Phẩm V
-ooOoo-
Tập Năm Kệ
(XXXVIII) Một Tỷ Kheo Ni
Vô Danh (Therì. 130)
Trong thời đức Phật hiện
tại, nàng sanh ở Devadaha và trở thành người nữ điều dưỡng cho Mahàpajàpati. Nàng tên là Vàddhesi nhưng tên gia tộc nàng không được biết đến khi
chủ nàng xuất gia, nàng cũng xin xuất gia theo. Nhưng trong hai mươi lăm năm
nàng bị các dục chi phối ám ảnh, không được thiền định dầu cho đến một sát-na.
Nàng than van tình trạng của nàng cho đến khi nàng được nghe Dhammadinnà thưyết pháp. Rồi tâm nàng xa lánh các dục, nàng
tu tập thiền định và cuối cùng nàng chứng được sáu thắng trí. Suy tư trên quả
chứng của mình, nàng nói lên bài kệ:
67. Ðã được hai lăm năm,
Từ khi ta xuất gia,
Cho đến búng ngón tay,
Tâm ta không lắng dịu.
Từ khi ta xuất gia,
Cho đến búng ngón tay,
Tâm ta không lắng dịu.
68. Tâm không được an
tịnh,
Vì đầy ứ dục tham,
Ta giơ tay khóc than,
Ta đi vào tinh xá.
Vì đầy ứ dục tham,
Ta giơ tay khóc than,
Ta đi vào tinh xá.
69. Ta đến vị Ni ấy,
Ðồng tín nữ với ta,
Nàng thuyết pháp cho ta,
Về uẩn, xứ và giới.
Ðồng tín nữ với ta,
Nàng thuyết pháp cho ta,
Về uẩn, xứ và giới.
70. Nghe pháp nàng giảng
dạy,
Ta ngồi vào một bên,
Ta hết đời quá khứ,
Thiên nhãn được thanh tịnh,
Với trí biết tâm người,
Lỗ tai được thanh tịnh.
Ta ngồi vào một bên,
Ta hết đời quá khứ,
Thiên nhãn được thanh tịnh,
Với trí biết tâm người,
Lỗ tai được thanh tịnh.
71. Ta chứng thần túc
thông,
Ta đạt được lậu tận,
Sáu thắng trí ta chứng,
Lời Phật dạy đã làm.
Ta đạt được lậu tận,
Sáu thắng trí ta chứng,
Lời Phật dạy đã làm.
(XXXIX) Vimala, Xưa Làm Một Kỹ Nữ (Therì. 131)
Trong thời đức Phật hiện
tại, nàng được sanh ở Vesàli làm con gái một người bán sắc đẹp sinh sống.
Nàng được đặt tên là Vimalà. Khi nàng lớn lên, và suy tư với những tư tưởng
uế nhiễm, nàng thấy Tôn giả Mahà Moggallàna đang đi khất thực ở Vesàli, nàng cảm thấy thương yêu Tôn giả và đi theo về tinh xá để cám
dỗ. Có người nói nàng được các ngoại đạo xúi dục nên làm như vậy. Tôn giả chỉ
trích hành động không tốt đẹp của nàng và thuyết pháp cho nàng, như đã được ghi
trong Trưởng lão Tăng Kệ. (Therà. 1150-57), nàng cảm thấy xấu hổ và trở thành
một tín nữ. Về sau cùng nàng xuất gia, tinh tấn tu tập, và không bao lâu chứng
quả A-la-hán, nghĩ đến quả chứng của mình, nàng phấn khởi nói lên bài kệ:
72. Say mê với giai cấp,
Với dung sắc tuổi xuân,
Với danh xưng, danh vọng,
Ta ỷ lại tuổi trẻ,
Ðối với những người khác,
Ta khinh bỉ khinh thường.
Với dung sắc tuổi xuân,
Với danh xưng, danh vọng,
Ta ỷ lại tuổi trẻ,
Ðối với những người khác,
Ta khinh bỉ khinh thường.
73. Thân này ta trang
điểm,
Ta khêu gợi kẻ ngu,
Ta đứng trong khung cửa,
Tại cửa hàng buôn sắc,
Như thợ săn, ác độc,
Ðang gieo đặt bẫy mồi.
Ta khêu gợi kẻ ngu,
Ta đứng trong khung cửa,
Tại cửa hàng buôn sắc,
Như thợ săn, ác độc,
Ðang gieo đặt bẫy mồi.
74. Ta khoa trương trang
sức,
Phô bày nhiều chỗ kín,
Ðể châm biếm nhiều người,
Ta làm nhiều ảo thuật,
Hôm nay ta khất thực,
Ðầu trọc, đắc đại y,
Ta ngồi dưới gốc cây,
Ta chứng định không tầm.
Phô bày nhiều chỗ kín,
Ðể châm biếm nhiều người,
Ta làm nhiều ảo thuật,
Hôm nay ta khất thực,
Ðầu trọc, đắc đại y,
Ta ngồi dưới gốc cây,
Ta chứng định không tầm.
75. Mọi khổ ách đoạn
tận,
Cả cõi trời, cõi người,
Quăng bỏ mọi lậu hoặc,
Ta mát lạnh tịch tịnh.
Cả cõi trời, cõi người,
Quăng bỏ mọi lậu hoặc,
Ta mát lạnh tịch tịnh.
(VL) Sìha (Therì. 131)
Trong thời đức Phật hiện
tại, nàng được sanh ở Vesàli, con gái của một người chị võ tướng Sìha. Do vậy, nàng được đặt tên là Sìha, như tên của người cậu
của nàng. Khi đến tuổi trưởng thành, nàng nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp cho người
cậu, Sìha trở thành một tín nữ và được phép cha mẹ cho xuất gia. Khi nàng tu
tập thiền quán, nàng không thể chận đứng tâm tư nàng chạy theo những ngoại vật
khả ý. Bảy năm bị dày vò, nàng kết luận: 'Làm sao ta thoát khỏi nếp sống uế
nhiễm này. Ta hãy chết, tốt hơn'. Rồi nàng cột sợi dây trên cây, đút cổ vào
thòng lọng để thắt cổ chết. Trong giây phút cuối cùng với sự cố gắng tinh thần
chất chứa từ trước cho đến nay, nàng cố gắng triển khai thiền quán. Ðối với
nàng đời sống hiện tại thật sự là đời sống cuối cùng, trong giờ phút cuối cùng,
trí tuệ nàng được viên mãn, và với nội tâm thiền quán nàng chứng được quả
A-la-hán với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ. Mở thòng lọng ra nàng trở về lại tinh
xá. Ðược thành một vị A-la-hán, nàng sung sướng phấn khởi nói lên bài kệ;
77. Không như lý tác ý,
Bị dục tham ám ảnh,
Ta trước bị dao động
Không chế ngự được tâm.
Bị dục tham ám ảnh,
Ta trước bị dao động
Không chế ngự được tâm.
78. Bị phiền não chi
phối,
Lạc tưởng ngự trị ta
Tâm ta không thăng bằng,
Bị tham tâm chi phối.
Lạc tưởng ngự trị ta
Tâm ta không thăng bằng,
Bị tham tâm chi phối.
79. Bảy năm sống ốm yếu,
Vàng da, dung sắc xấu
Ðêm ngày không an lạc
Ta sống chịu khổ đau.
Vàng da, dung sắc xấu
Ðêm ngày không an lạc
Ta sống chịu khổ đau.
80. Do vậy ta lấy dây,
Ði vào giữa khu rừng,
Tốt hơn ta treo cổ,
Còn hơn sống hạ liệt.
Ði vào giữa khu rừng,
Tốt hơn ta treo cổ,
Còn hơn sống hạ liệt.
81. Làm chắc dây thòng
lọng,
Ta cột ở cành cây,
Quàng thòng lọng quanh cổ,
Tâm ta liền giải thoát.
Ta cột ở cành cây,
Quàng thòng lọng quanh cổ,
Tâm ta liền giải thoát.
(XLI) Sundarì Nandà (Therì. 132)
Trong đời đức Phật hiện
tại, nàng được sanh trong một gia đình quý tộc thuộc dòng họ Thích-ca. Ðược tên
là Nandà. Nàng có danh là Nandà hoa khôi. Khi bậc Thế Tôn giác ngộ, đi đến Kapilavatthu và độ cho Nandà và Rahula xuất gia. Khi vua Suddhodana(Tịnh Phạn) mệnh chung và bà Mahàpajàpati xuất gia, nàng Nandà tự nghĩ: 'Anh trưởng của ta đã chối từ không thừa tự quốc độ, xuất
gia và trở thành đấng Thế Tôn, một bậc siêu nhân. Con của Ngài là Rahula cũng xuất gia, anh của ta vua Nandà cũng xuất gia. Mẹ của ta Mahàpajàpati, chị của ta, mẹ Rahula cũng xuất gia. Vậy ta ở nhà làm gì? Ta hãy xuất
gia'. Như vậy nàng xuất gia không phải vì lòng tin, mà chính vì lòng thương yêu
bà con trong gia đình. Nàng xuất gia như vậy sau khi từ bỏ gia đình, nàng vẫn
tự kiêu với sắc đẹp của mình và không chịu đến yết kiến đức Phật, sợ đức Phật
quở trách nàng. Nhưng trường hợp của nàng cũng giống như trường hợp với
Tỷ-kheo-ni Abhirùpa Nandà (xem kệ XIX) với sự sai khác nhau: khi nàng thấy
hóa thân của một nữ nhân do đức Phật hiện ra, nữ nhân ấy dần dần trở thành già
xấu, tâm của nàng dựa trên tánh vô thường và đau khổ, hướng đến thiền định.
Rồi đức Phật thuyết pháp
cho nàng như sau:
82. Nandà, hãy nhìn
thân,
Bệnh bất tịnh, hôi thúi,
Hãy tu tâm bất tịnh,
Nhứt tâm khéo định tỉnh.
Bệnh bất tịnh, hôi thúi,
Hãy tu tâm bất tịnh,
Nhứt tâm khéo định tỉnh.
83. Như thân này thân
ấy,
Như thân ấy thân này,
Hôi thối và rữa nát,
Chỉ kẻ ngu thích thú.
Như thân ấy thân này,
Hôi thối và rữa nát,
Chỉ kẻ ngu thích thú.
84. Như vậy quán thân
này,
Ngày đêm không mệt mỏi,
Với trí tuệ của con,
Do vậy hãy thoát ly,
Với trí tuệ của con,
Thoát khỏi kiêu sắc đẹp,
Và người si nhìn thấy,
Với cái nhìn như thật.
Ngày đêm không mệt mỏi,
Với trí tuệ của con,
Do vậy hãy thoát ly,
Với trí tuệ của con,
Thoát khỏi kiêu sắc đẹp,
Và người si nhìn thấy,
Với cái nhìn như thật.
Rồi nàng nghe theo lời
dạy, với trí tuệ an trú vững chắc trên quả thứ nhất. Muốn giúp nàng đạt được
những quả vị cao hơn, Thế Tôn dạy thêm cho nàng: Này Nandà, trong cái thân này không có một chút gì là tinh túy, chỉ là một
đống xương và thịt bị già, chết chi phối. Như đã được nói trong tập Pháp cú:
85. Thành này làm bằng
xương,
Quét tô bằng máu thịt,
Ở đây già và chết,
Mạn, lừa đảo chất chứa.
(Pháp Cú. 150)
Quét tô bằng máu thịt,
Ở đây già và chết,
Mạn, lừa đảo chất chứa.
(Pháp Cú. 150)
Khi đức Phật nói xong,
nàng liền chứng quả A-la-hán. Và nghĩ đến sự chiến thắng của mình, nàng sung
sướng với lời dạy của đức Bổn Sư và nói thêm:
86. Với tâm không phóng
dật,
Như lý, quán thân ấy,
Tánh như thật thân này,
Ðược thấy trong và ngoài.
Ta nhàm chán thân thể,
Nội tâm được ly tham,
Không phóng dật ly hệ,
Ta an bình tịch tịnh.
Như lý, quán thân ấy,
Tánh như thật thân này,
Ðược thấy trong và ngoài.
Ta nhàm chán thân thể,
Nội tâm được ly tham,
Không phóng dật ly hệ,
Ta an bình tịch tịnh.
(XLII) Manduttara (Therì. 132)
Trong đời đức Phật hiện
tại, nàng sanh trong một gia đình Bà-la-môn, nước Kuru thànhKammàsadamma. Sau khi học hỏi ngoại đạo, nàng xuất gia
theo phái Ni-kiền-tử và vì nàng thuyết pháp giỏi, nàng cầm cành cây diêm phù và
đi khắp xứ Ấn Ðộ như nàngBhaddà (XLVI). Nàng gặp Tôn giả Mahà-Moggallàna và bị ngài chiến thắng trong cuộc tranh luận. Nàng nghe theo lời
dạy của Tôn giả Moggallàna, xuất gia trong giáo pháp đức Bổn Sư và không
bao lâu chứng quả A-la-hán với nghĩa tín thọ, pháp tín thọ. Suy tư trên chiến
thắng của mình, nàng sung sướng nói lên bài kệ:
87. Trước ta đảnh lễ
lửa,
Trăng, mặt trời chư thiên
Ta đi đến bến sông,
Ta xuống nước, lê tắm.
Trăng, mặt trời chư thiên
Ta đi đến bến sông,
Ta xuống nước, lê tắm.
88. Chấp nhận nhiều giới
cấm
Ta chỉ cạo nửa đầu
Ta nằm ngủ dưới đất,
Cơm tối ta không ăn.
Ta chỉ cạo nửa đầu
Ta nằm ngủ dưới đất,
Cơm tối ta không ăn.
89. Thích trang điểm
trang sức,
Ưa tắm rửa, xoa bóp,
Thân này ta cung dưỡng,
Thỏa mãn các dục tham,
Ưa tắm rửa, xoa bóp,
Thân này ta cung dưỡng,
Thỏa mãn các dục tham,
90. Từ khi được lòng tin
Không nhà ta xuất gia,
Ta thấy thân như Phật,
Nhờ sạch các dục tham.
Không nhà ta xuất gia,
Ta thấy thân như Phật,
Nhờ sạch các dục tham.
91. Mọi sanh hữu chặt
đứt,
Cả ham muốn hy cầu,
Mọi ách nạn giải tỏa,
Ta đạt tâm an tịnh.
Cả ham muốn hy cầu,
Mọi ách nạn giải tỏa,
Ta đạt tâm an tịnh.
(XLIII) Mittakali (Therì. 132)
Trong thời đức Phật hiện
tại, nàng được sanh trong một gia đình Bà-la-môn, ở xứ dân chúng Kuru, tại thành Kammàsadamma. Khi đến tuổi trưởng thành, nàng được nghe
giảng về Bốn niệm xứ và xuất gia làm Tỷ-kheo-ni. Trong bảy năm nàng ưa thích
được cúng dường, được trọng vọng và thường hay gây lộn cãi vã về sau nàng biết
như lý tác ý, triển khai thiền quán và chứng được quả A-la-hán với pháp tín
thọ, nghĩa tín thọ. Nghĩ đến sự chiến thắng của mình, nàng nói lên sự phấn khởi
của nàng.
92. Vì lòng tin, xuất
gia,
Bỏ nhà, sống không nhà,
Ta sống tâm hướng mạnh,
Theo lợi dưỡng cung kính.
Bỏ nhà, sống không nhà,
Ta sống tâm hướng mạnh,
Theo lợi dưỡng cung kính.
93. Từ bỏ đích tối
thượng,
Phục vụ đích hạ liệt,
Bị phiền não ngự trị,
Bỏ đích Sa-môn hạnh.
Phục vụ đích hạ liệt,
Bị phiền não ngự trị,
Bỏ đích Sa-môn hạnh.
94. Ngồi trong phòng
tinh xá,
Ta cảm bị dao động
Ta đi vào tà đạo,
Khát ái ngự trị ta.
Ta cảm bị dao động
Ta đi vào tà đạo,
Khát ái ngự trị ta.
95. Ngắn ngủi sinh mạng
ta,
Già, bệnh đang đè nặng,
Trước khi thân hủy diệt,
Giờ phóng dật không còn.
Già, bệnh đang đè nặng,
Trước khi thân hủy diệt,
Giờ phóng dật không còn.
96. Như thật ta quán
sát,
Sinh diệt của các uẩn,
Tâm giải thoát, ta chứng,
Lời Phật dạy làm xong.
Sinh diệt của các uẩn,
Tâm giải thoát, ta chứng,
Lời Phật dạy làm xong.
(XLIV) Sakulà (Therì. 133)
Trong thời đức Phật hiện
tại, nàng được sanh làm Bà-la-môn, ở Sàvatthi, tên là Sakulà.Khi đức Phật nhận tinh xá Jetavana, nàng trở thành người
tín nữ, và về sau được nghe một vị A-la-hán thuyết pháp, nàng phát nguyện xuất
gia, tinh cần triển khai thiền quán và cuối cùng chứng quả A-la-hán. Về sau tùy
theo lời phát nguyện, nàng được Thế Tôn tán thán là Thiên nhãn đệ nhất. Sau khi
suy tư đến kết quả chứng của mình, nàng phấn khởi hoan hỷ và nói lên bài kệ:
97. Khi sống ở gia đình,
Nghe Tỷ kheo thuyết pháp,
Ta thấy pháp vô uế,
Ðạo Niết-bàn bất tử.
Nghe Tỷ kheo thuyết pháp,
Ta thấy pháp vô uế,
Ðạo Niết-bàn bất tử.
98. Từ bỏ con trai, gái,
Cả tài sản lúa gạo,
Cạo tóc ta xuất gia
Sống đời sống không nhà.
Cả tài sản lúa gạo,
Cạo tóc ta xuất gia
Sống đời sống không nhà.
99. Ta làm người học nữ,
Tu tập con đường chánh,
Ðoạn tận tham và sân,
Ðoạn từng lậu hoặc một.
Tu tập con đường chánh,
Ðoạn tận tham và sân,
Ðoạn từng lậu hoặc một.
100. Thọ giới
Tỷ-kheo-ni,
Ta nhớ đời quá khứ,
Thiên nhãn ta thanh tịnh,
Không uế, khéo tu tập.
Ta nhớ đời quá khứ,
Thiên nhãn ta thanh tịnh,
Không uế, khéo tu tập.
101. Thấy các hàng ngoại
diện,
Do nhân sanh biến hoại,
Ta đoạn mọi lậu hoặc,
Mát lạnh ta tịch tịnh.
Do nhân sanh biến hoại,
Ta đoạn mọi lậu hoặc,
Mát lạnh ta tịch tịnh.
(XLV) Sonà (Therì. 133)
Trong thời đức Phật hiện
tại, nàng được sanh trong một gia đình quý tộc ở Sàvatthi. Sau khi lập gia đình, nàng sanh được mười người con trai, con
gái và được biệt danh là 'người nhiều con'. Khi người chồng xuất gia nàng giao
lại cho các con trai, con gái cai quản gia đình và giao cả gia sản cho các con
trai, không giữ gì cho thân mình. Các con trai và con dâu nuôi dưỡng nàng, không
bao lâu trở mặt khinh rẻ nàng. Nàng buồn cho thái độ các dâu con, xuất gia trở
thành Tỷ-kheo-ni. Nàng suy nghĩ, nàng đã lớn tuổi mới xuất gia, nên hết sức
tinh cần,tinh tấn. Trong khi hầu hạ các Trưởng lão Ni, nàng thức đêm tu học,
nàng kiên trì học tập, không biếng nhác, không xao nhãng, như người chụp nắm
các cột trong mái hiên, hay chụp nắm cành cây trong đêm tối để tránh đầu khỏi
va chạm. Hạnh tinh tấn của nàng được mọi người biết, và bậc Ðạo Sư biết được
trí tuệ của nàng đã chín muồi, nên phóng hào quang, hóa hiện trước mặt nàng và
nói lên bài kệ:
Ai sống một trăm năm,
Không thấy câu bất tử,
Tốt hơn sống một ngày,
Thấy được câu bất tử.
(Pháp cú. 114)
Không thấy câu bất tử,
Tốt hơn sống một ngày,
Thấy được câu bất tử.
(Pháp cú. 114)
Khi đức Phật nói câu này
xong, nàng chứng được quả A-la-hán. Thế Tôn tán thán là 'Tỷ-kheo-ni tinh tấn đệ
nhất'. Một hôm, suy tư đến quả chứng của mình, nàng phấn khởi nói lên những bài
kệ:
102. Ta sanh được mười
con,
Trong thân chất chứa này,
Do vậy ta già yếu,
Ta đến Tỷ-kheo-ni.
Trong thân chất chứa này,
Do vậy ta già yếu,
Ta đến Tỷ-kheo-ni.
103. Nàng thuyết pháp
cho ta,
Về uẩn xứ và giới,
Nghe pháp nàng thuyết giảng.
Cắt tóc ta xuất gia.
Về uẩn xứ và giới,
Nghe pháp nàng thuyết giảng.
Cắt tóc ta xuất gia.
104. Ta học lời nàng
dạy,
Thiên nhãn ta thanh tịnh,
Ta biết các đời trước,
Chỗ ta sống đời trước.
Thiên nhãn ta thanh tịnh,
Ta biết các đời trước,
Chỗ ta sống đời trước.
105. Ta tu pháp vô
tướng,
Nhất tâm khéo thiền tịnh,
Tức thời ta giải thoát,
Không chấp thủ tịch tịnh.
Nhất tâm khéo thiền tịnh,
Tức thời ta giải thoát,
Không chấp thủ tịch tịnh.
106. Năm uẩn được liễu
tri,
Ðứng lại, gốc bị cắt,
Tham dục, ta không có,
Căn cứ địa kiên trì?
Từ nay ta không còn
Vấn đề phải tái sanh.
Ðứng lại, gốc bị cắt,
Tham dục, ta không có,
Căn cứ địa kiên trì?
Từ nay ta không còn
Vấn đề phải tái sanh.
(XLVI) Bhadda Kundalakess (Therì. 134)
Trong thời đức Phật hiện
tại, nàng sanh ra ở Rajagaha (Vương Xá), trong gia đình vị thủ khố của nhà
vua, và được tên là Bhaddà. Lớn lên và luôn luôn có người hầu hạ, nàng thấy
ngang qua khe cửa, Satthuka, con vị giáo sĩ của vua, một kẻ cướp bị dẫn đi
hành hình, theo lệnh của vua. Nàng bỗng yêu Satthuka và nằm trên giường nàng
nói: 'Nếu ta không được chàng, ta sẽ chết'. Người cha vì thương nàng, nên hối
lộ cho những người lính và đưa Satthuka đến gặp nàng. Satthuka khởi lòng tham đồ trang
sức của nàng nên nói với nàng là khi bị dẫn đến 'hòn núi của kẻ trộm', chàng có
phát nguyện: Nếu chàng được tha, chàng sẽ làm lễ cúng tạ ơn và nhờ nàng sửa
soạn lễ tạ. Muốn được chàng bằng lòng, nàng vâng theo ý muốn của Satthuka, tự trang điểm với các đồ trang sức, lên xe đi với chàng và cùng
đi đến 'hòn núi của kẻ trộm' Satthuka không cho người hầu hạ đi theo, lấy đồ trang sức
cúng dường, và leo lên núi một mình với nàng, nhưng không nói lời thân ái với
nàng. Do thái độ của chàng, nàng tìm ra được mưu kế của chàng. Rồi Satthuka bảo nàng cởi áo ngoài ra, dùng áo gói đồ trang sức nàng đang mang
theo, Nàng hỏi chàng nàng có làm điều gì sái quấy chăng, và chàng trả lời:
'Nàng thật ngu si ta đến đây có phải để làm lễ cúng dường đâu! Ta chỉ đến đây
để lấy đồ trang sức của nàng'. Nàng nói: 'Này chàng thân yêu, các đồ trang sức
này của ai, và đồ trang sức nào thuộc của em'. Chàng nói: 'Ta không biết gì về
sự phân chia này'. Nàng nói: 'Thôi được, chàng thân yêu, nhưng chàng cho em một
sở nguyện, cho em mang đồ trang sức và được hôn chàng! Satthuka bằng lòng và nàng ôm hôn chàng đàng trước, rồi
ôm chàng hôn đàng sau, và trong khi ấy xô chàng ngã xuống vực núi. Một Thiên
nhân ở trên núi, thấy nàng làm vậy liền khen rằng:
Không phải là lúc nào,
Ðàn ông cũng khôn hơn!
Nữ nhân khi lanh lẹ,
Cũng tỏ khôn ngoan hơn,
Không phải là lúc nào,
Ðàn ông cũng khôn hơn!
Nữ nhân cũng khôn ngoan,
Chỉ nghĩ một phút giây!
Ðàn ông cũng khôn hơn!
Nữ nhân khi lanh lẹ,
Cũng tỏ khôn ngoan hơn,
Không phải là lúc nào,
Ðàn ông cũng khôn hơn!
Nữ nhân cũng khôn ngoan,
Chỉ nghĩ một phút giây!
Rồi Bhaddà suy nghĩ: 'Nay ta không thể về nhà được khi sự việc đã xảy ra như
vậy. Vậy từ đây ta sẽ xuất gia'. Rồi nàng xuất gia theo phái Ni-kiền Tử. Họ hỏi
nàng: 'Nàng ưng xuất gia đến mức độ nào?' Nàng trả lời: 'Tôi muốn xuất gia vào
hạng tối thượng!' Rồi họ nhổ tóc của nàng và khi tóc nàng dài và quăn lại, nàng
được gọi là Bhaddà tóc quăn. Nhưng trong khi nàng tập sự học hỏi
giáo lý của phái Ni-kiền Tử, nàng biết rằng giáo lý ấy không có gì đặc biệt.
Nàng từ giã chúng Ni-kiền Tử, tìm học những bậc minh sư có danh tiếng và cuối
cùng không ai có thể tranh luận với nàng. Nàng vun lên một đống cát gần cửa đi
vào làng, trồng lên một nhánh cây diêm phù, bảo mấy đứa con nít xem ai nhổ lên
nhánh cây ấy. Sau một tuần không có ai nhổ lên cành cây, nàng liền đem cành cây
ấy đi một nơi khác.
Thế Tôn trong khi đi
thuyết giảng, đến tinh xá Jetavana gần Sàvatthi, đúng lúc Bhaddàtóc quăn trồng nhánh cây ấy tại cửa thành Sàvatthi. Tôn giả Sàriputta vào thành, thấy cành cây ấy, muốn nhiếp phục
nàng, bảo các đứa con nít dẫm lên cành cây ấy, để mở đầu cuộc tranh luận, nàng
nghĩ rằng cuộc tranh luận sẽ không có kết quả nếu không có quần chúng đỡ đầu.
Vì vậy nàng quy tụ một số đông quần chúng đến chứng kiến cuộc tranh luận giữa
nàng và Tôn giả Sàriputta. Trước hết Tôn giả Sàriputta để cho nàng hỏi và Tôn giả trả lời, cho đến khi
nàng không còn gì để hỏi nữa và ngồi im lặng.
Rồi Tôn giả hỏi nàng:
'Thế nào gọi là một?' Nàng Bhaddà tóc quăn thú nhận không thể trả lời được. Tôn
giả nói, một chút như vậy mà nàng không trả lời được, thì nàng có thể biết thêm
được gì? Rồi Tôn giả giáo giới cho nàng và nàng xin quy y Tôn giả.Tôn giảSàriputta khuyên nên quy y Thế Tôn, bậc Ðạo Sư loài Người
và Trời. Nàng vâng lời, chiều lại đi đến yết kiến Thế Tôn khi ngài đang thuyết
pháp. Sau khi đảnh lễ nàng đứng một bên, Thế Tôn thấy căn cơ nàng đã thuần thục
liền nói:
Dầu nói ngàn câu kệ,
Nhưng không chút lợi ích,
Tốt hơn nói một câu,
Nghe xong được tịnh lạc.
(Pháp cú 101)
Nhưng không chút lợi ích,
Tốt hơn nói một câu,
Nghe xong được tịnh lạc.
(Pháp cú 101)
Khi đức Phật nói xong
bài kệ này, nàng chứng được quả A-la-hán với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ.
Nàng xuất gia, thọ giới
với quả A-la-hán và chính đức Phật trao đại giới cho nàng. Rồi nàng đi đến tinh
xá Tỷ-kheo-ni, sống an lạc hạnh phúc. Nàng sung sướng phấn khởi nói lên những
bài kệ:
107. Trước ta sống một
y,
Tóc cạo, thân mang bùn,
Không lỗi xem có lỗi,
Có lỗi xem là không.
Tóc cạo, thân mang bùn,
Không lỗi xem có lỗi,
Có lỗi xem là không.
108. Ban ngày rời tinh
xá,
Trên ngọn núi Linh Thứu,
Ta thấy Phật vô uế,
Dẫn đầu chúng Tỷ-kheo.
Trên ngọn núi Linh Thứu,
Ta thấy Phật vô uế,
Dẫn đầu chúng Tỷ-kheo.
109. Quỳ gối ta đảnh lễ,
Ðối diện ta chắp tay,
Hãy đến này Bhaddà,
Ta được thọ đại giới.
Ðối diện ta chắp tay,
Hãy đến này Bhaddà,
Ta được thọ đại giới.
110. Ta đi khắp Angà,
Mogadhà, Vajjì,
Quốc độ Kosala,
Mười lăm năm không nợ,
Ăn đồ ăn quốc độ.
Mogadhà, Vajjì,
Quốc độ Kosala,
Mười lăm năm không nợ,
Ăn đồ ăn quốc độ.
111. Làm được nhiều công
đức,
Tín nam này có tuệ,
Cho Bhaddà chiếc y,
Thoát khỏi mọi triền phược.
Tín nam này có tuệ,
Cho Bhaddà chiếc y,
Thoát khỏi mọi triền phược.
(XLVII) Patàcàrà (Therì. 134)
Trong thời đức Phật hiện
tại, nàng sanh trong gia đình vị thủ ngân khố nhà vua ởSàvatthi. Khi đến
tuổi trưởng thành nàng giao du với một người đầy tớ trong nhà. Khi cha mẹ nàng
định ngày gả nàng cho một chàng trai xứng đôi, nàng trốn đi với người tình nhân
và sống tại một ngôi làng nhỏ. Khi nàng sắp sanh, nàng bảo chồng đưa nàng về
nhà cha mẹ, vì ở đây không có ai săn sóc nàng, nhưng chồng nàng cứ hẹn lần hẹn
hồi cho đến khi nàng biết chồng nàng không muốn đi về. Nàng liền chờ chồng đi
vắng, sắp đặt công việc, tin cho người láng giềng biết rồi nàng bỏ về nhà cha
mẹ. Khi người chồng về, người chồng liền đuổi theo, sợ nàng không có người săn
sóc. Chồng nàng bắt gặp nàng và giữa đường nàng sinh được người con, rồi hai vợ
chồng lại đi trở về làng. Ðến kỳ sinh nở thứ hai, sự việc xảy ra như lần trước,
nhưng có điểm khác biệt như sau: giữa đường mưa to gió lớn nổi lên, người chồng
tìm lá và cây làm cái chòi cho nàng tránh mưa, nhưng bị con rắn từ gò mối bò ra
cắn chồng nàng chết tại chỗ. Trong cơn đau khổ chờ đợi chồng nàng, nàng bồng
đứa con trên ngực và giữa mưa to gió lớn nàng nằm phục xuống đất để che chở cho
hai đứa con trải qua một đêm như vậy cho đến sáng. Ðến sáng, nàng đi tìm chồng
và thấy chồng bị rắn cắn chết rồi. Nàng khóc than suốt đêm. Vì mưa to, nước
sông dâng lên đến đầu gối, nàng lại quá yếu nên không thể bồng hai đứa con lội
qua sông. Nàng để đứa lớn ở bờ bên này và bồng đứa nhỏ lội qua sông. Rồi nàng
đặt đứa nhỏ nằm trên khăn trùm đầu, dùng cành cây che lại để nó trên bờ, còn
nàng lội qua sông lại để đem đứa lớn qua. Nhưng đến giữa dòng, quay mình trở
lại thời thấy một con diều hâu, tưởng đứa con nít là một miếng thịt, nên bay
xuống tha đứa nhỏ đi. Dầu cho người mẹ có xua đuổi và la lên nhưng vì quá xa
nên không làm gì được. Còn đứa lớn bên bờ bên này, nghe tiếng mẹ la tưởng là mẹ
kêu liền lội xuống nước đi qua và bị nước cuốn trôi. Thế là hai đứa con và cả
người chồng bị chết. Nàng vừa khóc vừa đi về thành Sàvatthi, lại được tin hồi hôm mưa to gió lớn làm sụp đổ căn nhà của cha
mẹ nàng, giết chết cả cha mẹ và em nàng vừa làm lễ hỏa táng xong. Trong cơn đau
khổ khủng khiếp chồng chất, nàng hóa điên dại, ăn mặc hở hang, nàng vừa khóc
vừa than:
Hai con ta đã chết,
Chồng ta cũng chết luôn,
Rồi trên giàn hỏa táng,
Cha ta và mẹ ta,
Cùng đứa em trai ta,
Vừa làm lễ thiêu đốt.
Chồng ta cũng chết luôn,
Rồi trên giàn hỏa táng,
Cha ta và mẹ ta,
Cùng đứa em trai ta,
Vừa làm lễ thiêu đốt.
Rồi nàng đi lang thang
đây đó, khóc than nỗi đau khổ của nàng, và vì nàng mang xiêm áo tả tơi, nàng
được gọi là Patacàra (kẻ mang xiêm áo). Người đi đường thấy nàng gọi
nàng là người điên, có kẻ ném đá, có người thì quăng đồ nhớp bụi bặm trên nàng.
Bậc Ðạo Sư ở Jetavana đang thuyết pháp, thấy nàng đi lang thang như
vậy và biết căn cơ trí tuệ của nàng đã chín muồi, ngăn cản không cho người ta
xua đuổi nàng và cho phép lại gần, khiến nàng hồi tỉnh lại, và cảm thấy xấu hổ
với cách ăn mặc của mình, nàng nằm phục xuống đất. Một người quăng cho nàng một
tấm y, nàng quấn y vào mình và thỉnh Phật cứu độ cho nàng và nàng kể lại thân
phận của nàng: 'Thế Tôn hãy cứu độ cho con. Một đứa con bị chim diều hâu mang
đi; một đứa con bị nước cuốn trôi; còn chồng con bị rắn cắn chết; cha mẹ và em
con bị căn nhà sụp đổ giết chết và bị hỏa táng. Ðức Phật nói: 'Này Patacàra, đừng nghĩ rằng nàng đến với một người có thể cứu độ cho nàng.
Như nay nàng than khóc vì con chết, vì chồng chết, cha mẹ chết. Cũng vậy, nàng
đã khóc than kiếp luân hồi của nàng vì rằng con, chồng và cha mẹ bị chết của
nàng còn nhiều hơn nước sông bốn biển'.
Nước bốn biển ít hơn,
Nước mắt của loài Người,
Khóc than vì đau khổ,
Vậy sao nàng hủy hoại,
Sanh mạng của chính mình,
Trong khóc than sầu khổ!
Nước mắt của loài Người,
Khóc than vì đau khổ,
Vậy sao nàng hủy hoại,
Sanh mạng của chính mình,
Trong khóc than sầu khổ!
Nghe Thế Tôn dạy về con
đường không thể diệt khổ, nỗi đau khổ của nàng được nhẹ dần. Rồi đức Phật
khuyên thêm: 'Ôi Patàcàrà, một người mệnh chung, thì con cháu, bà con
không có thể làm chỗ nương tựa. Cho đến hiện tại, họ cũng không giúp đỡ được
gì. Do vậy, người có trí sống đời sống giới đức thanh tịnh, thành tựu con đường
hướng đến Niết-bàn. Rồi đức Phật dạy:
Các con, cha, bà con,
Không phải chỗ nương tựa,
Khi thân hoại mạng chung,
Bà con huyết thống nàng,
Không thể che chở nàng!
Thấy được sự thật này.
Kẻ trí sống giới đức,
Và mau chóng thành tựu,
Con đường hướng Niết-bàn.
Không phải chỗ nương tựa,
Khi thân hoại mạng chung,
Bà con huyết thống nàng,
Không thể che chở nàng!
Thấy được sự thật này.
Kẻ trí sống giới đức,
Và mau chóng thành tựu,
Con đường hướng Niết-bàn.
Khi bậc Ðạo Sư nói xong,
nàng chứng được quả Dự Lưu và xin được xuất gia. Ðức Phật đưa nàng đến chúng
Tỷ-kheo-ni và cho phép nàng được xuất gia.
Rồi nàng tinh tấn tu
hành, cố gắng thành đạt những quả vị cao hơn. Một hôm lấy nước trong bát rửa
chân, khi nàng đổ nước, thời nước chảy đến một khoảng đường ngắn rồi biến mất.
Nàng đổ thêm nước, và con đường nước chảy dài hơn, và lần thứ ba, nàng lại đổ
nuớc và con đường nước chảy còn dài hơn trước khi biến mất. Dựa trên sự kiện
này làm nền tảng suy tư, nàng nghĩ: 'Cũng vậy là loài Người, chết trẻ, chết nửa
chừng và chết già'. Và đức Phật ở tại hương phòng của Ngài phóng hào quang,
hiện lên trước mặt nàng và dạy rằng: 'Hỡi nàng Patàcàrà, như vậy là cuộc sống của loài Người, cuối cùng cũng phải mạng
chung. Vậy tốt hơn là sống như thế nào để thấy sự sanh diệt của năm uẩn, dầu
cho chỉ thấy được một ngày, hay chỉ một sát-na, còn hơn sống một trăm năm mà
không thấy được sự thật ấy:
Người sống một trăm năm,
Không thấy pháp sanh diệt,
Tốt hơn sống một ngày,
Thấy được pháp sanh diệt.
(Pháp cú. 113)
Không thấy pháp sanh diệt,
Tốt hơn sống một ngày,
Thấy được pháp sanh diệt.
(Pháp cú. 113)
Khi Thế Tôn nói xong, Patàcàrà chứng được quả A-la-hán với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ. Suy tư
đến quả chứng của mình, khi còn là một học nữ, nàng tán thán sự kiện đã giúp
nàng chứng được quả vị cao hơn, và nàng nói lên bài kệ:
112. Với cây, cày ruộng
đất,
Gieo hột giống trên đất,
Loài Người được tài sản,
Nuôi dưỡng vợ và con.
Gieo hột giống trên đất,
Loài Người được tài sản,
Nuôi dưỡng vợ và con.
113. Sao ta, giới đầy đủ
Làm theo Ðạo Sư dạy,
Lại không chứng Niết-bàn,
Không nhác, không dao động.
Làm theo Ðạo Sư dạy,
Lại không chứng Niết-bàn,
Không nhác, không dao động.
114. Khi ta đang rửa
chân,
Làm cho dòng nước chảy,
Thấy được nước rửa chân
Từ cao chảy xuống thấp,
Nhờ vậy, tâm được định,
Như ngựa hiền khéo luyện.
Làm cho dòng nước chảy,
Thấy được nước rửa chân
Từ cao chảy xuống thấp,
Nhờ vậy, tâm được định,
Như ngựa hiền khéo luyện.
115. Rồi ta cầm cây đèn,
Bước vào ngôi tinh xá,
Nằm trên chiếc giường nhỏ,
Ta nhìn quán ngọn đèn.
Bước vào ngôi tinh xá,
Nằm trên chiếc giường nhỏ,
Ta nhìn quán ngọn đèn.
116. Rồi lấy cây kim
nhỏ,
Dìm tim đèn xuống dần,
Thấy cây đèn Niết-bàn,
Tâm ta được giải thoát.
Dìm tim đèn xuống dần,
Thấy cây đèn Niết-bàn,
Tâm ta được giải thoát.
(XLVIII) 30 Tỷ Kheo Ni
Tuyên Bố Về Chánh Trí Dưới Sự Lãnh Ðạo Của Patàcàrà(Therì. 135)
Trong thời đức Phật hiện
tại, chúng sanh trong nhiều gia đình sai khác, được nghePatàcàrà thuyết pháp, trở thành tín nữ và cuối cùng xuất
gia. Trong khi họ làm trọn những phận sự của mình, và sống đầy đủ giới hạnh,
nàng thuyết cho họ lời giáo huấn như sau:
117. Loài Người trong
tuổi trẻ,
Cầm chày giã lúa gạo,
Loài Người được tài sản,
Nuôi dưỡng vợ và con.
Cầm chày giã lúa gạo,
Loài Người được tài sản,
Nuôi dưỡng vợ và con.
118. Hãy hành lời Phật
dạy,
Không làm gì nhiệt não,
Rửa chân thật mau lẹ,
Hãy ngồi xuống một bên,
Chú tâm tu tâm chỉ,
Làm theo lời Phật dạy.
Không làm gì nhiệt não,
Rửa chân thật mau lẹ,
Hãy ngồi xuống một bên,
Chú tâm tu tâm chỉ,
Làm theo lời Phật dạy.
Rồi các Tỷ-kheo-ni ấy,
nghe theo lời dạy của Patàcàrà, an trú trên thiền quán, tu tập trí tuệ cho đến
khi căn cơ thuần thục, chứng được quả A-la-hán, với pháp tín thọ, nghĩa tín
thọ. Rồi suy nghĩ trên quả chứng, họ phấn khởi sung sướng và họ thêm vào các
bài kệ của Patàcàrà với những bài kệ của mình:
119. Sau khi nghe lời
dạy,
Lời Patàcàrà,
Sau khi rửa chân xong,
Họ vào ngồi một bên,
Chú tâm tu tâm chỉ,
Làm theo lời Phật dạy.
Lời Patàcàrà,
Sau khi rửa chân xong,
Họ vào ngồi một bên,
Chú tâm tu tâm chỉ,
Làm theo lời Phật dạy.
120. Trong đêm canh thứ
nhất,
Họ nhớ đời quá khứ
Trong đêm canh chặng giữa,
Thiên nhãn được thanh tịnh,
Trong đêm canh cuối cùng,
Khối si ám phá tan.
Họ nhớ đời quá khứ
Trong đêm canh chặng giữa,
Thiên nhãn được thanh tịnh,
Trong đêm canh cuối cùng,
Khối si ám phá tan.
121. Ðứng dậy họ lễ
chân,
Vị giáo giới cho họ,
Như Chư Thiên ba mươi
Ðảnh lễ vị Sakka,
Vị không bị đánh bại,
Ở lại chỗ chiến trường,
Ðặt Patàcàrà,
Vào hàng bậc lãnh đạo,
Chúng tôi sẽ được sống,
Ba minh, không lậu hoặc.
Vị giáo giới cho họ,
Như Chư Thiên ba mươi
Ðảnh lễ vị Sakka,
Vị không bị đánh bại,
Ở lại chỗ chiến trường,
Ðặt Patàcàrà,
Vào hàng bậc lãnh đạo,
Chúng tôi sẽ được sống,
Ba minh, không lậu hoặc.
(XLIX) Candà (Therì. 135)
Trong thời đức Phật hiện
tại, nàng làm con một vị Bà-la-môn, ít được người biết đến, tại một làng
Bà-la-môn. Từ lúc nhỏ, gia đình bị mất hết tài sản, và nàng lớn lên trong điều
kiện rất thiếu thốn.
Trong gia đình, một bệnh
thời khí phát ra giết hại cả nhà, và nàng phải đi xin nhà này qua nhà khác với
một cái bát vỡ. Một ngày kia, nàng đến chỗ Tỷ-kheo-ni Patàcàrà khi vị này vừa ăn xong. Các Tỷ-kheo-ni thấy nàng
trong tình cảnh đáng thương hại, tiếp nàng với lòng từ mẫn và cho nàng ăn. Sung
sướng được thấy hạnh phúc tốt đẹp của các Tỷ-kheo-ni, nàng đến gần Patàcàrà, đảnh lễ, nàng ngồi xuống một bên để nghe pháp. Nàng nghe với tâm
hồn phấn khởi, và lo lắng vì kiếp sống luân hồi, nàng xuất gia. Nàng theo lời
giáo giới của vị Tỷ-kheo-ni, nàng an trú thiền quán, nhiệt tâm tinh cần. Rồi
với nghị lực và lời phát nguyện và sự chín muồi của trí tuệ, không bao lâu nàng
chứng được quả A-la-hán với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ. Suy tư đến quả chứng
của mình, nàng phấn khởi nói lên bài kệ:
122. Trước ta sống bất
hạnh,
Không chồng và không con,
Không bè bạn, bà con,
Không có cơm, có áo.
Không chồng và không con,
Không bè bạn, bà con,
Không có cơm, có áo.
123. Ta cầm gậy bình bát
Ði ăn xin từng nhà,
Bị lạnh nóng đày đọa,
Bảy năm ta sống vậy.
Ði ăn xin từng nhà,
Bị lạnh nóng đày đọa,
Bảy năm ta sống vậy.
124. Thấy được
Tỷ-kheo-ni,
Ta nhận đồ ăn uống,
Sau khi đến, ta xin,
Ðược xuất gia không nhà.
Ta nhận đồ ăn uống,
Sau khi đến, ta xin,
Ðược xuất gia không nhà.
125. Nàng Patàcàarà,
Thương ta, cho xuất gia,
Rồi giảng dạy cho ta,
Hướng dẫn đến chân đế.
Thương ta, cho xuất gia,
Rồi giảng dạy cho ta,
Hướng dẫn đến chân đế.
126. Nghe xong lời nàng
giảng.
Ta làm theo lời dạy,
Lời giảng bậc tôn Ni,
Không phải lời trống không,
Ta chứng được Ba minh,
Ta không còn lậu hoặc.
Ta làm theo lời dạy,
Lời giảng bậc tôn Ni,
Không phải lời trống không,
Ta chứng được Ba minh,
Ta không còn lậu hoặc.
0 Komentar