làm gì được?, thì bạn hãy nói: Tôi
biết bắn cung! Nhà vua sẽ trả tiền lương cho bạn và luôn luôn dùng bạn trong
nghề của bạn. Ta sẽ làm việc thế chỗ bạn và ta sẽ sống núp bóng sau lưng của
bạn.
Người
thợ dệt chấp thuận. Rồi Bồ-tát đưa kẻ ấy đi Ba-la-nại, tự mình xử sự như người
nhỏ bé hầu cung, đặt kẻ ấy đi trước, và khi đến cửa hoàng cung, họ báo tin cho
vua biết. Khi được mời đi yết kiến vua, cả hai đều vào, đảnh lễ vua và đứng
thẳng. Vua hỏi:
-
Lý do gì các ngươi đến đây?
Bhimasena
trả lời:
-
Tôi là người bắn cung tài giỏi. Toàn cõi Diêm-phù-đề, không có người nào bắn
cung như tôi.
-
Ðể làm việc cho ta, ngươi lấy bao nhiêu?
-
Thưa Thiên tử, nửa tháng tôi sẽ lấy một ngàn.
-
Còn người này đi với ngươi là ai vậy?
-
Thưa Thiên tử, đó là đứa bé hầu cung.
-
Tốt lắm, hãy bắt đầu phục vụ ta.
Từ
đó trở đi, Bhimasena và Bồ-tát phục vụ nhà vua, nhưng bao giờ mọi công việc
khởi lên đều do Bồ-tát làm cả. Lúc bấy giờ, trong nước Kàsi, tại một khu rừng,
có một con cọp chận đường nhiều người qua lại và bắt họ ăn thịt. Dân chúng báo
cho vua biết tin ấy. Vua cho gọi Bhimasena và nói:
-
Này khanh, khanh có thể bắt cọp được không?
-
Thưa Thiên tử, tôi được gọi là người bắn cung, sao tôi không thể bắt cọp được?
Vua
trả tiền công cho kẻ ấy và tiễn kẻ ấy đi. Anh ta về nhà nói cho Bồ-tát biết.
Bồ-tát nói:
-
Tốt lắm, bạn hãy đi.
-
Nhưng bạn không đi sao?
-
Phải, tôi sẽ không đi. Nhưng tôi sẽ nói cho bạn một phương kế.
-
Hãy nói lên bạn.
-
Một mình bạn, bạn chớ đi gấp đến chỗ ở của cọp. Hãy tụ họp các thôn dân lại,
đem theo một ngàn hay hai ngàn cây cung, và đi đến ấy. Khi biết con cọp đã dậy,
bạn liền đi trốn, chui vào một lùm cây, nằm sát xuống. Các thôn dân sẽ bắn con
cọp cho đến chết. Khi con cọp đã chết, bạn sẽ lấy răng cắn đứt một dây leo, nắm
lấy đầu dây leo ấy, bạn đi đến gần con cọp chết, và nói: - Này các ngươi, ai đã
giết con cọp này! Ta định cột con cọp này với dây leo như một con bò và dắt nó
về nhà vua. Vì cần có dây leo, ta đã đi vào lùm cây. Trước khi ta đem được dây
leo về, ai đ~ giết con cọp? Hãy nói lên. Các thôn dân sẽ hoảng hốt, run sợ, và
hối lộ bạn nhiều tiền để yêu cầu bạn đừng báo cho vua biết. Người ta sẽ tưởng
con cọp do bạn giết được và bạn sẽ được nhà vua cho nhiều tiền.
Kẻ
ấy chấp thuận, ra đi sắp đặt việc giết con cọp đúng theo phương thức Bồ-tát
dặn, làm cho khu rừng được yên ổn, rồi trở về Ba-la-nại với đại chúng vây
quanh, đi đến gặp vua và thưa:
-
Thưa Thiên tử, tôi đã giết được con cọp, đã làm cho khu rừng được yên ổn.
Nhà
vua rất bằng lòng, cho kẻ ấy rất nhiều tiền.
Lại
một hôm, người ta báo cho vua biết có một con trâu chặn đường phá hại. Ngay tức
khắc, vua cho gọi Bhimasena. Làm theo cách thức của Bồ-tát, kẻ ấy giết được con
trâu như đã giết con cọp và đi trở về. Vua lại cho kẻ ấy nhiều tiền. Anh ta trở
thành có quyền hành lớn. Say mê quyền thế, anh ta khinh thường Bồ-tát, không
chấp thuận ý kiến của Bồ-tát nữa. Anh ta nói:
-
Ta sống đâu có cần ngươi? Ngươi tưởng ngươi là kẻ nào vậy?
Anh
ta nói nhiều lời ác độc thô lỗ như vậy.
Sau
một vài ngày, một vị vua thù địch đi đến, bao vây Ba-la-nại và đưa tối hậu thư
cho vua: Hoặc là giao thành, hoặc là đánh. Vua sai Bhimasena ra giao chiến.
Kẻ
ấy mặc đồ lính trận, mang áo giáp đầy mình, ngồi trên lưng con voi cũng khéo
mang áo giáp. Bồ-tát sợ Bhimasena bị giết, cũng nai nịt áo giáp đầy đủ ngồi nép
mình sau lưng Bhimasena. Con voi với đại chúng vây quanh, đi ra khỏi cửa thành,
đến đầu bãi chiến trường. Bhimasena nghe tiếng trống trận, bắt đầu run sợ.
Bồ-tát nói:
-
Nay nếu bạn rơi từ trên lưng con voi xuống, bạn sẽ chết. Bồ-tát lấy một sợi dây
cột Bhimasena lại cho khỏi rơi từ lưng voi và nắm chặt lấy dây. Nhưng khi thấy
bãi chiến trường, Bhimasena quá run rẩy, sợ chết, đã đi đại tiện trên lưng voi.
Bồ-tát nói:
-
Bhimasena trước kia không phù hợp với Bhimasena hiện tại. Trước ngươi tự cho là
chiến sĩ đánh trận. Nay ngươi chỉ có tài đại tiện trên lưng voi.
Nói
xong, Bồ-tát đọc bài kệ này:
Trước ngươi nói khoác lác,
Nay ngươi chảy nước hôi,
Hai Bhi-ma-se-na
Ðâu có phù hợp nhau
Ðây là lời quyết chiến
Và đây ngươi thảm bại.
Nay ngươi chảy nước hôi,
Hai Bhi-ma-se-na
Ðâu có phù hợp nhau
Ðây là lời quyết chiến
Và đây ngươi thảm bại.
Như
vậy, Bồ-tát chỉ trích kẻ ấy và nói:
-
Này bạn, chớ sợ hãi! Ta đứng đây sao lại để bạn thảm bại?
Bồ-tát
đỡ Bhimasena xuống lưng voi, bảo nó rửa ráy rồi về nhà. Bồ-tát nói:
-
Hôm nay, ta sẽ giành được danh xưng!
Bồ-tát
xông vào chiến trận, hét lớn tiếng, đánh tan đội quân, tóm cổ ông vua thù địch
và giải về cho vua Ba-la-nại. Vua rất bằng lòng, thưởng cho Bồ-tát danh vọng
lớn. Từ đấy về sau, bậc hiền triết Culladhanuggaha được biết tiếng khắp nước Diêm-phù-đề.
Vua cho Bhimasena tiền công, và đưa kẻ ấy về trú xứ cũ. Còn vua trọn đời làm
các công đức như bố thí v.v... và đi theo nghiệp của mình khi mệnh chung.
*
Bậc Ðạo
Sư nói:
- Này
các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Tỷ-kheo này mới nói khoác lác, mà xưa kia, cũng
đã như vậy rồi !
Bậc Ðạo
Sư nói pháp thoại xong, kết hợp các câu chuyện và nhận diện toàn thân:
- Lúc
ấy Bhimasena là Tỷ-kheo nói khoác, còn vị Hiền trí tiểu xạ thủ
Culla-Dhanuggaha-Pandita là Ta vậy.
-ooOoo-
0 Komentar