1.
CHUYỆN PHÁP TỐI THƯỢNG (Tiền thân Apannaka)
Có
những người nói lên...
Ðức Thế
Tôn, khi ở Tinh xá Kỳ Viên, gần Xá-vệ, đã thuyết pháp thoại này. Vì
ai, pháp thoại nàyđược đề cập? Vì năm trăm người bạn của vị triệu phú Cấp Cô Ðộc
(Anàthapindika) đều là đệ tử ngoại đạo.
Một
ngày kia, vị triệu phú Cấp Cô Ðộc đem năm trăm người bạn của mình đều là đệ tử ngoạiđạo, cho mang theo
nhiều vòng hoa, hương thơm, dầu hương cùng dầu thắp, mật ong, mật mía, vải và
áo choàng, đi đến Kỳ Viên đảnh lễ Thế Tôn, cúng dường Ngài các vật liệu như
vòng hoa v.v... và phân phát cho chư Tăng dược phẩm trị bịnh và vải mặc. Làm
xong việc ấy, ông ngồi xuống một bên và tránh sáu tật xấu trong lúc ngồi.
Cũng
vậy, các đệ tử ngoại đạo đảnh lễ Thế Tôn, và ngồi xuống một bên gần ông
Cấp Cô Ðộc, nhìn lên gương mặt đức Bổn Sư chói sáng như trăng rằm, vẹn toàn các
tướng tốt chính và phụ, nhìn lên Phạm thân tỏa ánh sáng rộng một tầm và nhìn
lên hào quang rực rỡ của đức Phật, những hào quang phóng ra như thể từng đôi vòng, từng cặp một.
Rồi
giống con sư tử trẻ rống như sấm động ở thung lũng Ðỏ, như mây bão tố trong mùa
mưa, như sông Hằng thiên giới (dải Thiên Hà) ào ào đổ xuống, và như đan dệt một chuỗi châu báu, tuy
vậy, với một Phạm âm đầy đủ tám phần tuyệt hảo, kỳ diệu làm tai thích thú, Ngài thuyết
pháp cho họ, một pháp thoại dịu ngọt và chói sáng với nhiều vẻ đẹp khác nhau.
Họ nghe
bậc Ðạo Sư thuyết pháp, tâm được tịnh tín, liền đứng dậy đảnh lễ bậc Ðạo Sư, phá vỡ pháp
quy y ngoại đạo, rồi quy y Phật. Từ đấy, họ luôn luôn đi đến tinh xá với ông Cấp Cô Ðộc,
tay cầm hương thơm, vòng hoa v.v... nghe pháp, bố thí, trì giới và thọ Bát quan
trai giới.
Rồi Thế
Tôn từ Xá-vệ lại đi đến Vương Xá. Trong thời gian Như Lai đi vắng, họ phá vỡ pháp quy y
Phật. Rồi họ lại quy y ngoại đạo, trở lui nguyên trạng của họ.
Sau bảy
tám tháng, Thế Tôn về lại Kỳ Viên. Ông Cấp Cô Ðộc đem năm trăm người bạn đồng tu điđến yết kiến bậc Ðạo Sư, cúng
dường Ngài với hương thơm v.v... đảnh lễ rồi ngồi xuống một bên. Ông Cấp Cô Ðộc
báo cáo cho Thế Tôn biết sau khi Ngài ra đi, họ phá vỡ pháp quy y đã thọ, chấp nhận lại quy y
pháp ngoại đạo, trở lui nguyên trạng của họ.
Mở
miệng hoa sen của Ngài, như mở hộp châu báu, đầy những hương thơm sai biệt,
thơm với hương thơm chư Thiên, do uy lực nói lời chơn thực, trải vô lượng ức
kiếp không gián đoạn, Thế Tôn phát ra âm thanh dịu ngọt và hỏi:
- Này
các nam cư sĩ, có thật chăng các ông đã phá vỡ Tam quy y, và đi theo quy y ngoại đạo?
Và khi
không thể che giấu, họ thú nhận:
- Thật
vậy, bạch Thế Tôn.
Bậc Ðạo
Sư nói:
- Này
các cư sĩ, không có một chỗ nào dưới từ đáy địa ngục, trên cho đến chư Thiên, không có một chỗ
nào trong các thế giới vô lượng trải rộng bề ngang, không có ai bằng, chớ đừng nói cao hơn đức Phật về những công đức như giữ giới v.v...
Rồi
Ngài trình bày cho họ những công đức của Ba ngôi báu, như đã được nói đến trong kinhđiển:
- Này
các Tỳ-kheo, giữa các chúng sanh không chân, hai chân, hay bốn chân, Như Lai được gọi là tối thượng. Nếu có
những tài sản nào ở đời này hay đời sau... Và thật vậy, tối thượng giữa những tín đồ...
Rồi Ngài
nói tiếp:
- Không
có một cư sĩ nào, nam hay nữ đã quy y Ba ngôi báu, những ngôi báu đầy đủ công đức tối thượng như vậy, phải
tái sanh trong các địa ngục v.v... nhưng họ được thoát khỏi sanh vào đọa xứ, họ được sanh vào thế giới chư
Thiên và đắc Thiền chứng lớn. Do đó, khi các ông phá vỡ quy y
như vậy, và đi đến quy y ngoại đạo, các ông đã làm một việc sai lạc.
Và ở đây, để nêu rõ rằng không có ai đã quy y Ba ngôi báu với sự
giải thoát tối thượng, lại phải sanh vào đọa xứ, những đoạn kinh này phải được nói lên:
Những ai quy y Phật
Sẽ không đi đọa xứ,
Từ bỏ thân làm người
Sẽ tràn đầy thiên giới.
Sẽ không đi đọa xứ,
Từ bỏ thân làm người
Sẽ tràn đầy thiên giới.
Những ai quy y Pháp
Sẽ không đi đọa xứ,
Từ bỏ thân làm người
Sẽ tràn đầy thiên giới.
Sẽ không đi đọa xứ,
Từ bỏ thân làm người
Sẽ tràn đầy thiên giới.
Những ai quy y Tăng
Sẽ không đi đọa xứ,
Từ bỏ thân làm người
Sẽ tràn đầy thiên giới.
Sẽ không đi đọa xứ,
Từ bỏ thân làm người
Sẽ tràn đầy thiên giới.
Loài Người sợ hoảng hốt,
Tìm nhiều chỗ quy y,
Hoặc rừng rậm, núi non,
Hoặc vườn cây, đền tháp,
Quy y ấy không ổn,
Không quy y tối thượng,
Quy y các chỗ ấy
Không thoát mọi khổ đau.
Tìm nhiều chỗ quy y,
Hoặc rừng rậm, núi non,
Hoặc vườn cây, đền tháp,
Quy y ấy không ổn,
Không quy y tối thượng,
Quy y các chỗ ấy
Không thoát mọi khổ đau.
Ai quy y đức Phật,
Chánh Pháp và chư Tăng,
Ai dùng chánh tri kiến
Thấy được Bốn sự thật,
Thấy Khổ và Khổ tập,
Thấy sự khổ vượt qua,
Thấy đường Thánh tám ngành
Ðưa đến khổ não tận.
Thật quy y an ổn,
Thật quy y tối thượng,
Có quy y như vậy
Mới thoát mọi khổ đau.
Chánh Pháp và chư Tăng,
Ai dùng chánh tri kiến
Thấy được Bốn sự thật,
Thấy Khổ và Khổ tập,
Thấy sự khổ vượt qua,
Thấy đường Thánh tám ngành
Ðưa đến khổ não tận.
Thật quy y an ổn,
Thật quy y tối thượng,
Có quy y như vậy
Mới thoát mọi khổ đau.
Bậc Ðạo
Sư không chỉ thuyết pháp cho họ như vậy, Ngài còn nói tiếp:
- Này
các nam cư sĩ, pháp hành niệm Phật, pháp hành niệm Pháp, pháp hành niệm Tăng đem lại Dự lưu đạo, Dự lưu quả, Nhất lai đạo, Nhất lai quả, Bất lai đạo, Bất lai quả, A-la-hán đạo, A-la-hán quả.
Và sau
khi Ngài thuyết pháp cho họ với nhiều phương thức, Ngài nói:
- Với
sự phá vỡ quy y như vậy, các ông đã làm một việc sai lạc.
Và ở đây, sự đem lại các Dự lưu đạo, Dự lưu quả v.v... cho
những ai hành trì niệm Phật v.v... cần phải được nêu rõ với những đoạn kinh như sau:
- Này
các Tỷ-kheo, có một pháp, nếu được tu tập, và được làm cho viên mãn, đưa đến hoàn toàn yểm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí,
Giác ngộ, Niết-bàn. Thế nào là một Pháp? Chính là niệm Phật v.v... Như vậy, Thế
Tôn với các phương tiện khác nhau, thuyết giảng cho các nam cư sĩ:
- Này
các nam cư sĩ, cũng vậy, trong thời quá khứ, những ai chấp chặt tà luận, chấp
chặt điênđảo luận, nghĩ rằng cái gì không phải là chỗ quy y, lại
xem là chỗ quy y chân thật, những người ấy sẽ bị quỷ Dạ-xoa ăn thịt trong cảnh sa mạc, chỗ
trú của phi nhân, và bị lâm vào đại nạn. Còn những ai chấp chặt sự thật vô hý
luận, chấp chặt pháp tối thượng, chấp chặt pháp không điênđảo, thì trong cảnh sa mạc
ấy, họ đạt được yên ổn, an toàn.
Khi nói đến đây, Ngài im lặng. Rồi gia chủ
Cấp Cô Ðộc từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, tán thán Ngài với hai tay đặt trên đầu và thưa như sau:
- Bạch
Thế Tôn, nay thật rõ ràng cho chúng con thấy trong thời hiện tại, những người
nam cư sĩ ấy, sau khi phá vỡ pháp quy y tối thượng, đã rơi vào rừng rậm tà luận.
Nhưng trong quá khứ, đại nạn của những ai chấp chặt tà luận tại sa mạc, chỗ trú
của phi nhân, và sự yên ổn an toàn của những người chấp chặt pháp vô hý luận, đối với chúng con đang bị che lấp, chỉ rõ ràng đối với Ngài. Lành thay, nếu
Thế Tôn, như thể khiến mặt trăng tròn mọc lên, làm sáng tỏ sự kiện này cho
chúng con.
Rồi Thế
Tôn nói:
- Này
gia chủ, chính vì mục đích loại bỏ các nghi nan ở đời, nhờ sự thực hành trọn vẹn
mười hành Ba-la-mật trải vô lượng kiếp mà Ta chứng đắc Nhất thiết trí. Hãy cẩn
thận lắng tai nghe, như thể các ông đang đổ tủy của sư tử vào một cái ống bằng vàng!
Sau khi
khích lệ sự chú ý của người trieäu phú, Ngài nói lên câu chuyện đã bị tái sanh che lấp, như mặt
trăng tròn được giải tỏa, sau khi phá tan đám mây tuyết.
*
Thuở
xưa, trong nước Kàsi, tại thành Ba-la-nại, có vị vua tên là Brahmadatta. Khi
ấy, Bồ-tát được sanh trong gia đình thương gia làm chủ đoàn lữ hành, và tiếp tục lớn lên, đi chỗ này chỗ kia buôn bán với năm trăm cỗ xe,
khi thì đi từ đông qua tây, khi thì đi từ tây qua đông. Tại thành Ba-la-nại, có một người chủ đoàn lữ hành khác còn trẻ và ngu si, không giỏi
tùy cơ ứng biến.
Lúc
bấy giờ, sau khi chất đầy năm trăm cỗ xe với
hàng hóa có giá trị lớn, Bồ-tát sẵn sàng lênđường. Người chủ đoàn lữ hành trẻ và ngu kia cũng chất đầy hàng hóa tương tự trên năm trăm cỗ xe khác,
sẵn sàng lên đường. Bồ-tát suy nghĩ:
"Nếu người chủ đoàn lữ hành ngu si và
trẻ này đi với Ta, với một ngàn
cỗ xe, cùng đi một lần trên con đường, thì con đường sẽ không thể chịu nổi; thật sẽ khó tìm được củi, nước cho đoàn người, và cỏ cho các con bò. Hoặc là nó,
hoặc là ta phảiđi trước".
Ngài
nhắn tin mời người ấy đến, trình bày sự việc
và nói:
-
Hai chúng ta không thể đi cùng một lần được. Vậy bạn sẽ đi trước hay đi sau?
Kẻ
ấy suy nghĩ: "Nếu ta đi trước, sẽ có nhiều
lợi ích. Ta sẽ đi con đường chưa bị hư phá, các con bò sẽ ăn cỏ chưa bị động chạm; còn các người nhà ta sẽ hái được các ngọn lá nấu cà-ri chưa bịđộng chạm,
nước được trong lặng; và sau cùng định giá bán theo sở thích, ta sẽ bán các hàng
hóa".
Nghĩ
vậy, kẻ ấy nói:
-
Này bạn, tôi sẽ đi trước.
Còn
Bồ-tát thấy đi sau có nhiều lợi ích
vì ngài lý luận như vầy: "Những người đi trước sẽ san bằng con đường chưa được san bằng. Ta sẽ đi con đường đã được họ đi qua. Các con bò của ta sẽăn cỏ mới mọc và ngọt; người của ta sẽ
tìm được các lá ngọt nấu cà-ri mới mọc tại chỗ các
lá đãđược hái đi. Tại chỗ không có nước, họ phải đào để lấy nước, chúng ta sẽ
uống nước trong các giếng được người khác đào lên. Việc định giá giống như sát hại mạng sống con người, ta đi sau sẽ bán hàng hóa theo giá thông thường đã quy định". Khi thấy những lợi ích như vậy, Bồ-tát nói:
-
Này bạn, bạn hãy đi trước.
-
Lành thay, này bạn.
Người
chủ đoàn lữ hành trẻ và ngu si nói vậy rồi cho thắng
các cỗ xe, ra đi, thứ lớp vượt qua các
thôn xóm, và bắt đầu đến biên giới sa mạc. Thuở bấy giờ, các sa mạc
có năm loại: sa mạc trộm cướp, sa mạc thú dữ, sa mạc không có nước, sa mạc phi
nhân và sa mạc không có đồ ăn.
Trước
tiên, con đường nào có trộm cướp
trú ẩn, chỗ ấy được gọi là sa mạc trộm
cướp; thứ hai, conđường nào có sư tử v.v... trú ẩn, được gọi là sa mạc thú dữ; thứ ba, chỗ nào không
có nước để tắm hay uống, được gọi là sa mạc không có nước; thứ tư, con đường nào có các loài phi nhân (quỷ thần) trú
ẩn, được gọi là sa mạc phi nhân; thứ năm, con đường nào không tìm thấy các loài rễ có thể ăn được v.v... được gọi là sa mạc không
có đồ ăn.
Trong
năm loại sa mạc này, có hai loại sa mạc nguy hiểm là sa mạc không có nước và sa
mạc phi nhân. Do vậy, người chủ đoàn lữ hành trẻ và ngu
si ấy cho đặt lên xe những ghè rất
lớn, đổ đầy nước, và bắt đầu di chuyển vào bãi sa
mạc dài sáu mươi dặm này.
Khi
họ đã đi được nửa đường, con quỷ Dạ-xoa trú ở sa mạc nghĩ:
"Ta sẽ làm cho những người này quăng nước cất giữ, làm cho họ yếu sức, rồi
ta sẽ ăn thịt tất cả bọn họ". Rồi nó hóa hiện một
cỗ xe đẹp đẽ với những con bò mộng
trắng trẻo. Ðược hộ vệ với mười mười hai phi nhân, tay cầm cung, tên, khiêng và
binh khí, nó trang sức với vòng hoa sen xanh và hoa súng trắng trên đầu, với tóc ướt và áo ướt, ngồi trên cỗ xe ấy
như một vị chúa tể, nó dấn bước trên đường với các bánh xe dính bùn. Còn đoàn tùy tùng đi trước và đi sau, với tóc ướt, áo
ướt, trang sức với vòng hoa sen xanh và hoa súng, với những bó sen trắng, sen đỏ cầm tay, nhai những cọng sen, củ sen, nhỏ giọt nước và bùn.
Bấy
giờ, khi gió thổi trước mặt, những người chủ đoàn lữ hành, theo lệ thường ngồi trong cỗ xe đi trước với những người hầu hạ bao vây để tránh bụi. Khi gió thổi đàng sau, họ đi xe phía sau. Nay gió
thổi phía trước, do vậy, người chủ đoàn lữ hành trẻ đi xe ở phía trước. Con
quỷ Dạ-xoa thấy người ấy đến gần, liền cho đậu xe ở một bên đường, chào đón một cách thân tình và hỏi đi đâu. Người chủ đoàn lữ hành cũng cho đậu xe của mình một bên đường và nói với quỷ Dạ-xoa:
-
Thưa ông bạn, chúng tôi đi từ Ba-na-lại tới. Các
ông trang sức với hoa sen xanh và hoa súng, tay cầm hoa sen trắng và đỏ, đang nhai những cọng sen và củ sen, lấm bùn vừa đi vừa chảy những giọt nước. Vậy phải trên đường các ông đi có mưa, có những hồ ao phủ đầy với hoa sen xanh chăng? v.v..
Quỷ
Dạ-xoa, nghe hỏi, liền nói lớn:
-
Này bạn, bạn nói gì vậy? Ðàng kia đã hiện rõ đường lằn sẩm của rừng
xanh. Từ đó trở đi, toàn là rừng không có gì ngoài nước. Luôn luôn trời mưa, ở đó các hồ đều ngập; khắp nơi đều có những ao nước đầy hoa sen.
Sau
khi nói như vậy và đoàn xe đã đi ngang qua, nó hỏi:
-
Những cỗ xe này đi đâu vậy?
Và
họ trả lời:
-
Ði tới chỗ này, chỗ kia.
-
Trong mỗi cỗ xe này, có hàng hóa gì vậy?
-
Nhiều loại hàng hóa.
Rồi
khi cỗ xe cuối cùng đi qua, chở rất nặng nề,
nó hỏi:
-
Trong cỗ xe này chơû gì vậy?
-
Chở nước trong ấy.
-
Từ chỗ khởi hành cho đến chỗ này, bạn đã mang nước là tốt. Nhưng từ chỗ này trở đi, không cần phải mang nước nữa. Từ phía trước
mặt có nhiều nước. Hãy đập vỡ các ghè nước, để đi cho thoải mái.
Và
nó nói thêm:
-
Các ông hãy đi. Chúng tôi lên đường kẻo chậm trễ rồi!
Rồi
nó đi một lát, đến chỗ khuất dạng, liền trở về thành Dạ-xoa. Người chủ lữ hành
ngu si ấy, do sự ngu si của mình, nghe theo lời quỷ Dạ-xoa, cho đập vỡ các ghè, không để dành lại dù chỉ một bụm nước, cứ đổ tất cả và ra lệnh các xe đi. Càng đi về phía trước, một
giọt nước cũng không có. Bọn họ không được nước uống trở thành mệt mỏi. Họ vẫn tiếp tục đi cho đến khi mặt trời lặn.
Khi
ấy, họ tháo dây buộc xe ra, xếp thành một vòng tròn, và buộc các con bò vào
bánh xe. Nhưng chúng cũng không có nước uống. Còn bọn họ không có cháo, không
có cơm, nên yếu sức, nằm xuống khắp nơi rồi ngủ. Khi đêm vừa xuống, quỷ Dạ-xoa từ thành Dạ-xoa đi đến, diệt tất cả mạng sống bò và người, ăn thịt chúng, chỉ để lại xương rồi bỏ đi. Như vậy, chỉ vì một
người chủ đoàn lữ hành trẻ và ngu
si, tất cả đã mắc vào đại nạn, xương cốt của người và vật rải khắp
nơi, chỉ năm trăm cỗ xe còn đứng yên với đầy đủ hàng hóa.
Phần
Bồ-tát, đợi từ ngày người chủ đoàn lữ hành trẻ và ngu si ra đi, độ một tháng rưỡi trôi qua,
với năm trăm cỗ xe từ thành phố ra đi, dần dần đi đến biên giới sa mạc. Vị ấy cho đỗ đầy nước vào các ghè nước, cho lấy thêm nhiều nước dự trữ rồi đánh trống hội họp đoàn người lại và nói như sau:
-
Nếu không hỏi ta, thì một bụm nước cũng không được dùng. Có nhiếu cây độc trong bãi sa mạc, không một ai trong các chú được ăn lá, hoa, hay quả chưa ăn từ trước, mà không hỏi ta.
Sau
khi chỉ dạy cho họ như vậy, Bồ-tát mới bắt đầu đi vào bãi sa mạc với
năm trăm cỗ xe. Khi điđến giữa sa mạc, quỷ
Dạ-xoa ấy hiện hình ra trên con đường cửa Bồ-tát, như
cách thức trước. Bồ-tát thấy nó liền nhận ra ngày và suy nghĩ: "Nơi này
không có nước và được gọi là sa mạc không
có nước. Người này có con mắt đỏ, bộ dạng không sợ
hãi, lại không có bóng chiếu. Không nghi ngờ gì nữa, người chủ đoàn lữ hành ngu si và trẻ tuổi đi trước bị nó xúi giục, đã đổ tất cả nước, nên kiệt
sức, và bị nó ăn thịt cùng cả đoàn tùy tùng. Nhưng nó không biết ta có tài trí
và khéo dùng phương tiện".
Vì
vậy, Bồ-tát nói to với con quỷ:
-
Ông hãy đi đi, chúng tôi là người lái buôn. Chưa thấy được nước khác, chúng tôi không đổ nướcđã được dự trữ. Chỗ nào
thấy nước, chúng tôi mới yên lòng đổ nước đi, làm cho nhẹ các cỗ xe.
Quỷ
Dạ-xoa đi một lát, đến chỗ khuất dạng, liền về thành Dạ-xoa. Khi
Dạ-xoa đã đi, đoàn người hỏi Bồ-tát:
-
Thưa ông chủ, những người này chỉ cho thấy đằng kia là dãy rừng xanh. Phía ngoài xa khu rừng ấy, trời luôn
luôn mưa. Họ đội trên đầu những vòng hoa sen xanh và hoa súng; họ cầm
những bó hoa sen đỏ và trắng; họ hái các củ sen và cọng sen; áo bị
ướt, đầu bị ướt; họ đi với những giọt nước rơi chảy. Vậy chúng ta
hãy đỗ nước đi, khiến cho các cỗ xe được nhẹ, chúng ta đi mau hơn.
Bồ-tát
nghe họ nói như vậy, liền cho dừng các cỗ xe, họp tất cả bọn người lại và hỏi:
-
Trong các chú, có ai trước đây nghe nói rằng bãi sa
mạc này có ao hay hồ không?
-
Thưa ông chủ, không có ai nghe cả. Vì thế nơi này được gọi là bãi sa mạc không có nước.
-
Nay có một số người nói rằng xa hơn dãy rừng xanh đàng kia, trời có mưa. Gió mưa có thể thổi xa được bao nhiêu?
-
Thưa ông chủ, khoảng độ một dặm (do-tuần).
-
Gió mưa có thể thổi đến chạm thân của một ai
trong các chú không?
-
Thưa ông chủ, không.
-
Cách xa bao nhiêu, đầu mây có thể thấy được?
-
Khoảng độ một dặm, thưa ông chủ.
-
Có ai trong các chú được thấy một đầu mây không?
-
Thưa ông chủ, không có ai.
-
Xa bao nhiêu, ánh sáng chớp có thể thấy được?
-
Thưa ông chủ, khoảng bốn năm dặm.
-
Có ai trong các chú thấy được ánh sáng chớp?
-
Thưa ông chủ, không có ai!
-
Tiếng sấm xa bao nhiêu có thể nghe được?
-
Thưa ông chủ, khoảng hai ba dặm.
-
Có ai trong các chú nghe được tiếng sấm?
-
Thưa ông chủ, không có ai.
-
Chúng không phải là người. Chúng là quỷ Dạ-xoa. Dạ-xoa đến và nghĩ: "Chúng ta xúi đoàn người đổ nước, và khi đoàn người yếu sức, chúng ta sẽ ăn thịt họ! Vì người chủ đoàn lữ hành ngu si và trẻ tuổi đi trước không có thiện xảo phương tiện, chắc
chắn bị chúng xui đổ nước đi và khi mệt nhọc, họ đã bị quỷ Dạ-xoa ăn. Còn năm trăm cỗ xe được để lại đựng đầy hàng hóa như trước. Hôm nay, chúng ta sẽ thấy chúng nó. Ðừng đổ đi, ngay cả một bụm nước cũng phải gìn giữ. Hãyđi tới, càng mau
càng tốt.
Ðốc
thúc đoàn người của mình đi tới, Bồ-tát tiếp tục đi cho đến khi thấy được năm trăm cỗ xe đầy hành hóa, xương cốt của các con bò và đoàn người bất hạnh trước rải rác khắp mọi nơi.
Ngài cho tháo dây buộc các xe, đặt các xe thành vòng
tròn, họp lại thành trại, cho đoàn người và bò ăn chiều sớm, rồi sắp các con bò nằm nghỉ giữa
bọn họ.
Rồi
ngài tuyển một số người lãnh đạo mạnh mẽ, tự mình đứng canh gác với gươm cầm tay, suốt ba canh ban đêm cho đến khi rạng đông. Sáng sớm ngày kế
tiếp, ngài cho làm xong các công việc cần thiết, cho các con bò ăn, quăng bỏ các cỗ xe yếu ớt, lấy các cỗ xe
vững mạnh, quăng bỏ loại hàng hóa ít có giá trị, chất lên hàng hóa có giá trị, đi đến chỗ đã định trước, và bán các hàng hóa với giá tiền
bằng hai ba giá vốn. Sau đó, ngài cùng với đoàn tùy tùng trở về thành phố của mình.
*
Câu
chuyện chấm dứt, bậc Ðạo Sư nói:
- Này
cư sĩ, như vậy trong thời quá khứ, những ai chấp chặt tà luận, phải gặp đại nạn. Còn những ai chấp nhận
sự thật vô lý luận đã thoát khỏi tay các phi nhân, và đến chỗ mình muốn một cách an
toàn.
Và sau
khi kết hợp hai câu chuyện với nhau, vì mục đích giới thiệu lời dạy về sự
thật vô hý luận này, bậc Chánh Giác bài kệ:
Có những người nói lên
Sự thật vô hý luận,
Nhưng các hạng người khác
Tuyên bố về tà luận.
Kẻ trí biết điều này,
Giữ chặt pháp tối thượng.
Sự thật vô hý luận,
Nhưng các hạng người khác
Tuyên bố về tà luận.
Kẻ trí biết điều này,
Giữ chặt pháp tối thượng.
Như vậy
Thế Tôn dạy về pháp chân thật vô hý luận này, rồi Ngài nói thêm:
- Con đường chân chánh này không
những đem lại ba thiện sự thành tựu, sáu cõi Trời ở dục giới, sự
thành tựu Phạm Thiên giới, mà cuối cùng đem quả A-la-hán. Còn con đường gọi là tà luậnđem đến tái sanh trong bốn đọa xứ và trong năm gia đình thấp kém.
Tiếp đó Ngài giảng thêm về Bốn Sự thật
với mười sáu hành tướng. Cuối bài giảng ấy, tất cả năm trăm nam cư sĩ chứng quả
Dự lưu.
Sau khi
thuyết pháp, bậc Ðạo Sư nêu rõ những bài học và kể hai câu chuyện rồi kết hợp
chúng với nhau, Ngài nhận diện Tiền thân như sau:
- Trong
thời ấy, người chủ đoàn lữ hành trẻ và ngu si là Ðề-bà-đạt-đa (Devadatta), tùy
tùng của kẻ ấy là tùy tùng của Ðề-bà-đạt-đa, tùy tùng của người chủ đoàn lữ hành hiền trí là tùy
tùng củađức Phật, còn người chủ đoàn lữ hành Hiền trí là Ta vậy.
-ooOoo-
2.
CHUYỆN BÃI SA MẠC (Tiền thân Vannupatha)
Không quản
mệt, họ đào...,
Pháp
thoại này được Thế Tôn nói lên khi Ngài ở Xá-vệ. Vì ai mà Ngài nói? Vì
một Tỳ-kheo đã từ bỏ tinh tấn. Khi Thế Tôn ở tại Xá-vệ, có một thiện gia
nam tử trú ở Xá-vệ đi đến Kỳ Viên, nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, tâm sanh tịnh tín, thấy
nguy hiểm trong các dục, nên xin xuất gia. Sống năm năm chờ thọ Cụ túc giới,
người ấy học thuộc lòng hai bài tóm tắt, tu tập pháp môn Thiền quán, nhận lấy
từ bậc Ðạo Sư một đề tài Thiền quán mà mình ưa thích, rồi đi vào một ngôi rừng.
Trải
qua một kỳ an cư mùa mưa, sau ba tháng, vị ấy không thể khởi lên một tia sáng
hay một quán tưởng gì. Rồi vị ấy suy nghĩ: "Bậc Ðạo Sư dạy có bốn hạng
người. Trong họ, ta có phải là hạnh thấp kém nhất không? Ta nghĩ rằng không thể
có Ðạo và Quả cho tự thân ta, vậy ta sống trong rừng làm gì? Hãy đi về bậc Ðạo Sư, sống để chiêm ngưỡng thân Phật với dung
sắc tối thượng, để nghe thuyết pháp dịu ngọt còn hơn.
Nghĩ
vậy, vị ấy trở về Kỳ Viên. Các bạn thân tín nói với vị ấy:
- Này
Hiền giả, bạn đã nhận được từ bậc Ðạo Sư một đề tài Thiền quán, đã đi với quyết tâm thực hiện pháp
Sa-môn. Nay bạn lại trở về, sống vui thích với hội chúng. Hay là bạn đã đạt được mụcđích tối thượng của bổn
phận người xuất gia, và đã chấm dứt tái sanh?
- Này
các Hiền giả, tôi không chứng được cả Ðạo lẫn Quả, tự nghĩ mình là người không
có khả năng, nên tôi từ bỏ tinh tấn và về đây.
- Này
Hiền giả, bạn đã làm một việc không phải, khi đã xuất gia trong Giáo pháp của
bậc Ðạo Sư kiên trì tinh tấn, bạn lại từ bỏ tinh tấn. Hãy đi đến yết kiến Như Lai. Chúng ta
sẽ trình bày đểNgài rõ chuyện này.
Họ đưa vị này đến gần bậc Ðạo Sư. Khi Ngài
thấy vị ấy, liền nói:
- Này
các Tỷ-kheo, các ông đem Tỷ-kheo này đến đây ngoài ý muốn của vị ấy. Người này đã làm gì?
- Bạch
Thế Tôn, Tỷ-kheo này, sau khi xuất gia trong Giáo pháp chân chánh giải thoát
như vậy, sau khi thực hành Sa-môn pháp, lại từ bỏ tinh tấn và trở về đây.
Thế Tôn
nói với Tỷ-kheo ấy:
- Này
Tỷ-kheo, có thật chăng ông đã từ bỏ tinh tấn?
- Thưa
thật vậy, bạch Thế Tôn.
- Này
Tỷ-kheo, vì sao sau khi xuất gia trong Giáo pháp như vậy, ông lại không biết
sống ít dục, tri túc, viễn ly hay tinh tấn, nhưng lại là người từ bỏ tinh tấn?
Do sự tinh tấn của một mình ông, mà trong bãi sa mạc toàn cát, đoàn người và đàn bò của năm trăm cỗ xe đã được nước uống, đã sống an lạc. Nay vì sao ông
lại từ bỏ tinh tấn?
Với
những lời như vậy, vị Tỷ-kheo ấy cảm thấy được khích lệ sách tấn. Nghe
nói như vậy, các Tỷ-kheo yêu cầu Thế Tôn:
- Bạch
Thế Tôn, chúng con đã rõ sự từ bỏ tinh tấn hiện này của vị Tỷ-kheo này. Nhưng
thuở trước, do sự tinh tấn của một mình người này, trong bãi sa mạc toàn cát,
các đàn bò và đoàn người đã uống nước và sống an lạc.
Câu chuyện ấy đang còn bị che đậy đối với chúng con, chỉđược rõ ràng với Thế Tôn là
bậc Nhất thiết trí. Hãy nói cho chúng con câu chuyện này.
- Vậy
này các Tỷ-kheo, hãy lắng nghe.
Sau khi
gợi sự chú ý của các Tỷ-kheo, Thế Tôn nêu lên rõ ràng sự việc đã xảy ra trong quá khứ.
*
Thuở
trước, trong khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại nước Kàsi, Bồ-tát sanh ra
trong gia đình chủ đoàn lữ hành thương gia, lớn lên và thường đi buôn bán với năm trăm cỗ xe. Một thời
Bồ-tátđi vào bãi sa mạc toàn cát, dài sáu mươi dặm, với năm trăm cỗ xe. Trong
sa mạc ấy, cát rất mịn, khi được vốc trong nắm tay,
thì nó sẽ chảy xuống hết. Khi mặt trời mọc lên, cát trở thành nóng như đống than hừng, không thể nào đi lên trên được. Do vậy, những ai đi qua bãi sa mạc ấy, đem theo củi, nước, dầu, gạo... trên các cỗ xe, chỉ đi ban đêm; khi mặt trời mọc, họ xếp các cỗ xe thành hình vòng tròn, làm
một cái tàn che trên đầu, sau khi ăn xong thật sớm, họ thường ngồi trong bóng mát
trọn ngày.
Khi
mặt trời lặn, họ ăn chiều sớm, cát đã nguội, họ cho thắng các cỗ xe lại và ra đi. Ði qua bãi sa mạc này giống như đi biển vậy. Người hướng dẫn, được gọi là "địa lý trưởng" hướng dẫn đoàn lữ hành đi qua nhờ sự hiểu biết các ngôi sao. Người chủ đoàn lữ hành này thời bấy giờ đi qua bãi sa mạc với phương tiện như vậy.
Sau
khi đi hết năm mươi dặm, vị ấy nghĩ: "Hôm nay,
còn một đêm nữa, ta sẽ ra khỏi
sa mạc này". Sau khi ăn chiều, vị ấy ra lệnh
vứt bỏ củi và nước, thắng các xe và ra đi. Người lữ hành trưởng cho trải tấm vải trong cỗ xe đi đầu để ngồi nhìn các ngôi sao và từ đó nói lên con đường sẽ đi, rồi nằm xuống. Vị ấy đã có một thời gian dài không ngủ, nên mệt mỏi,
ngủ say, không biết rằng các con bò đã đi vòng quanh và trở lại
con đường cũ. Các con bò suốt đêm đi như vậy.
Khi
trời rạng đông, vị lãnh đạo thức dậy, nhìn các ngôi sao và bảo:
-
Hãy cho quay các cỗ xe trở lại gấp!
Nhưng
khi các cỗ xe đã quay trở lại, và xếp
thành hàng thì trời đã sáng. Các người trong đoàn nói:
-
Hôm qua, chúng ta đã cho các cỗ xe cắm
trại ở đây. Củi và nước chúng
ta đã vứt bỏ hết. Nay chúng ta bị nguy khốn rồi.
Họ
tháo dây buộc các xe, xếp thành vòng tròn, dăng một màn che trên đầu, mỗi người nằm xuống dưới cỗ xe của mình,
sầu muộn tuyệt vọng. Bồ-tát suy nghĩ: "Nếu ta từ bỏ tinh tấn, tất cả sẽ bị
nguy hại". Vào buổi sáng, khi trời đang mát, vị ấy đi qua đi lại, thấy một đám cỏ dabbha, tự nghĩ: "Dưới đám cỏ này, chắc thế nào cũng có nước mạch, cỏ
mới mọc được", bèn cho lấy
cuốc và đào chỗ ấy. Họ đào đến sáu mươi khuỷu tay; đến đây, cuốc chạm vào hòn đá ở dưới. Khi ấy, tất cả đều thất vọng, không cố gắng nữa. Bồ-tát nghĩ rằng thế nào cũng có
nước dưới hòn đá. Ngài đi xuống,đứng trên hòn đá. Cúi xuống, Ngài lắng tai nghe. Nghe được tiếng nước chảy dưới hòn đá, ngài leo lên lại, nói với người thị giả hầu
cận:
-
Này bạn thân, nếu bạn từ bỏ tinh tấn, thì tất cả chúng ta sẽ bị nguy hại. Bạn
chớ từ bỏ tinh tấn. Hãy cầm cái búa lớn, đi xuống và đập trên hòn đá ấy!
Vâng
theo lời chủ, trong khi tất cả mọi người đều đứng chán nản, người này
không từ bỏ tinh tấn, leo xuống và đập hòn đá. Hòn đá bị vỡ ở giữa, rơi xuống và dòng nước phun đứng lên, cao ngang thân cây thốt nốt. Tất cả
mọi người đều uống nước và tắm,
rồi chặt phát các bánh xe, trục xe dư thừa, nấu cháo và cơm. Khi ăn xong, họ cho bò ăn.
Ðến
khi trời lặn, họ buộc một cây cờ cắm gần dòng nước, rồi đi đến chỗ đã định. Tại đấy, họ bán hành hóa lấy được tiền lòi gấp hai, gấp bốn lần tiền vốn, rồi trở về nhà. Họ
sống hết tuổi thọ, và khi mệnh chung đi theo nghiệp của mình. Còn Bồ-tát, trọn đời bố thí và làm các công đức, cũngđi theo nghiệp của mình.
*
Khi nói
xong pháp thoại này, bậc Chánh Ðẳng Giác đọc bài kệ:
Không mệt mỏi, họ đào,
Họ đào con đường cát
Ðến khi có dòng nước
Tại đấy, họ được nước!
Cũng vậy, bậc ẩn sĩ
Với sức mạnh tinh tấn,
Không thối chí mệt mỏi,
Tìm được tâm an tịnh.
Họ đào con đường cát
Ðến khi có dòng nước
Tại đấy, họ được nước!
Cũng vậy, bậc ẩn sĩ
Với sức mạnh tinh tấn,
Không thối chí mệt mỏi,
Tìm được tâm an tịnh.
Rồi
Ngài giảng về Bốn Sự thật. Cuối bài giảng, vị Tỷ-kheo đã từ bỏ tinh tấn ấy chứng quả
tối cao, quả A-la-hán.
Sau khi
bậc Ðạo Sư kể xong hai câu chuyện và kết hợp chúng với nhau, Ngài kết luận bằng
sự nhận diện Tiền thân như sau:
- Thời
ấy, người thị giả không từ bỏ tinh tấn, đập vỡ hòn đá và đem lại nước cho đoàn người tức là vị Tỷ-kheo đã từ bỏ tinh tấn này. Tùy tùng
của vị chủ đoàn lữ hành là tùy tùng của đức Phật, còn vị chủ đoàn lữ hành là Ta vậy.
-ooOoo-
3.
CHUYỆN NGƯỜI BUÔN CHÈ (Tiền thân Serivànija)
Nếu đây ông thối thất...
Thế Tôn
thuyết pháp thoại này khi ở Xá-vệ, cũng liên hệ đến một Tỷ-kheo từ bỏ tinh tấn.
Khi vị ấyđược các Tỷ-kheo đưa đến bậc Ðạo Sư, trong trường hợp giống như câu
chuyện trươùc, bậc Ðạo Sư nói:
- Này
Tỷ-kheo, ông xuất gia trong Giáo pháp đem lại Ðạo và Quả như vậy, lại từ bỏ tinh tấn,
ông sẽ sầu muộn lâu dài, như người lái buôn Seriva đã mất một cái bát bằng vàng
trị giá trăm ngànđồng tiền vàng.
Các
Tỷ-kheo yêu cầu Thế Tôn phân tích sự việc này. Thế Tôn làm sáng tỏ ý nghĩa qua
câu chuyện quá khứ sau đây:
*
Thuở
xưa năm kiếp về trước, Bồ-tát ở trong nước Seri, làm nghề đi buôn ghè bát và được gọi là Serivan. Serivan cùng với một người
lái buôn bán ghè bát tham lam khác, vượt qua con sông Talavaha đi vào thành Andhapura, phân chia những con đường trong thành, bán hàng hóa của mình tại con đường đã được phân chia. Còn
người kia nhận con đường phần mình. Trong
thành ấy, có một gia đình triệu phú bị sa
sút. Tất cả con trai, anh, em và tài sản đều bị mất sạch. Những người sống sót là một người con gái và một
bà nội, cả hai bà cháu sống bằng nghề làm thuê cho các người khác. Nhưng trong
nhà có một cái bát bằng vàng, xưa kia người đại triệu phú dùng đểăn cơm. Bát ấy lâu
ngày bị quăng vào giữa các chén bát khác không được dùng đến và bụi nhớp dính đầy. Họ không biết cái bát ấy bằng vàng. Lúc bấy giờ, người lái
buôn tham lam kia, đang vừa đi vừa rao:
-
Hãy lấy ghè nước, hãy lấy ghè nước.
Và đến cửa ngôi nhà. Người con gái thấy kẻ ấy liền
nói với bà nội:
-
Thưa bà, hãy lấy cho con một đồ trang sức.
-
Này con thân, chúng ta rất nghèo, đem đổi cái gì để lấy ghè nước?
-
Có một cái bát không giúp ích gì cho chúng ta. Hãy đem cái này đổi lấy ghè.
Bà
cho gọi người lái buôn, lấy ghế mời ngồi, đưa cái bát cho kẻ ấy và nói:
-
Này ông, hãy lấy vật này và đổi cho chị một chút gì.
Người
lái buôn cầm bát suy nghĩ: "Bát này có thể bằng vàng", xoay bát trên
tay, cạo một đường với một cây kim
sau lưng bát, biết được bát bằng vàng, kẻ
ấy nghĩ: "Không cần cho những người này một cái gì cả, ta sẽ lấy cái
bát", bèn nói:
-
Vật này mà giá bao nhiêu? Giá của nó không đáng nửa đồng xu.
Kẻ
ấy quăng bát xuống đất, từ chỗ ngồi đứng dậy rồi bỏ đi. Bấy giờ, giữa hai người lái buôn có sự thỏa
thuận rằng khi một người đã vào con đường rồi bỏ đi, người kia có thể vào con đường ấyđược. Vì thế Bồ-tát đi vào con đường ấy, rao hàng:
-
Ai lấy ghè nước không?
Và đi đến cửa ngôi nhà ấy. Cô con gái nói với bà nội như trước. Bà nội
nói với cô:
-
Này con thân, người lái buôn đến trước đã quăng bát xuống đất và bỏ đi, nay chúng ta có thể cho cái gì để lấy được?
-
Thưa bà, người lái buôn kia ăn nói thô ác. Còn người
này có dáng mặt dễ thương, ăn nói dịu dàng. Rất có
thể người này nhận lấy.
-
Vậy hãy gọi họ lại.
Cô
gái gọi người này lại.
Khi
vị này vào nhà và ngồi, họ đưa cái bát cho xem. Vị
này biết cái bát là bằng vàng liền nói:
-
Thưa mẹ, cái bát này đáng giá trăm ngàn đồng tiền vàng. Tôi không có trong tay tôi hàng
hóa giá trị bằng cái bát này.
-
Này ông, người lái buôn đi đến trước nói rằng cái này không đáng giá nửa đồng xu, đã quăng bát xuống đất bỏ đi. Nay bát này nhờ công đức của ông, trở thành bằng vàng. Vậy chúng tôi cho ông cái bát
này. Hãy cho chúng tôi một chút ít thứ gì, lấy cái bát và ra đi.
Lúc đó Bồ-tát có trong tay tám trăm đồng tiền vàng và hàng hoá trị giá năm trăm đồng tiền vàng, liền đem cho tất cả và nói:
-
Hãy cho tôi giữ lại cái cân, cái giỏ và tám đồng tiền vàng.
Sau
khi xin như vậy rồi, ngài cầm lấy cái bát và ra đi. Ngài đi mau đến bờ sông, cho người
chủ thuyền tám đồng tiền và leo lên
thuyền. Khi ấy, người lái buôn tham lam trở lại và nói:
-
Hãy đem cái bát ra đây, ta sẽ cho các người một ít thứ gì.
Nhưng
bà già mắng lại kẻ ấy:
-
Chú cho rằng cái bát bằng vàng của chúng ta trị giá một trăm ngàn đồng lại không đáng giá nửađồng xu! Nhưng một người lái buôn
chân chánh, giống như thầy của chú, đã cho chúng ta một ngàn đồng vàng, lấy cái bát và ra đi rồi.
Nghe
nói như vậy, kẻ ấy than:
-
Ta đã mất đi cái bát bằng vàng trị giá một trăm ngàn đồng tiền vàng rồi. Nó thật là tên ăn cướpđã hại ta.
Người
lái buôn tham lam ấy sanh khởi ưu tư sầu muộn, không thể tập trung tâm trí, trở
thành điên loạn, tự tay vung vãi đồng tiền vàng và hàng hóa trước cửa nhà ấy,
quăng bỏ áo mặc, áo choàng, và tay cầm cán cân như cái gậy đi theo con đường của Bồ-tát, đến bờ sông. Thấy Bồ-tát đã đi qua sông, kẻ ấy liều kêu:
-
Hỡi bạn lái đò, hãy quay lại.
Nhưng
Bồ-tát ngăn chận và nói:
-
Ðừng quay lại.
Thấy
Bồ-tát dần dần đi xa, sầu muộn ưu tư
của kẻ ấy khởi lên, quả tim nóng ran, máu nóng trào ra miệng và quả tim ấy bị
nứt ra như bùn dưới đáy của một bể nước. Do
hận tâm chống Bồ-tát, kẻ ấy mệnh chung ngay tại chỗ. Ðây là lần đầu tiên Ðề-bà-đạt-đa có hận tâm chống Bồ-tát.
Còn Bồ-tát, trọn đời làm các công đức như bố thí... rồi đi theo nghiệp của mình.
*
Sau khi
thuyết pháp thoại này xong, bậc Chánh Giác đọc bài kệ:
Nếu đây ông thối thất
Không hướng đích diệu pháp,
Ông sẽ khổ lâu dài
Như người buôn Se-ri.
Không hướng đích diệu pháp,
Ông sẽ khổ lâu dài
Như người buôn Se-ri.
Như
vậy, sau khi bậc Ðạo Sư thuyết pháp thoại này đưa đến tột đỉnh A-la-hán, Ngài giảng Bốn
Sự thật. Cuối bài giảng ấy, vị Tỷ-kheo từ bỏ tinh tấn chứng quả tối cao
A-la-hán.
Sau khi
kể hai câu chuyện và kết hợp chúng với nhau, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:
- Thời
ấy, người lái buôn ngu si là Ðề-bà-đạt-đa, còn người lái buôn hiền trí là Ta
vậy.
-ooOoo-
4.
CHUYỆN TIỂU TRIỆU PHÚ (Tiền thân Cullakasetthì)
Bậc trí
với ít vốn...
Pháp
thoại này được Thế Tôn thuyết khi Ngài ở Rừng xoài Jivaka, gần Vương Xá
(Rajagaha), về Trưởng lão Cullapanthaka. Ở đây, cuộc đời của Cullapanthaka cần được nói đến. Ở Rajagaha, con gái của
một triệu phú giàu có thông gian với người nô lệ của mình. Sợ việc làm này bị
người khác biết, cô gái nói với người nô lệ:
- Chúng
ta không thể sống ở chỗ này. Nếu cha mẹ ta biết được tội lỗi này, sẽ xé xác
chúng ta. Chúng ta nên đi sống một chỗ khác.
Với đồ đạc tư trang cầm tay, cả hai
cùng trốn ra khỏi cửa ít khi được mở, thỏa thuận với nhau tìm chỗ nào không ai
biết đến họ và sẽ sống tại đấy. Sau một thời gian sống với
nhau, cô gái thụ thai. Ðến khi sinh nở, người vợ nói với chồng:
- Nay
em đã gần tới kỳ sinh nở, ở chỗ này lại không có bà con. Ðến khi
em sinh nở, hai chúng ta sẽ gặp khổ sở. Vậy chúng ta hãy đi về nhà.
Người
chồng cứ hẹn lần hết ngày này qua ngày khác, và để ngày tháng trôi qua. Người vợ
suy nghĩ: "Người ngu này, ý thức tội lỗi quá lớn của mình, nên không dám đi. Cha mẹ là bạn tốt nhất của
mình. Chồng ta đi hay ở lại, ta cũng phải đi".
Ðợi
người chồng đi ra khỏi nhà, người vợ sắp đồ đạc trong nhà, và tin cho những
người sống kế cận biết là nàng trở về nhà cha mẹ,, rồi nàng lên đường.
Khi
người chồng về, không thấy nàng, hỏi người láng giềng, biết nàng đã trở về gia đình, liền vội vã đi theo và bắt gặp nàng giữa đường. Tại đấy, nàng sinh con. Người chồng
hỏi:
- Này
em thân, việc gì vậy?
- Này
chàng, em đã sinh đứa con trai.
- Vậy
chúng ta sẽ làm gì?
Cả hai đồng ý rằng mục đích đi về nhà là để sinh đẻ, nhưng giữa đường việc ấy đã giải quyết xong nay còn đi về làm gì nữa. Họ liền trở
về chỗ trọ cũ.
Vì đứa con sinh ra giữa đường, nên được đặt tên là Panthaka (Lữ khách).
Không bao lâu, người vợ lại có thai. Tất cả sự việc như lần trước đã diễn tiến lại. Vì đứa con thứ hai này cũng được sinh giữa đường, họ đặt tên đứa đầu là Mahàpanthaka (Ðại Lữ
Khách) và đứa sau là Cullapanthaka (Tiểu Lữ Khách). Rồi họ đem cả hai đứa con trở về nhà của họ.
Trong khi họ sống tại chỗ ấy, đứa trẻ Panthaka nghe các đứa trẻ khác gọi các cậu, các
ông nội, bà nội, nó về hỏi mẹ:
- Thưa
mẹ, các đứa trẻ khác gọi các cậu, các ông nội, bà nội. Vậy chúng ta
không có bà con sao?
- Chúng
ta cũng có. Bà mẹ đáp. Nhưng bà con của con không ở đây. Ông của con là một triệu
phú ở Vương Xá. Tại đấy, con có rất nhiều bà con.
- Thưa
mẹ, vì sao chúng ta không đi đến đấy?
Nàng
nói cho con biết lý do vì sao không đi về nhà của mình, và khi các con hỏi nữa, nàng
nói với chồng:
- Những đứa trẻ con này làm cho em rất
mệt. Không lẽ cha mẹ thấy chúng ta, lại ăn thịt chúng ta? Hãy đi về để cho mấy đứa trẻ biết nhà ông chúng nó.
- Ta
không thể đứng giáp mặt với cha mẹ em được, nhưng ta sẽ đưa chúng đến đấy.
Nàng
nói:
- Như
vậy cũng được, làm cách nào cho mấy đứa trẻ thấy nhà ông của chúng
là được.
Hai vợ
chồng đem hai đứa trẻ về đến Vương Xá, tạm trú tại một
quán trọ gần cửa thành Vương Xá. Rồi người vợ đem hai con nhờ người đưa tin cho cha mẹ nàng biết là
họ đã đến. Khi ngheđược tin này, cha mẹ nàng nói:
- Sống
ở đời mà không có con trai, con gái là một việc không thể có được. Nhưng chúng đã có tội quá lớn đối với chúng ta. Chúng ta
không thể giáp mặt được. Ðây là số tiền cho chúng. Chúng hãy lấy số tiền ấy mà
sống thoải mái tại một chỗ nào đó. Nhưng phải giao hai đứa trẻ ở lại đây.
Người
con gái vị triệu phú lấy số tiền cha mẹ cho, và giao hai đứa trẻ tận tay người đưa tin. Haiđứa trẻ lớn lên
trong gia đình ông ngoại chúng. Cullapanthaka còn nhỏ, nên Mahàpanthaka
thường đi với ông ngoại đến nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp. Thường nghe
thuyết pháp, và thấy bậc Ðạo Sư, tâm của Mahàpanthaka thiên về xuất gia. Nó nói
với ông ngoại nó:
- Nếu
ông chấp thuận, cháu sẽ xuất gia.
-Này
cháu thân, cháu nói gì vậy? Ôi ! Ta sẽ vô cùng vui sướng được thấy cháu xuất gia, còn
hơn là thấy toàn thế giới xuất gia! Này cháu thân, nếu có thể được, hãy xuất gia.
Ông
ngoại chấp nhận và đưa cháu đi gặp bậc Ðạo Sư. Bậc Ðạo Sư hỏi:
- Này
triệu phú, ông mang theo đứa trẻ nào vậy?
- Bạch
Thế Tôn! Ðứa trẻ này là cháu của con, nó muốn xuất gia với Thế Tôn.
Bậc Ðạo
Sư bảo một vị Khất sĩ cho đứa trẻ xuất gia. Vị Trưởng lão, đọc đề tài Thiền quán gồm năm phần, từ
da trở đi ... và làm phép xuất gia cho đứa trẻ. Ðứa trẻ học nhiều lời
dạy của đức Phật, và khi cậu đến tuổi, cậu được thọ Ðại giới. Nhờ chuyên
tâm tinh cần, làm đủ các bổn phận tu tập, Mahapanthaka chứng quả A-la-hán. Trong
khi thọ hưởng an lạc Thiền định và an lạc Thánh đạo, người anh nghĩ nên cho em
là Culla-panthaka cũng hưởng được an lạc ấy. Rồi người anh đi đến gọi ông ngoại triệu phú và
nói:
- Nếu
ông ngoại chấp thuận, con sẽ làm lễ xuất gia cho Cullpanthaka.
- Thưa
Tôn giả, hãy làm lễ xuất gia cho nó.
Vị
Trưởng lão làm lễ xuất gia cho Cullapanthaka và cho thọ Mười giới. Nhưng Sa-di
Cullapanthaka, sau khi xuất gia, tỏ ra rất ám độn. Người em trong bốn tháng
không thể học thuộc lòng bài kệ này:
Như bông sen thơm dịu,
Vào rạng đông buổi sáng,
Hoa được nở toàn diện
Với mùi hương bát ngát.
Nhìn đức Phật chói sáng
Với hào quang chiếu diện,
Như mặt trời rực sáng
Trên bầu trời quang đãng.
Vào rạng đông buổi sáng,
Hoa được nở toàn diện
Với mùi hương bát ngát.
Nhìn đức Phật chói sáng
Với hào quang chiếu diện,
Như mặt trời rực sáng
Trên bầu trời quang đãng.
Chúng
ta được kể rằng, trong thời đức Phật Kassapa, Cullapanthaka
xuất gia, có trí tuệ, đã cười khinh bỉ một Tỷ-kheo ám độn đang học thuộc lòng một đoạn kinh. Tỷ-kheo ấy hổ thẹn
vì bị khinh bỉ đến nổi không thể nhớ và đọc lên đoạn kinh ấy. Do kết quả nghiệp
ấy, Cullapanthaka trở thành ám độn, những câu vị ấy mới học làm vị ấy quên đi những câu đã học trước; và bốn tháng đã trôi qua, trong khi vị ấy đang cố gắng học một câu kệ,
Mahàpanthaka nói với em:
- Này
Panthaka, em không có khả năng trong Giáo pháp này. Bốn tháng trôi qua, em
không thể học thuộc lòng một câu kệ, làm sao em có thể đạt được sự nghiệp tối thượng của
người xuất gia? Hãy đi ra khỏi tinh xá.
Như vậy
người anh đuổi người em. Nhưng Cullapanthaka đã gắn bó đặc biệt với giáo pháp củađức
Phật, nên không muốn trở thành một người tại gia.
Trong
thời ấy, Mahapanthaka đang làm người phân phối bữa ăn. Một hôm Jivaka
Komàrabhaccađem theo nhiều hương thơm và vòng hoa, đến vườn xoài của mình, để cúng dường Thế Tôn. Sau khi
nghe pháp, Jivaha từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ bậc Mười Lực
(Dasabala), rồi đi đến gần Mahapanthaka và hỏi:
- Thưa
Tôn giả, có bao nhiêu Tỷ-kheo ở gần bậc Ðạo Sư?
-
Khoảng năm trăm.
- Vậy
ngày mai, xin Tôn giả hãy mời năm trăm Tỷ-kheo, với đức Phật là người dẫn đầu, dùng bữaăn tại nhà tôi.
- Này
cư sĩ, Cullapanthaka là kẻ ám độn, không thể lớn mạnh trong Giáo pháp. Tôi chấp
nhận lời mời tất cả, trừ nó ra.
Nghe
vậy, Cullapanthaka suy nghĩ: "Vị Trưởng lão nhận lời mời tất cả Tỷ-kheo và
loại ta ra ngoài. Không nghi ngờ gì nữa, tình cảm của anh ta đối với ta đã bị đỗ vỡ. Nay ta còn ở trong Giáo
pháp này làm gì nữa? Vậy ta sẽ làm người cư sĩ, sống làm các công đức như bố thí, ...
Rạng
ngày hôm sua Cullapanthaka ra đi với ý nghĩ: "Ta trở lại đời sống gia chủ". Bậc Ðạo
Sư, vào sáng sớm, khi nhìn khắp thế giới, thấy sự kiện này, nên ra đi sớm hơn Cullapanthaka. Ngài đi qua đi lại trước cửa ngõ, trên con đường của Cullapanthaka và đứng lại. Cullapanthaka, từ
nhàđi ra, thấy bậc Ðạo Sư, đến gần Ngài và đảnh lễ. Thấy Cullapanthaka,
Thế Tôn hỏi:
- Này
Cullapanthaka, con đi đâu vào giờ này?
- Bạch
Thế Tôn, anh con đuổi con, cho nên con đi lang thang.
- Này
Cullapanthaka, con xuất gia với Ta. Khi anh con đuổi, sao con không đến gặp Ta? Con sống tại gia để làm gì? Hãy đến sống gần Ta.
Rồi Thế
Tôn đem Cullapanthaka đi, bảo ngồi trước Hương phòng. Ngài đưa Cullpanthaka một miếng vải
sạch mà Ngài đã tạo bằng thần thông, rồi nói:
- Này
Cullapanthaka, hãy hướng mặt về phía đông, dùng miếng vải này lau qua lau lại và nói:
Ðồ vật lau bụi, đồ vật lau bụi.
Ðúng
giờ đã định, đức Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo vây quanh, đi đến nhà Javaka và ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Còn Cullapanthaka,
với mặt hướng phía mặt trời, ngồi cầm miếng vải lau qua lau lại và nói: Ðồ vật
lau bụi, đồ vật lau bụi, cho đến khi miếng vải trở thành dơ bẩn. Rồi
Cullapanthaka suy nghĩ: "Vừa rồi, tấm vải này rất là sạch sẽ. Nhưng này vì
bản thân ta, nó đã bỏ nguyên trạng của nó, và trở thành dơ bẩn. Thật sự các
hành là vô thường". Ngay khi Cullapanthaka thông hiểu tính đoạn diệt, Thiền quán được tăng trưởng. Bậc Ðạo Sư
biết tâm thiền quán của Cullapanthaka đã đạt viên mãn, bèn nói với Cullapanthaka:
- Chớ để ý đến miếng vải này đã bị bụi làm bẩn. Nhưng trong
con có bụi tham ... hãy tẩy trừ chúng.
Rồi Thế
Tôn phóng hào quang, hóa hiện một danh sắc do trí tuệ tạo thành, ngồi trước mặt
vị ấy, và đọc các bài kệ này:
Tham mới gọi là bụi,
Chớ không phải bụi này;
Tham mới thật đồng nghĩa
Với chữ bụi thường dùng;
Hỡi này các Tỷ-kheo,
Hãy từ bỏ bụi này,
Hãy sống trong Giáo pháp
Của vị không bụi bẩn.
Chớ không phải bụi này;
Tham mới thật đồng nghĩa
Với chữ bụi thường dùng;
Hỡi này các Tỷ-kheo,
Hãy từ bỏ bụi này,
Hãy sống trong Giáo pháp
Của vị không bụi bẩn.
Sân mới gọi là bụi,
Chớ không phải bụi này,
Sân mới thật đồng nghĩa
Với chữ bụi thường dùng.
Hỡi này các Tỷ-kheo,
Hãy từ bỏ bụi này,
Hãy sống trong Giáo pháp
Của vị không bụi bẩn.
Chớ không phải bụi này,
Sân mới thật đồng nghĩa
Với chữ bụi thường dùng.
Hỡi này các Tỷ-kheo,
Hãy từ bỏ bụi này,
Hãy sống trong Giáo pháp
Của vị không bụi bẩn.
Si mới gọi là bụi,
Chớ không phải bụi này;
Si mới thật đồng nghĩa
Với chữ bụi thường dùng.
Hỡi này các Tỷ-kheo,
Hãy từ bỏ bụi này,
Hãy sống trong Giáo Pháp
Của vị không bụi bẩn.
Chớ không phải bụi này;
Si mới thật đồng nghĩa
Với chữ bụi thường dùng.
Hỡi này các Tỷ-kheo,
Hãy từ bỏ bụi này,
Hãy sống trong Giáo Pháp
Của vị không bụi bẩn.
Cuối
câu kệ, Cullapanthaka chứng quả A-la-hán với Bốn Vô ngại giải, vị ấy thấu hiểu
tất cả Tạng kinh điển. Tương truyền rằng, trong thời quá khứ, vị ấy làm vua,
và khi đang đi bộ xung quanh thành phố, mồ hôi chảy từ trán, vị ấy lấy
một miếng vải sạch lau trán. Miếng vải trở thành bẩn. Vị ấy suy nghĩ: "Do
thân này của ta, miếng vải đã bỏ nguyên trạng trong trắng và trở thành dơ
bẩn. Thật sự các hành là vô thường". Vị ấy nắm được tướng vô thường. Như vậy
chính nhờ sựđoạn trừ bụi bẩn này tạo thành nhân duyên giải thoát cho vị ấy.
Trong khi ấy, Jivaka Komàrabhacca dâng nước bố thí lên đấng Ðại Giác. Bậc Ðạo Sư lấy
tay che bình bát và nói:
- Này
Jivaka, trong tinh xá còn có Tỷ-kheo nào hay không?
Mahapanthaka
thưa:
- Bạch
Thế Tôn, trong tinh xá không còn Tỷ-kheo nào.
Nhưng
bậc Ðạo Sư nói:
- Này
Javaka, còn có Tỷ-kheo.
Javaka
liền sai một người đi xem thử trong tinh xá có Tỷ-kheo hay không. Trong lúc ấy,
Cullapathaka biết người anh của mình nói không có Tỷ-kheo ở trong tinh xá và
muốn tỏ cho người anh thấy rằng còn có nhiều Tỷ-kheo ở trong tinh xá, liền làm
cho toàn rừng xoài đầy những Tỷ-kheo. Một số Tỷ-kheo đang làm y, một số đang nhuộm, một số đang học kinh điển. Cullapanthaka tạo ra một
ngàn Tỷ-kheo, không ai giống ai. Người kia thấy rất nhiều Tỷ-kheo ở trong tinh
xá, trở về báo cho Javaka biết:
- Thưa
ông chủ, toàn rừng xoài đầy những Tỷ-kheo! Có bậc trưởng lão ở tại đấy!.
Trưởng lão Pan-tha-ca
Hóa mình thành ngàn lần,
Ngồi rừng xoài xinh đẹp,
Chờ thời được gọi đến.
Hóa mình thành ngàn lần,
Ngồi rừng xoài xinh đẹp,
Chờ thời được gọi đến.
Bậc Ðạo
Sư nói với người ấy:
- Hãy đi đến tinh xá, nói Thế Tôn cho
gọi Cullapanthaka.
Người
ấy đi và khi nói như vậy, thì ngàn miệng nói lên:
- Tôi
là Cullapanthaka! Tôi là Cullapanthaka!
Người
ấy về thưa:
- Bạch
Thế Tôn, tất cả đều nói: "Tôi là Cullapanthaka".
- Vậy
ông hãy đi đến và nếu ai nói đầu tiên: Tôi là Pathaka, hãy nắm tay người ấy,
tất cả người còn lại sẽ biến mất.
Người
ấy làm đúng như vậy. Ngay lúc ấy, cả ngàn Tỷ-kheo đều biến mất. Vị trưởng lão đi với người ấy đến bậc Ðạo Sư. Sau khi dùng
bữa ăn xong, bậc Ðạo Sư nói với Jivaka:
- Này
Javaka, hãy lấy cái bát của Cullapanthaka. Vị này sẽ nói lời cám ơn ông.
Jivaka
làm như lời bậc Ðạo Sư đã nói. Vị trưởng lão rống tiếng rống của sư tử, làm cho
sốngđộng tất cả các Tạnh Kinh điển trong lời nói cám ơn của mình.
Rồi Thế
Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, với chúng Tỷ-kheo vây quanh, đi trở về tinh xá. Sau khi các
Tỷ-kheo phân boá công việc xong, Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy, đứng trước Hương phòng, thuyết
lời khuyến cáo của bậc Thiên Thệ cho chúng Tỷ-kheo, cho họ đề tài Thiền quán, giải tán chúng
Tỷ-kheo, rồi đi vào Hương phòng sực nức mùi thơm và nằm xuống phía hông
bên mặt như dáng nằm con sư tử.
Vào
buổi chiều, các Tỷ-kheo đắp y vàng từ nhiều nơi quy tụ lại trong Pháp đường, ngồi xuống như thể trải
một tấm màn vàng rực chung quanh bậc Ðạo Sư, và bắt đầu tán thán công đức của Ngài:
- Này
các Hiền giả, Mahapanthaka không biết khả năng của Cullapanthaka, đã đuổi Cullapanthaka ra khỏi tinh
xá, cho là ngu si ám độn, trong bốn tháng học không thuộc một câu kệ. Nhưng bậc
Chánh Ðẳng Giác, với đức tánh vô thượng Pháp Vương, chỉ trong một bữa ăn, đãđem lại cho Cullapanthaka quả
A-la-hán với các Vô ngại giải. Với các Vô ngại giải ấy, Cullapanthaka nắm được toàn bộ các Tạng kinh điển. Ôi, Phật lực thật lớn vậy
thay!
Thế Tôn
biết được diễn tiến câu chuyện trong Pháp đường, nghĩ rằng nay cần phải đi đến chỗ ấy, liền đứng dậy từ chỗ nằm của đức Phật, mặc hai tấm áo màu đỏ chói, thắt cái nịt thân như
chớp nhoáng, và đắp lại y. Bậc Thiện Thệ như tấm mền đỏ thắm, từ Hương phòng đi ra, đi đến Phápđường với uy nghi vô
tận của một đức Phật, di động với dáng điệu oai hùng đẹp đẽ của con voi, con sư tử trong
thời sung sức. Bước lên Phật tọa được trình bày lộng lẫy ở giữa Pháp đường trang nghiêm. Ngài ngồi
trên Phật tọa phóng ra những hào quang. Phật có sáu màu như mặt trời mới mọc từ
trên đỉnh núi Yugandahara, ngài chói sáng đến tận đáy biển.
Ngay
khi bậc Chánh Giác đến, chúng Tỷ-kheo chấm dứt câu chuyện và giữ im lặng. Bậc
Ðạo Sư, với tâm tư bi hòa nhã, nhìn hội chúng và suy nghĩ: "Hội chúng này
thật rực sáng, không có mộtđộng tay, một động chân, không một tiếng đằng hắng, không một tiếng ho. Tất
cả vì tôn kính Ta, nếu Ta ngồi không nói cho đến suốt đời, đại chúng đều không dám nói trước khi Ta
nói. Ta biết Ta cần phải nói trước. Ta sẽ nói trước". Với Phạm âm ngọt
dịu, Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
- Này
các Tỷ-kheo, các ông nay ngồi ở đây nói đề tài gì và câu chuyện gì chưa được nói xong?
- Bạch
Thế Tôn, chúng con ngồi đây không nói chuyện nhảm. Chúng con ngồi tán thán công đức của Ngài như sau: Này các
Hiền Giả, Mahapanthaka không biết khả năng của Cullapanthaka, đãđuổi Cullapanthaka ra khỏi tinh
xá... Ôi, Phật lực thật lớn vậy thay!
Thế
Tôn, nghe các Tỷ-kheo nói vậy, bèn nói:
- Này
các Tỷ-kheo, Cullapanthaka nay do nhờ Ta, đã đạt được sự vĩ đại trong Chánh Pháp. Còn thời
quá khứ cũng do nhờ Ta, vị ấy đã đạt được tài sản vĩ đại trong các tài sản.
Các
Tỷ-kheo yêu cầu Thế Tôn giải thích ý nghĩa này và Thế Tôn liền trình bày rõ sự
việc tái sanh che lấp qua câu chuyện sau đây.
*
Thuở
xưa, tại nước Kàsi, trong thành Ba-la-nại, khi vua Brahamadatta đang trị vì, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình triệu phú và được gọi là Tiểu Triệu phú. Ngài có trí thông
minh, biết tất cả loại tướng. Một hôm, trong khi đi đến hầu vua, giữa đường thấy một con chuột
chết, ngay lúc ấy ngài tính toán các vì sao và nói:
-
Một thiện nam tử nào có mắt, chỉ cần lượm con chuột này lên có thể xây dựng cơ
nghiệp và nuôi một người vợ.
Bấy
giờ có một thiện nam tử đang bị túng thiếu, nghe
triệu phú nói vậy, suy nghĩ: "Người này biết cái gì mới nói", bèn
lượm con chuột lên, bán được một xu ở một tiệm
hàng mua cho mèo ăn. Vớiđồng xu ấy, chàng
mua đường mật và lấy nước uống với một cái bình. Gặp
những người làm vòng hoa từ rừng về, chàng cho mỗi người một ít đường, mật và nước uống với một ít cái gáo. Mỗi
người làm vòng hoa, cho chàng một nắm hoa.
Ngày
mai, với số tiền bán hoa ấy, chàng lấy đường, mật, một ghè nước rồi đi đến vườn hoa. Ngày ấy,
các người làm vòng hoa cho chàng những cành hoa đã hái còn sót lại rồi bỏ đi. Không bao lâu với phương tiện này, chàng có được tám đồng tiền vàng.
Rồi
vào một ngày mưa gió, trong vườn của vua có rất nhiều cành cây khô và lá bị gió
làm rụng xuống, người giữ vườn không biết cách nào để quét chúng cho sạch. Chàng đi đến, nói với người giữ
vườn:
-
Tôi sẽ quét sạch với điều kiện là củi và lá
này thuộc về của tôi.
Người
giữ vườn chấp thuận. Người đệ tử này của vị Tiểu triệu phú đi đến sân chơi của bọn trẻ, cho chúng đường mật, và nhờ chúng dọn sạch củi, lá chất
thành một đống trước vườn hoa
trong một thời gian ngắn. Khi ấy, người làm đồ gốm cho vua đang đi tìm củi để đốt nung các chén bát cho nhà vua, thấy đống củi ấy tại cửa vườn hoa, ông ta mua ngay và
tự tay mang nó đi.
Ngày
ấy, đệ tử vị Tiểu triệu phú bán củi có được mười sáu đồng tiền, ghè bình và
năm cái bát. Sau khi có được hai mươi bốn đồng tiền, chàng nghĩ đến một kế hoạch, đặt một ghè nước không xa cửa thành và đem nước cho năm trăm người cắt cỏ uống. Họ nói:
-
Bạn giúp ích cho chúng tôi rất nhiều. Bạn muốn chúng tôi làm gì cho bạn?
Chàng
trả lời:
-
Khi nào tôi có việc, tôi sẽ nói cho các anh biết.
Trong
khi đi qua lại, chàng làm thân với một người buôn
bán trên bộ và một người buôn bán trên biển. Người buôn bán trên bộ báo tin cho
chàng biết ngày mai sẽ có người buôn ngựa đến tại thành này với năm trăm con ngựa. Nghe vậy, chàng nói với
những người cắt cỏ:
-
Hôm nay, mỗi người hãy cho tôi một bó cỏ, và không bán cỏ của các anh cho đến khi tôi bán xong cỏ của tôi.
Họ
bằng lòng và đem đến nhà chàng năm trăm bó cỏ. Người lái buôn
ngựa không tìm được cỏ trong toàn thành
phố, liền cho chàng một ngàn đồng tiền và lấy cỏ của
chàng. Sau một vài ngày, người buôn bán trên biển báo tin cho chàng biết sẽ có
một chiếc tàu lớn cập bến. Chàng nghĩ đến một kế hoạch khác. Với tám đồng tiền chàng thuê một cỗ xe trang bị đầy đủ, được thuê theo giờ, và đi đến bến cảng với vẻ rất uy nghi bệ vệ.
Sau
khi đưa chiếc nhẫn làm bảo chứng cho chiếc tàu,
chàng bảo dựng một cái lều không xa bao nhiêu, ngồi ở trong lều và dặn chúng
người làm công như sau:
-
Khi có các người lái buôn từ ngoài đến, hãy báo cho ta biết qua ba người giới thiệu.
Khi
nghe tin có tàu đến, khoảng một trăm người
lái buôn từ Ba-la-nại đến để mua hàng. Họ được cho biết là hàng
không thể lấy được vì phải để dành cho người lái buôn ở tại chỗ ấy đã có bảo chứng. Họ nghe vậy liền đi đến gặp chàng. Những người hầu, như đã được dặn trước, báo tin họđến qua ba người giới thiệu.
Một
trăm người lái buôn ấy, mỗi người cho chàng một ngàn đồng để làm người hùn vốn trên
tàu và cho một ngàn đồng nữa để trả tiền lấy hàng hóa phần của mình. Như vậy người đệ tử vị Tiểu triệu phú lấy được hai trăm ngàn đồng tiền và đi về Ba-la-nại.
Ðể
bày tỏ sự biết ơn đối với vị Tiểu triệu
phú, chàng đem theo một trăm ngàn đồng tiền và đi đến thăm vị Tiểu triệu
phú. Vị Tiểu triệu phú hỏi chàng đã làm gì để được số tiền này, chàng tường thuật tất cả câu
chuyện, từ khi theo lời vị Tiểu triệu phú trải qua bốn tháng bắt đầu với việc chàng lượm con chuột chết. Vị Tiểu
triệu phú nghe chàng nói như vậy, nghĩ rằng không thể để một chàng trai trẻ như vậy rơi vào tay người khác, liền gả con gái
mới lớn lên của mình cho chàng, và cho chàng làm chủ toàn bộ gia sản. Khi người
triệu phú qua đời, chàng đã trở thành vị triệu phú của thành ấy. Và khi
mệnh chung, Bồ-tát đi theo nghiệp của mình.
*
Sau khi
nói lên pháp thoại này, bậc Chánh Giác đọc bài kệ:
Bậc trí với ít vốn,
Bậc có mắt, ít hàng,
Tự xây dựng cho mình
Tài sản lớn như vậy,
Như dùng hơi thở mình
Thổi lớn đám lửa nhỏ.
Bậc có mắt, ít hàng,
Tự xây dựng cho mình
Tài sản lớn như vậy,
Như dùng hơi thở mình
Thổi lớn đám lửa nhỏ.
Thế Tôn
nói:
- Này
các Tỷ-kheo, chính dựa vào Ta, Cullapanthaka ngày nay đạt được pháp tối thượng trong các
pháp, cũng như ngày xưa đã đạt được tài sản tối thượng trong các tài sản.
Sau khi
nói xong Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư kết hợp hai mẩu chuyện với nhau, và kết
luận bằng sự nhận diện Tiền thân như sau:
- Trong
thời ấy, đệ tử của Tiểu Triệu phú là Cullapanthaka, còn Cullakasetthi,
Tiểu triệu phú, là Ta vậy.
-ooOoo-
5.
CHUYỆN ÐẤU GẠO. (Tiền thân Tandulanàli)
Giá đấu gạo bao nhiêu?...
Câu
chuyện này được Thế Tôn, khi ở tại Kỳ Viên, đã kể về Trưởng lão Laludayi.
Trong thời ấy, Tôn giả Dabba, con bộ tộc Malla, làm người phân phối cơm ăn cho chúng Tăng. Thời ấy, vào
buổi sáng, trong khi phân phối thẻ cơm, Trưởng lão Udàyi khi thì được gạo tốt, khi thì được gạo xấu. Vào ngày được gạo xấu Udàyi thường làm
rộn lên trong phòng phát thẻ và nói:
- Sao
chỉ có Dabba biết phát thẻ, chớ chúng tôi không biết hay sao?
Một
hôm, khi Udayi làm rộn lên trong phòng phát thẻ, người ta đưa sổ phát thẻ cho Udayi và
nói:
- Hôm
nay, Hiền giả hãy phát thẻ.
Bắt đầu từ hôm ấy, Udàyi phát thẻ
cho chúng Tăng. Nhưng trong khi phát thẻ, Udàyi không biết gạo nào là gạo tốt,
gạo nào là gạo xấu, Udàyi cũng không biết số hạ lạp như thế nào được phát gạo tốt, số hạ lạp
như thế nào được phát gạo xấu. Khi làm sổ thứ tự để chia phần, Udàyi không nghĩ đến thứ tự hạ lạp. Do vậy, khi
các Tôn giả đứng vào vị trí của mình, Udàyi ghi một cái dấu trên sàn hoặc
trên tường để chỉ rõ hàng này đứng chỗ này, hàng kia đứng chỗ kia.
Ðến
ngày sau, trong phòng phân phối thẻ có ít Tỷ-kheo hơn trong hàng này, và có
nhiều Tỷ-kheo hơn trong hàng kia. Hàng nào ít tỷ-kheo hơn, thì các dấu ghi quá
thấp, hàng nào nhiều Tỷ-kheo hơn, thì các dấu ghi quá cao. Nhưng Udàyi không
biết gì về hàng sắp, đã phân phối các thẻ theo những dấu của mình. Do vậy, các
Tỷ-kheo nói với Udàyi:
- Các
dấu hoặc là quá thấp, hoặc là quá cao. Gạo tốt dành cho những vị có hàng lạp
như thế kia còn gạo xấu lại dành cho những vị có hàng lạp như thế này.
Nhưng
Udàyi gạt họ ra một bên và nói:
- Nếu
dấu này là như vậy, sao các Hiền giả không đứng như vậy? Sao tôi lại tin
các Hiền giả? Tôi tin các dấu của tôi hơn.
Các vị
trẻ tuổi và các Sa-di kéo Udàyi ra khỏi phòng phân phối và nói:
- Này
Hiền giả Udàyi ám độn, khi Hiền giả phân phối thẻ, các Tỷ-kheo nhận thiếu phần
họ được nhận. Hiền giả không xứng đáng để phân phối. Hãy đi ra đi.
Trong
khi ấy, tại phòng phân phối thẻ, có tiếng ồn ào lớn. Nghe vậy, bậc Ðạo sư gọi
hỏi trưởng lão Ànanda:
- Này
Ànanda, không phải hiện nay, Udàyi với sự ngu si của mình, mới làm cho người
khác bị thiệt hại khi nhận phần của họ. Thuở trước, Udàyi cũng đã làm như vậy.
Trưởng
lão Ànanda yêu cầu Thế Tôn làm sáng tỏ vấn đề này. Thế Tôn trình bày rõ sự
việc bị tái sanh che lấp qua câu chuyện quá khứ.
*
Thuở
xưa, ở nước Kàsi, tại thành Ba-la-nại, vua Brahmadatta đang trị vì. Lúc ấy, Bồ-tát của chúng ta làm
người đánh giá cho vua. Ngài đánh giá voi ngựa v.v... đánh giá châu báu, vàng v.v... và ngài thường
trả cho những người chủ các hàng hóa đúng giá tiền như ngài đã quy định. Nhưng vua là người
tham lam và bản tánh tham của vua khiến vua suy nghĩ: "Người đánh giá này với cách đánh giá như vậy, không bao lâu sẽ làm cho tài
sản trong nhà của ta khánh kiệt. Ta phải tìm một ngườiđánh giá khác." Mở
cửa sổ, nhìn xuống sân, vua thấy một người quê mùa tham và ngu đang đi qua sân, nghĩ rằng kẻ ấy có thể làm người đánh giá cho mình, bèn cho gọi kẻ ấy lên, và hỏi
anh ta có thể làm người đánh giá cho vua được không. Kẻ ấy trả lời:
-
Thưa Ðại Vương, tôi có thể làm được.
Vua
liền đặt người ngu ấy vào chức vụ người đánh giá, với mục đích bảo vệ tài sản của mình. Từ khi ấy trở đi, người ngu ấy đánh giá voi, ngựa v.v... Không đếm xỉa gì đến giá trị, nói giá tùy theo sở thích. Và vì giữ chức vụ ấy, kẻ
ấy nói gì, thì giá tiền là phải như vậy, không thể khác.
Lúc
bấy giờ, từ nước phương Bắc, một người buôn ngựa đi đến với năm trăm con ngựa. Vua cho gọi kẻ ấy lên và bảo anh ta đánh giá ngựa. Kẻ ấy đánh giá năm trăm con ngựa bằng giá đấu gạo, bảo trả cho người buôn ngựa giá tiền
một đấu gạo, và bảo dắt ngựa vào chuồng. Người buôn
ngựađi đến gặp người đánh giá cũ, thuật lại sự việc này và hỏi phải
làm thế nào. Bồ tát nói:
-
Hãy cho người ấy một số tiền hối lộ và hỏi nó: Biết rằng giá tiền các con ngựa
chúng tôi đáng giá một đấu gạo, thì ông có thể cho chúng tôi biết, theo
ông ta tiền một đấu gạo là bao nhiêu,
ông có thể tuyên bố giá ấy trước mặt vua được không? Nếu nó trả lời có thể được, thì đưa nó đến ngay trước mặt vua
và tôi cũng sẽ có mặt ở đấy.
Người
lái buôn nghe theo lời Bồ-tát, cho người đánh giá một số tiền hối lộ, và đặt vấn đề với kẻ ấy. Khi kẻ ấy nhận hối lộ và nói có thể đánh giá đấu gạo được, người buôn ngựa đưa ngay anh tađến trước mặt vua. Bồ-tát cùng
nhiều đại thần khác cũng đi đến. Người buôn ngựa, sau khi đảnh lễ vua, liền thưa:
-
Thưa Ðại Vương, con đã biết giá tiền năm
trăm con ngựa bằng giá tiền một đấu gạo.
-
Nhưng giá tiền một đấu gạo là bao nhiêu?
-
Ðại Vương hãy hỏi người đánh giá này.
Không
biết sự việc đã xảy ra, vua nói:
-
Này người đánh giá, khanh nói cho
chúng ta biết giá tiền năm trăm con ngựa.
-
Thưa Ðại Vương, là giá tiền một đấu gạo.
-
Hãy là vậy, này khanh. Năm trăm con ngựa này trị giá một đấu gạo. Vậy giá trị một đấu gạo là bao nhiêu?
Người
ngu si ấy trả lời:
-
Một đấu gạo trị giá bằng tất cả thành Ba-la-nại với
nhiều ngoại ô!
Như
vậy, chúng ta được biết rằng, để làm vui lòng ông vua, kẻ ấy trị giá các con ngựa bằng mộtđấu gạo;
nhưng sau khi lấy tiền hối lộ từ tay người lái buôn, anh ta đánh giá một đấu gạo bằng toàn bộ nội ngoại thành Ba-la-nại. Lúc bấy giờ, toàn
thành bao bọc Ba-la-nại dài đến mười hai dặm, còn
nội thành và ngoại thành Ba-la-nại rộng lớn ba trăm dặm! Tuy vậy, kẻ ngu ấy trị
giá nội thành và ngoại thành Ba-la-nại rộng lớn này chỉ bằng một đấu gạo! Nghe kẻ ấy nói vậy, các đại thần vỗ tay cười và nói:
-
Trước kia chúng ta thường nghĩ rằng quả đất và quốc độ là vô giá. Nhưng nay chúng ta được biết rằng thành phố lớn Ba-la-nại này cùng
với vị vua trị giá chỉ có một đấu gạo mà thôi. Ôi,
keûđánh giá thật đầy đủ trí tuệ! Sao nó có thể giữ địa vị của nó lâu như vậy! Nhưng thật sự kẻ đánh giá này phù hợp với vua chúng ta một cách
tuyệt diệu!
Các đại nhân vỗ tay, cười đùa và mỉa mai như vậy.
Rồi
Bồ-tát đọc bài kệ:
Giá đấu gạo bao nhiêu?
- Bằng cả nội ngoại thành,
Thành phố Ba-la-nại
Cả năm trăm con ngựa
Cũng chỉ bằng giá tiền
Một đấu gạo mà thôi.
- Bằng cả nội ngoại thành,
Thành phố Ba-la-nại
Cả năm trăm con ngựa
Cũng chỉ bằng giá tiền
Một đấu gạo mà thôi.
Lúc
bấy giờ, vua xấu hổ đuổi kẻ ngu ấy đi và đặt Bồ-tát vào chức vụ đánh giá như cũ. Rồi đến khi mệnh chung, Bồ-tát đi theo nghiệp của mình.
*
Sau khi
trình bày pháp thoại này, bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện với nhau, và kết
luận bằng sự nhận diện Tiền thân như sau:
- Thời ấy, kẻ đánh giá quê mùa ngu si là Udàyi, còn vị đánh giá có trí là Ta vậy.
-ooOoo-
6.
CHUYỆN THIÊN PHÁP (Tiền thân Devadhamma)
Ðầy đủ tàm và quý...
Khi ở
Kỳ Viên, Thế Tôn kể câu chuyện này về một Tỷ-kheo có nhiều đồ vật. Ở Xá-vệ, có một vị trưởng
giả giàu có, sau khi vợ chết, mới xuất gia. Trước khi xuất gia, vị ấy có làm
một phòng đểở, một phòng để lửa, và một kho chứa đồ, cho chất đầy kho chứa đồ với bơ sữa, gạo v.v... rồi mới
xuất gia. Sau khi xuất gia, vị ấy cho gọi những người đầy tớ của mình, bảo nấu các đồ ăn theo sở thích và thọ dụng
các món ăn ấy. Vị ấy có rất nhiều vật dụng, ban đêm có bộ đồ lót, có áo choàng riêng; ban
ngày có bộ đồ lót, có áo choàng riêng, và sống cách biệt sau biên địa ngôi tinh xá.
Một
hôm, trong khi vị ấy lấy các y và đồ tắm, trải chúng trong phòng để phơi cho khô, một sốđông
Tỷ-kheo ở các tỉnh, đi từ trú xứ này đến trú xứ khác, đến phòng kia, thấy các y áo v.v...
liền hỏi chúng thuộc về ai. Vị ấy trả lời:
- Của
tôi, thưa các Hiền giả.
- Thưa
Hiền giả, y này, áo lót này, đồ nệm này, tất cả của Hiền giả phải không?
- Vâng,
của tôi.
Họ nói:
- Này
Hiền giả, Thế Tôn chỉ cho phép ba y. Hiền giả xuất gia trong Giáo pháp đức Phật ít dục như vậy, lại
chất đầy cả kho vật dụng như vậy. Chúng tôi sẽ đưa Hiền giả đến bậc Ðạo Sư.
Rồi các
Tỷ-kheo này đem vị ấy đi đến bậc Ðạo Sư. Thấy vậy, bậc Ðạo Sư nói:
- Này
các Tỷ-kheo, phải chăng các ông đem đến đây một Tỷ-kheo ngoài ý muốn của vị ấy?
- Bạch
Thế Tôn, Tỷ-kheo này có nhiều đồ vật, và có cả kho vật dụng.
- Này
Tỷ-kheo, có phải ông có nhiều vật dụng?
- Thật
vậy, bạch Thế Tôn.
- Này
Tỷ-kheo, sao ông lại có nhiều vật dụng như vậy? Có phải ta nói lời tán thán
hạnh ít dục, biết đủ... viễn ly, tinh tấn không?
Nghe
bậc Ðạo Sư nói vậy, vị ấy sanh phẫn nộ và nói:
- Nay
tôi sẽ cởi đồ và đi như thế này.
Vị ấy
quăng y choàng ngoài, chỉ mặc một y trong và đứng giữa hội chúng.
Bậc Ðạo
Sư muốn khích lệ, liền nói:
- Này
Tỷ-kheo, thuở trước, ông là con quỷ nước Dạ-xoa đi tìm tàm quý, sống trong mười
hai nămđi tìm tàm quý. Sao nay ông đã xuất gia trong Giáo pháp Phật được tôn kính này, lại quăng y
choàng ngoài giữa bốn chúng, từ bỏ tàm quý và đứng như vậy?
Khi
nghe lời bậc Ðạo Sư, tàm quý khởi lên, vị ấy đắp y, đảnh lễ bậc Ðạo Sư, rồi ngồi
xuống một bên. Các Tỷ-kheo yêu cầu Thế Tôn giải thích rõ ràng ý nghĩa này. Thế
Tôn trình bày ý nghĩa sự việc bị tái sanh che lấp qua câu chuyện sau đây:
*
Vào
thời, vua Brahmadatta đang trị vì ở nước Kàsi
tại Ba-la-nại, Bồ-tát tái sanh làm con bà hoàng hậu của vua, và trong ngày đặt tên, được đặt tên là hoàng tử
Mahimsàsa (Ngưu Vương). Khi Bồ-tát bắt đầu đi được, chạy được, một con trai thứ hai ra đời và được đặt tên là Candakumara (Mặt Trăng). Khi đứa trẻ này bắt đầu đi được, chạy được, mẹ Bồ-tát mệnh chung. Vua đặt một người khác lên làm hoàng hậu rất được vua sủng ái. Bà hoàng hậu này, trong tình
thương yêu ấy, sanhđược một con trai đặt tên là hoàng tử Suriya (Mặt trời). Vua cha thấy con, tâm tư
hết sức hoan hỷ, hứa cho bà hoàng hậu một lời yêu cầu nhân danh con bà. Bà
hoàng hậu giữ lời hứa lại, mongđược thực hiện ý muốn mai sau. Khi con bà lớn
lên, bà tâu với vua:
-
Khi sanh con của thiếp, Ðại Vương có hứa cho một điều yêu cầu. Vậy hãy cho con thiếp làm vua.
Vua
từ chối, và nói:
-
Ta có hai con trai, sáng chói như đám lửa. Ta không thể giao vương quốc cho con hoàng hậuđược.
Nhưng
sau, thấy hoàng hậu cứ tiếp tục yêu cầu mãi, vua ngại bà có âm mưu ác hại các
con của mình, nên cho gọi họ lại và bảo:
-
Này các con thân, khi sinh hoàng tử Suriya, ta có cho một điều yêu cầu. Nay mẹ có yêu cầu vương quốc, ta
không muốn cho nó. Nhưng đàn bà hay có tánh ác,
có thể âm mưu ác hại các con. Vậy hai con hãy đi vào rừng, và khi nào ta mệnh chung hãy trở về
trị vì thành này là gia sản của nhà.
Nói
vậy, với nước mắt và lời than, vua hôn hai con trên đầu và đưa họ ra đi. Sau khi đảnh lễ vua cha, hai hoàng tử từ giã lâu đài ra đi. Hoàng tử Suriya đang chơi trong sân, thấy vậy, biết được sự việc, liền quyết định cùng ra đi với hai anh, và ra đi với họ.
Họ đi vào núi Tuyết. Bồ-tát bước xuống đường, ngồi trên một gốc cây và bảo hoàng tử
Suriya:
-
Này Suriya thân, hãy đi đến hồ nước này. Sau khi tắm và uống, hãy đem cho chúng ta nước uống trong các lá sen.
Cái
hồ ấy do Thiên Vương Tỳ-sa-môn (Vessavana) cho một con quỷ nước Dạ-xoa với lời
dặn: Trừ những người biết được thiên pháp, còn tất
cả những ai xuống hồ nước này, ngươi có quyền bắt ăn thịt. Những ai không xuống nước, thì người
không có quyền.
Từ đó về sau, quỷ Dạ-xoa hỏi thiên pháp những ai xuống hồ nước ấy, ai
không biết thì nó ăn thịt. Hoàng tử Suriya đi đến hồ nước ấy, không quan sát gì, cứ bước xuống hồ. Quỷ Dạ-xoa
bắt được và hỏi:
-
Ngươi có biết thiên pháp không?
Hoàng
tử đáp:
-
Ta biết. Ðó là mặt trời, mặt trăng.
Quỷ
Dạ-xoa nói:
-
Ngươi không biết thiên pháp.
Rồi
bắt chàng xuống nước, và giam chàng tại thủy cung của mình. Bồ-tát thấy em mình đi quá lâu, liền sai hoàng tử Canda đi. Quỷ Dạ-xoa cũng bắt chàng, hỏi về thiên pháp
là bốn phương. Quỷ Dạ-xoa nói chàng không biết thiên pháp, bắt chàng và cũng
giam tại chỗ ấy.
Bồ-tát
thấy Canda đi quá lâu, nghĩ rằng
chắc có trở ngại gì xảy ra cho mỗi người, liền tự mình điđến chỗ ấy. Thấy được dấu chân của hai người đi xuống, nghĩ rằng hồ ấy có thể là chỗ trú ẩn
của quỷ Dạ-xoa, Bồ-tát liền rút kiếm ra, cầm cung và đứng sẵn sàng. Con quỷ nước Dạ-xoa biết Bồ-tát
không chịu xuống nước, hóa hiện một người đi làm rừng, nói với Bồ-tát:
-
Này bạn, bạn đi đường mệt, sao bạn không xuống hồ này tắm, uống
nước, ăn củ sen, trang điểm với hoa sen, rồi đi chỗ nào bạn ưa thích.
Bồ-tát
thấy vậy, biết nó là quỷ Dạ-xoa, liền hỏi nó:
-
Có phải ngươi bắt các người em của ta?
-
Phải, ta bắt.
-
Vì sao?
-
Vì ai xuống hồ này đều thuộc về ta.
-
Có phải tất cả đều thuộc về người?
-
Trừ những ai biết được thiên pháp, còn lại đều thuộc về ta.
-
Ngươi có muốn biết thiên pháp không?
-
Có, ta muốn biết.
-
Nếu như vậy, ta sẽ nói cho ngươi về thiên pháp.
-
Vậy bạn hãy nói đi, ta sẽ nghe thiên
pháp.
Bồ-tát
nói:
-
Ta có thể nói thiên pháp, nhưng tay chân đều lấm bụi.
Quỷ
Dạ-xoa tắm cho Bồ-tát, cho ngài ăn, cho uống nước, cho
trang sức với bông hoa, cho thoa với hương thơm và trải một tọa sàng giữa một
cái rạp được trang hoàng lộng
lẫy. Bồ-tát ngồi trên tọa sàng, bắt quỷ Dạ-xoa ngồi dưới chân, và nói:
-
Hãy lắng tai, cẩn thận nghe thiên pháp.
Ngài
nói lên bài kệ này:
Ðầy đủ tàm và quý,
Chuyên tâm về bạch pháp,
An tịnh bậc chân nhân,
Ở đời gọi thiên pháp.
Chuyên tâm về bạch pháp,
An tịnh bậc chân nhân,
Ở đời gọi thiên pháp.
Dạ-xoa
nghe pháp thoại này, tâm sanh tịnh tín, thưa với Bồ-tát:
-
Thưa bậc Hiền trí, tôi cảm thấy tịnh tín đối với ngài và muốn cho ngài một người em. Vậy tôiđem đến người nào?
-
Hãy đem đến đứa trẻ nhất.
-
Thưa bậc Hiền trí, dầu ngài biết hoàn toàn thiên pháp, ngài lại không xử sự
theo thiên pháp.
-
Sao vậy?
-
Sao ngài lại chọn người em, bỏ người anh? Ngài không kính trọng tuổi lớn hơn
của nó.
-
Này Dạ-xoa, ta không những biết thiên pháp, mà còn xử sự đúng thiên pháp. Chính vì đứa em ấy mà chúng ta đi vào rừng này. Chính vì hạnh phúc cho đứa em ấy mà meï nó xin vua cha quốc độ. Và phụ vương chúng ta từ chối, không chấp
nhận lời yêu cầu, bằng lòng cho chúng ta sống ở trong rừng với mục đích bảo vệ chúng ta. Ðứa trẻ ấy không nghĩ đến trở về, đã đi theo chúng ta. Nếu
như ai nghe được rằng trong rừng,
một Dạ-xoa đã ăn nó rồi thì không ai có thể tin được. Chính vì sợ bị quở trách mà ta bảo ngươi đem nó cho ta.
-
Lành thay, lành thay, bậc Hiền trí. Ngài không những biết thiên pháp, mà ngài
còn thực hành thiên pháp.
Quỷ
Dạ-xoa nói lên sự đồng tình của mình, và đem trả cả hai người em. Rồi Bồ-tát nói với nó:
-
Này bạn, do kết quả việc ác ngươi làm từ trước, nên nay ngươi sanh làm Dạ-xoa, ăn thịt và máu của những người khác. Nay ngươi
lại làm điều ác nữa. Việc ác này
không thể làm ngươi thoát khỏi địa ngục v.v... Do vậy,
từ nay trở đi, hãy bỏ việc ác, làm
việc lành...
Và
Bồ-tát nhiếp phục quỷ Dạ-xoa.
Khi
nhiếp phục quỷ Daï-xoa, Bồ-tát sống ở đấy với sự bảo vệ của quỷ Dạ-xoa. Một ngày kia, nhìn lên các vì
sao, biết được phụ vương đã mệnh chung, Bồ-tát đem theo quỷ Dạ-xoa về Ba-la-nại, lấy lại vương
quốc, phong hoàng tử Canda làm phó vương, đặt hoàng tử Suriya làm tổng tư lệnh quân đội. Còn đối với quỷ Dạ-xoa, Bồ-tát cho làm trú xứ tại một địa điểm tốt đẹp, cho nó nhậnđược
vòng hoa tốt nhất, các hoa tốt nhất, các đồ ăn tốt nhất. Riêng
Bồ-tát trị vì theo Chánh Pháp và khi mệnh chung, đi theo nghiệp của mình.
*
Sau khi
kể pháp thoại, bậc Ðạo Sư liền thuyết giảng các Sự thật. Cuối bài giảng,
Tỷ-kheo ấy chứng quả Dự lưu. Bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác kể xong hai câu chuyện,
kết hợp chúng với nhau, và kết luận với sự nhận diện Tiền thân như sau:
Thời ấy,
Quỷ Dạ-xoa là Tỷ-kheo có nhiều đồ vật, hoàng tử Suriya là Ànanda, hoàng tử Canda
là Sàriputta (Xá-lợi-phất), và hoàng tử Mahimsàsa là Ta vậy.
-ooOoo-
7.
CHUYỆN NÀNG LƯỢM CỦI (Tiền thân Katthahàri)
Kính
thưa bậc Ðại Vương...
Câu
chuyện này được bậc Ðạo Sư kể khi ở Kỳ Viên về nàng Vàsabhakhattiyà. Câu
chuyện sẽđược tìm thấy trong Chương mười hai, Tiền thân Bhaddasala (số 465).
Truyền thuyết kể rằng nàng là con gái của vị Thích-ca tên Mahànàma với một nữ
tỳ lên là Nàgamundà, và về sau trở thành hoàng hậu vua nước Kosala. Nàng sanh
một con trai cho vua. Về sau vua biết được dòng họ nữ tỳ của nàng, liền truất phế địa vị của nàng, và truất phế
luôn người con trai là Vidudabha. Cả hai chỉ sống ở trong nội cung. Thế Tôn
biết được sự việc này, vào buổi sáng, với năm trăm Tỷ-kheo vây
quanh, đi đến sự trú xứ của vua, ngồi trên chỗ ngồi đã soạn sẵn, và nói:
- Thưa
Ðại Vương, Vàsabhakhattiyà ở đâu?
Vua kể
lại câu chuyện ấy.
- Thưa
Ðại Vương, Vàsabhakhattiyà là con gái của ai?
- Bạch
Thế Tôn, của Mahànàma.
- Khi
nàng đến, nàng là vợ của ai?
- Bạch
Thế Tôn, của tôi.
- Thưa
Ðại Vương, nàng là con gái của vua. Nàng đến làm vợ vua. Nàng sanh đứa con trai cho vua. Ðứa con
trai ấy, do lý do gì lại không làm chủ vương quốc thuộc sở hữu của người cha?
Thuở xưa, một vị vua có đứa con trai từ một người con gái đi lượm củi, và một cuộc gặp gỡ
tình cờ đã cho người con trai ấy vương quốc.
Vua yêu
cầu Thế Tôn làm sáng tỏ ý nghĩa câu chuyện. Thế Tôn liền kể câu chuyện quá khứ.
*
Thuở
xưa, ở Ba-la-nại, vua Brahmadatta đi vào ngự uyển với uy nghi lớn của nhà vua. Ðang đi qua lại để tìm trái cây và bông hoa, vua gặp một thiếu phụ đang lượm củi, vừa lượm vừa hát. Vuađắm say nàng
và ăn ở với nàng. Bồ-tát được thụ thai trong bụng nàng. Nàng cảm thấy
bụng nàng nặng nề như mang lưỡi tầm sét (lưỡi búa) của Ðế Thích. Biết rằng mình đã có thai, nàng tâu nhà vua việc ấy. Vua đưa cho nàng một chiếc nhẫn và nói:
-
Nếu sanh con gái, hãy giữ chiếc nhẫn này để lấy tiền nuôi dưỡng nó. Nếu sanh con trai, hãy đem nó đến ta với chiếc nhẫn này.
Nói
xong vua ra đi. Khi bào thai đúng thời, nàng sanh Bồ-tát. Ðến tuổi Bồ-tát đi được, chạy được, trong khi chơi ở
sân chơi, có tiếng la:
-
Ta bị đứa không có cha đánh.
Nghe
vậy, Bồ-tát đi đến mẹ và hỏi:
-
Ai là cha con?
-
Này con thân, con là con vua Ba-la-nại.
-
Thưa mẹ, có cái gì làm chứng?
-
Này con thân, vua có cho chiếc nhẫn này và nói: "Nếu sanh con gái, thì giữ
chiếc nhẫn này để nuôi dưỡng nó. Nếu
sanh con trai, hãy đem nó đến cho ta với chiếc nhẫn này." Nói xong,
nhà vua ra đi.
-
Thưa mẹ, sự tình là như vậy, sao mẹ không đưa con đến gặp cha?
Nàng
biết ý định của con, nên đem con đến cửa cung điện và xin ý kiến vua.
Khi được gọi vào, nàng đảnh lễ vua và tâu:
-
Thưa Ðại Vương, đây là con của Ðại
Vương.
Vua
biết vậy, nhưng cảm thấy xấu hổ trước đông đảo quần chúng nên nói:
-
Nó không phải con của ta.
-
Tâu Ðại Vương, đây là chiếc nhẫn của
ngài. Chắc ngài nhận ra được chiếc nhẫn này?
-
Ðây không phải là chiếc nhẫn của ta!
-
Tâu Ðại Vương, tôi không có vật gì khác để bảo chứng cho sự thật. Nếu đứa trẻ này là con ngài, nó sẽ đứng trên hư không. Nếu không phải, nó sẽ rơi xuống đất và chết!
Rồi
nàng cầm chân Bồ-tát quăng lên hư không. Bồ-tát ngồi kiết-già trên hư không và
với âm thanh dịu ngọt, tuyên bố pháp cho phụ vương, đọc bài kệ này:
Kính thưa bậc Ðại Vương.
Tôi là con trai ngài,
Kính thưa bậc nhân chủ,
Hãy nuôi dưỡng con lớn!
Vua nuôi dưỡng người khác,
Không nuôi con mình sao?
Tôi là con trai ngài,
Kính thưa bậc nhân chủ,
Hãy nuôi dưỡng con lớn!
Vua nuôi dưỡng người khác,
Không nuôi con mình sao?
Nghe
Bồ-tát ngồi trên hư không thuyết pháp như vậy, vua bèn nói:
-
Hãy đến, này con thân, ta sẽ nuôi con! Ta sẽ nuôi
con!
Và
vua đưa hai tay lên. Một ngàn bàn tay đưa lên để đón Bồ tát, nhưng Bồ-tát
không xuống bàn tay nào khác, chỉ xuống vào bàn tay nhà vua, và ngồi trên bắp
vế vua. Vua phong cho con làm phó vương, phong cho mẹ làm hoàng hậu. Sau khi
vua mệnh chung, Bồ-tát lên làm vua có tên là Katthavàhanaraja (vua của người
lượm củi), trị vì quốc với Chánh pháp, và khi mệnh chung ngàiđi theo nghiệp của
mình.
*
Sau khi
kể pháp thoại này cho vua nước Kosala, trình bày hai câu chuyện và kết hợp
chúng với nhau, bậc Ðạo Sư kết luận với sự nhận diện Tiền thân như sau:
- Thời
ấy, người mẹ là Mahàmaya, người cha là Tịnh Phạn vương, và vua Katthavàhana là
Ta vậy.
-ooOoo-
8.
CHUYỆN VUA GÀMANI (Tiền thân Gàmani)
Không
vội vã vượt qua...,
Câu
chuyện được bậc Ðạo Sư kể khi ở Kỳ Viên, về một Tỷ-kheo từ bỏ tinh
tấn. Trong Tiền thân này, câu chuyện về hiện tại và quá khứ sẽ được trình bày ở Chương mười
một, liên hệ đến Tiền thân Samvara. Câu chuyện ấy và câu chuyện này giống
nhau, nhưng các bài kệ khác nhau.
*
Hoàng
tử Gàmani an trú trong lời dạy của Bồ-tát, là em út của một trăm anh em, được vây quanh với một trăm anh em, ngồi dưới
lọng trắng, trên chỗ ngồi huy hoàng rực rỡ, nhìn sự quang vinh của mình, và
nghĩ: "Tất cả sự quang vinh này ta có được là do vị Ðạo Sư của chúng ta", rồi cảm thấy bằng lòng
thoải mái, nói lên lời cảm hứng này:
Không vội vã vượt qua,
Thành tựu quả mong đợi,
Gà-ma-ni hãy biết
Phạm hạnh ta thành phục.
Thành tựu quả mong đợi,
Gà-ma-ni hãy biết
Phạm hạnh ta thành phục.
Bảy
hay tám ngày sau khi vị ấy lên ngôi vua, tất cả những người anh đều đi về trú xứ của mình. Vua Gàmani vì theo Chánh Pháp, và khi mệnh
chung, đi theo nghiệp của mình.
Bồ-tát làm các công đức, và khi mệnh chung
cũng đi theo nghiệp của mình.
*
Sau khi
trình bày pháp thoại này, bậc Ðạo Sư thuyết giảng về các Sự thật. Cuối bài
giảng ấy, vị Tỷ-kheo từ bỏ tinh tấn chứng A-la-hán. Bậc Ðạo Sư, kể hai câu
chuyện và kết hợp chúng với nhau, rồi kết luận với sự nhận diện Tiền thân.
-ooOoo-
9.
CHUYỆN VUA MAKHÀDEVA (Tiền thân Makhàdeva)
Những
tóc bạc đầu ta...,
Câu
chuyện này được bậc Ðạo Sư kể khi ở Kỳ Viên, về sự kiện xuất gia lớn đã được kể trong tập
Nidana-kahthà. Khi ấy, các Tỷ-kheo đang ngồi tán thán sự ra đi của đấng Ðại Giác, thì Thế Tônđi đến Pháp đường, ngồi trên Phật tọa, hỏi
các Tỷ-kheo:
- Này
các Tỷ-kheo, các ông nay ngồi nói chuyện gì?
- Bạch
Thế Tôn, không có chuyện gì khác. Chúng con ngồi tán thán hạnh ra đi của Thế Tôn!
- Này
các Tỷ-kheo, không phải nay Như Lai mới ra đi, trước đây, Ta cũng ra đi rồi.
Các
Tỷ-kheo yêu cầu Thế Tôn giải thích câu chuyện ấy. Thế Tôn trình bày câu chuyện
quá khứ sau đây.
*
Thuở
ấy, tại nước Vidaha, có vị vua tên là Makha-deva ở Mithilà, hành trì đúng pháp của một vị Pháp Vương. Trải qua tám
mươi bốn ngàn năm, ngài đã vui chơi trong địa vị Ðại Vương. Sau một thời gian dài, vua
sống như vậy. Một hôm, ngài gọi người cắt tóc và nói:
-
Này khanh, khi nào khanh thấy tóc bạc trên đầu ta, hãy báo cho ta biết.
Người
cắt tóc, sau một thời gian dài, thấy giữa đám tóc đen nhánh của vua, có
một sợi tóc bạc, liền báo cho vua biết. Vua bảo:
-
Hãy nhổ sợi tóc bạc ấy và đặt nó trên tay ta.
Nghe
nói vậy, người cắt tóc lấy cái nhíp bằng vàng nhổ sợi tóc bạc và đặt lên bàn tay vua. Lúc ấy, nhà vua đang có tám mươi bốn ngàn năm còn lại để sống. Tuy vậy, thấy sợi tóc bạc, ngài cảm
thấy xúc động mạnh, như thần chết đã đến đứng gần đó, như bị nhốt vào trong ngôi nhà lá đang bốc cháy. Nhà vua suy nghĩ: "Này
Makhàdeva ngu si ơi, tóc bạc đã mọc lên, nhưng ngươi
chưa có thể loại trừ những phiền não này".
Và
khi nghĩ đến xuất hiện của sợi
tóc bạc, nhà vua cảm thấy bị nung đốt nội tâm, từ thân mồ hôi toát ra, áo quần như đè nén nhà vua và trở thành không thể chịu nổi.
Nhà vua nghĩ: "Hôm nay, ta phải ra đi xuất gia".
Sau
khi cho người cắt tóc hưởng lợi tức một làng trị giá một trăm ngàn đồng, vua cho gọi người con đầu và nói:
-Này
con thân, trên đầu ta, tóc bạc đã hiện ra. Ta nay đã già rồi. Các dục vọng liên hệ đến con người, ta đã hưởng thụ đầy đủ. Nay ta muốn tìm cầu
các dục lạc ở thiên giới. Nay là thời ta phải ra đi. Con hãy trị vì vương quốc này. Sau khi xuất
gia, ta sẽ ở trong Rừng xoài của Makhàdeva và sống theo pháp Sa-môn.
Các đại thần nghe tin vua muốn xuất gia, liền đến hỏi vua vì sao lại muốn xuất gia, vua cầm
sợi tóc bạc trong tay và nói bài kệ với cái đại thần:
Những tóc bạc đầu ta,
Xuất hiện, cướp tuổi xanh,
Các Thiên sứ đã đến,
Là thời ta xuất gia.
Xuất hiện, cướp tuổi xanh,
Các Thiên sứ đã đến,
Là thời ta xuất gia.
Sau
khi nói vậy, ngay trong ngày ấy, nhà vua từ bỏ vương quốc, xuất gia làm ẩn sĩ
trong Rừng xoài Makhàdeva. Trải qua tám mươi bốn ngàn năm tu tập bốn Phạm trú,
an trú thiền không có gián đoạn, ngài mệnh chung,
và sanh lên Phạm thiên giới; từ đấy lại sanh ở Mithilà
và làm vua tên Nimi. Sau khi quy tụ gia đình ly tán, ngài xuất gia tại Rừng Xoài ấy, tu tập Bốn Phạm trú,
và tái sanh Phạm Thiên giới.
*
Bậc Ðạo
Sư nói rằng Như Lai không phải chỉ nay mới ra đi với sự xuất gia ấy, mà thuở
trước cũng đã ra đi như vậy rồi. Trình bày pháp thoại này xong, Ngài thuyết về
Bốn Sự thật. Một số chứng được quả Dự lưu. Một số chứng được quả Nhất Lai. Một số chứng được quả Bất lai.
Sau khi
kể xong hai câu chuyện này và kết hợp chúng với nhau, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền
thân như sau:
- Thời
ấy, người cắt tóc là Ànanda, người con trai là La-hầu-la (Ràhula), và vua
Makhàdeva là Ta vậy.
-ooOoo-
10.
CHUYỆN TRƯỞNG LÃO SUKHAVIHÀRI (Tiền thân Sukhavihàri)
Người
không được bảo vệ...,
Câu
chuyện này, khi ở tại rừng xoài Anupiya, bậc Ðạo Sư đã kể về Trưởng lão Bhaddiya
Sukhavihàri. Trưởng lão Bhaddiya Sukhavihàri đã xuất gia cùng với sáu vị
trong hoàng tộc, cùng Upali là người thứ bảy. Trưởng lão Bhaddiya, trưởng lão
Kimbila, Trưởng lão Bhagu và Trưởng lão Upàli chứng quả A-la-hán, Trưởng lão
Ànanda chứng quả Dự Lưu, Trưởng lão Anuruddha chứng được thiên nhãn, Trưởng lão
Ðề-bà-đạt-đa chứng được thiền định. Câu chuyện của sáu vị trong hoàng tộc này
dẫn đến sự kiện ở Anupiya, sẽ được trình bày trong Tiền thân
Khandahàla (số 534).
Trong
thời kỳ làm vua, Tôn giả Bhaddiya tự bảo vệ mình như một vị Thiên sắp đặt sự bảo vệ, nay nghĩ đến tâm trạng sợ hãi mà vị ấy đã sống, dầu được bảo vệ với nhiều sự bảo
vệ, vẫn nằm lăn qua trở lại trên đại sàng tọa đặt trên lầu cao. Vị ấy so sánh
sự sợ hãi ấy với trạng thái không sợ hãi, vì nay vị ấy đã chứng quả A-la-hán, khi vị
ấy đi lang thang đây đó trong các khu rừng v.v... Khi nghĩ vậy, vị ấy nói
lên lời cảm hứng:
- Ôi
hạnh phúc thay! Ôi hạnh phúc thay!
Các
Tỷ-kheo nghĩ rằng Tôn giả Bhaddiya nói lên chánh trí của mình, nên trình lên
Thế Tôn. Thế Tôn nói:
- Này
các Tỷ-kheo, Bhaddiya không phải chỉ nay mới sống hạnh phúc, mà thuở trước vị
ấy cũng đã sống hạnh phúc!
Các
Tỷ-kheo thỉnh thoảng cầu Thế Tôn trình bày rõ ý nghĩa này. Thế Tôn làm sáng tỏ
ý nghĩa qua câu chuyện quá khứ.
*
Thuở
xưa, ở Ba-la-nại, trong khi vua Brahmadatta đang trị vì vương quốc, Bồ-tát sinh làm một vị Bà-la-môn giàu có ở
phương Bắc. Thấy nguy hiểm trong các dục, lợi ích trong xuất ly, ngài từ bỏ các
dục, vào núi Tuyết xuất gia làm ẩn sĩ, đạt được tám Thiền chứng. Số
tùy tùng của ngài lên đến năm trăm vị khổ
hạnh.
Khi
mùa mưa đến, ngài rời núi Tuyết
với chúng khổ hạnh vây quanh đi bộ qua làng, qua thị
trấn,đến Ba-la-nại, ngài trú ở ngôi vườn của vua, nương tựa nhà vua. Tại đấy, sau khi sống bốn tháng trong mùa mưa, ngài đến từ biệt nhà vua. Nhà vua nói:
-
Thưa Tôn giả, Tôn giả đã lớn tuổi, Tôn giả
sống ở núi Tuyết làm gì? Hãy để các đệ tử đến núi Tuyết, còn Tôn giả ở lại đây.
Bồ-tát
giao năm trăm người khổ hạnh cho đệ tử trưởng và nói:
-
Con hãy đi, sống ở núi Tuyết với
những người này. Còn ta sẽ sống ở đây.
Vị đệ tử trưởng ấy, trước kia làm vua, sau tử bỏ
vương quốc lớn, xuất gia, lấy đề tài làm Thiền quán,
chứng được tám Thiền chứng. Vị ấy sống ở núi Tuyết với
các vị khổ hạnh.
Một
hôm, muốn yết kiến bổn sư, vị ấy gọi các vị khổ hạnh kia và bảo:
-
Hãy sống thoải mái ở đây, ta đi đảnh lễ bổn sư rồi lại về.
Vị
ấy đi đến bổn sư, đảnh lễ ngài, chào mừng
ngài rất chân tình, rồi trải tấm thảm, nằm xuống bên cạnh bổn sư. Lúc bấy giờ,
nhà vua đi đến ngôi vườn để yết kiến vị khổ hạnh, đảnh lễ ngài rồi ngồi xuống một bên. Vị đệ tử khổ hạnh thấy vua đến, nhưng không đứng dậy, vẫn nằm dài và nói lời cảm hứng:
-
Ôi hạnh phúc thay! Ôi hạnh phúc thay!
Nhà
vua không hoan hỷ với vị khổ hạnh thấy vua mà không đứng dậy, nên nói với Bồ-tát.
-
Thưa Tôn giả, người khổ hạnh này có lẽ đã ăn quá đầy đủ nên nằm sung sướng, nói lên lời cảm hứng.
-
Thưa Ðại Vương, người khổ hạnh này trước cũng làm vua như ngài. Vị ấy suy nghĩ:
"Trước kia còn là cư sĩ, đầy đủ uy quyền nhà vua, được bảo vệ bởi nhiều người có binh khí cầm tay,
nhưng không được hạnh phúc như thế
này. Nay do tự mình được hạnh phúc xuất gia, được hạnh phúc thiền định, nên nói lên lời cảm hứng như vậy".
Ðể
giảng pháp thoại cho nhà vua, Bồ-tát đọc bài kệ này:
Người không được bảo vệ,
Không bảo vệ người khác,
Thưa Ðại Vương, người ấy.
Thật sự được an lạc.
Vì không chờ đợi gì,
Ðối với các dục vọng.
Không bảo vệ người khác,
Thưa Ðại Vương, người ấy.
Thật sự được an lạc.
Vì không chờ đợi gì,
Ðối với các dục vọng.
Nhà
vua nghe pháp thoại xong, cảm thấy thoải mái, đảnh lễ, rồi đi về cung. Vị đệ tử đảnh lễ bổn sư, rồi đi về núi Tuyết. Bồ-tát tiếp tục sống tại đấy, thiền định không gián đoạn và khi mạng chung,
sanh lên Phạm thiên giới.
*
Bậc Ðạo
sư, kể lại hai câu chuyện, kết hợp chúng với nhau rồi nhận diện Tiền thân:
- Lúc
ấy, vị đệ tử là Tôn giả Bhaddiya, còn vị bổn sư chính là Ta đây.
-ooOoo-
0 Komentar