Chương XV (tt)
504.
Chuyện Ðại vương Bhallàtiya (Tiền thân Bhallàtiya)
Ngày
xưa có đại đế Bhal-là..,
Câu
chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về hoàng hậu Mallikà
(Mạt-lợi) tức Nương tử Vũ Quý Hoa.
Một
buổi kia, chuyện kể rằng có việc xích mích giữa hoàng hậu và vua về quyền lợi
trong đời sống nội cung, vua nổi giận và không muốn nhìn mặt bà. Bà
suy nghĩ: "Ta chắc đức Như Lai không biết đức vua đang giận hờn ta".
Khi bậc
Ðạo sư biết chuyện ấy, ngày hôm sau, Ngài đi vào khất thực tại Ba-la-nại
có Tăng chúng theo hầu, rồi đến tận cung môn. Vua bước ra đón ngài và cầm lấy
bình bát của Ngài, vừa rước Ngài lên thượng lầu, mời Tăng chúng ngồi theo thứ
tự thích hợp, rồi dâng nước chào mừng cùng với thực phẩm thượng vị. Sau buổi
cơm, vua ngồi xuống một bên. Bậc Ðạo sư hỏi:
- Tại
sao hoàng hậu Mallikà không đến?
Vua đáp: - Chỉ vì lòng kiêu mạn ngu
si về cảnh vinh quang của bà ta đấy.
Bậc Ðạo
sư bảo:
- Này
Ðại vương, xưa kia, đã lâu lắm rồi, khi Ðại vương còn là một tiên nam, Ðại vương
rời xa bạn đời của mình chỉ một đêm thôi mà về sau cứ mãi
thương tiếc cả bảy trăm năm đó.
Rồi
theo lời thỉnh cầu của vua, Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Một
thuở nọ, có một vị vua tên là Bhallatiya trị vì tại Ba-la-nại. Do nỗi say mê
món thịt nai rừng bốc khói trên hỏa lò lôi cuốn, ngài giao phó vương quốc cho
các đại thần, rồi trang bị đủ năm thứ vũ khí cùng
một bầy chó săn thông minh tinh luyện, ngài lên xa giá rời kinh tiến về vùng
Tuyết Sơn. Ngài cứ du hành dọc theo sông Hằng mãi tận nơi không còn lên cao được nữa, liền đi theo một phụ lưu thêm vài đoạn đường, vừa giết nai, lợn rừng vừa thưởng
thức món thịt nướng kia, cho đến khi ngài trèo tận một đỉnh cao.
Nơi đó có một con suối đầy thi vị chảy xuống khắp
vùng, nước cao lên tận ngực, song vào các mùa khô ráo chỉ gần đến đầu gối. Lúc ấy các đàn cá rùa, đủ loại tung tăng, dải cát dưới nước sáng loáng
như bạc, cây cối hai bên bờ rủ xuống nặng trĩu hoa trái, chim chóc, ong bướm
say sưa hút nước trái chín và mật ong, bay lượn dưới bóng cây râm mát, nơi đây từng đàn hươu nai đủ loại vẫn lai vãng luôn. Bấy giờ trên bờ suối
xinh đẹp này có đôi tiên đang ôm chặt nhau, âu
yếm vuốt ve nhau rồi bỗng tiếng khóc than rền rĩ vô cùng thảm thiết.
Trong
lúc vua trèo lên đỉnh Gandhamàdana (Hương
Sơn) men theo dòng suối này, ngài chợt nhận thấy đôi tiên kia. "Tại sao họ cứ khóc than rền
rĩ như thế này?", ngài suy nghĩ, "Ta muốn hỏi xem sao". Ngài chỉ
cần liếc bầy chó săn và búng ngón tay, bầy chó thuần chủng thấy dấu hiệu này là
hiểu ngay phần việc của chúng, liền bò vào dưới bụi rậm và nằm sát đất. Vừa khi ngài đã thấy chúng đã khuất dạng, ngài đặt cung tên cùng các vũ khi kia cạnh gốc cây gần đó và rón rén đi nhẹ nhàng đến gần đôi tiên để khỏi ai nghe lọt bước chân, rồi ngài cất
tiếng hỏi:
-
Tại sao các ngươi than khóc?
Ðể
giải thích việc này, bậc Ðạo sư ngâm ba vần kệ:
1. Ngày xưa có đại đế Bhal-là,
Ngài vẫn đi săn bắn thật xa,
Trèo tận Hương Sơn và chợt thấy
Ðầy hoa nở rộ với yêu ma.
2. Ngài truyền bầy chó thảy nằm yên,
Ðặt các cung tên xuống đất liền,
Tiến bước để đưa lời ướm hỏi,
Chốn kia vừa thấy cặp thần tiên:
3. "Ðông đã qua, sao lại trở về
Hàn huyên tâm sự cạnh sơn khê?
Các ngươi sao giống phàm nhân quá,
Người gọi loài gì, nói trẫm nghe".
Ngài vẫn đi săn bắn thật xa,
Trèo tận Hương Sơn và chợt thấy
Ðầy hoa nở rộ với yêu ma.
2. Ngài truyền bầy chó thảy nằm yên,
Ðặt các cung tên xuống đất liền,
Tiến bước để đưa lời ướm hỏi,
Chốn kia vừa thấy cặp thần tiên:
3. "Ðông đã qua, sao lại trở về
Hàn huyên tâm sự cạnh sơn khê?
Các ngươi sao giống phàm nhân quá,
Người gọi loài gì, nói trẫm nghe".
Nghe
vua hỏi, vị tiên nam không nói gì, nhưng tiên nữ đáp lại như sau:
4. Tam đỉnh, Hoàng Sơn, núi Mã-la,
Chúng thần men suối mát, băng qua,
Thú rừng cứ tưởng là người thật,
Song bọn đi săn gọi quỷ ma.
Chúng thần men suối mát, băng qua,
Thú rừng cứ tưởng là người thật,
Song bọn đi săn gọi quỷ ma.
Kế đó vua ngâm ba vần kệ:
5. Các ngươi âu yếm tựa tình nhân,
Song lại khóc than thật não nùng,
Tiên chúng giống như người thế tục,
Cớ sao than khóc, hãy phân trần!
6. Các ngươi mơn trớn tựa uyên ương,
Song khóc đầy ai oán thảm thương,
Ðôi lứa khác nào người thế tục,
Sao sầu đau thế? Nói cho tường!
7. Như các tình nhân, cứ vuốt ve,
Song lời than khóc thật lê thê,
Các ngươi trông giống người trần tục,
Sao quá bi ai? Nói trẫm nghe!
Song lại khóc than thật não nùng,
Tiên chúng giống như người thế tục,
Cớ sao than khóc, hãy phân trần!
6. Các ngươi mơn trớn tựa uyên ương,
Song khóc đầy ai oán thảm thương,
Ðôi lứa khác nào người thế tục,
Sao sầu đau thế? Nói cho tường!
7. Như các tình nhân, cứ vuốt ve,
Song lời than khóc thật lê thê,
Các ngươi trông giống người trần tục,
Sao quá bi ai? Nói trẫm nghe!
Các
vần kệ sau là do đôi bên đối đáp nhau:
Tiên
nữ:
8. Chàng, thiếp một đêm cách biệt nhau,
Không tình ân ái, nặng u sầu,
Tương tư, song chẳng bao giờ có
Ðêm ấy trở về được nữa đâu.
Không tình ân ái, nặng u sầu,
Tương tư, song chẳng bao giờ có
Ðêm ấy trở về được nữa đâu.
Quân
vương:
9. Sao nằm đêm ấy quá cô đơn,
Ðã khiến ngươi rền rĩ tiếc thương?
Ðôi trẻ giống như người thế tục
Mất tiền, hay lão phụ từ trần?
Ðã khiến ngươi rền rĩ tiếc thương?
Ðôi trẻ giống như người thế tục
Mất tiền, hay lão phụ từ trần?
Tiên
nữ:
10. Ðằng kia, bóng mát, suối tuôn ra,
Giữa đá, rồi cơn bão thổi qua,
Vì quá lo âu tìm kiếm thiếp,
Nên tình quân đã lội qua bờ.
11. Trong lúc đôi chân thiếp rộn ràng,
Thiếp đi tìm cỏ nội hoa ngàn,
Làm vòng đeo, tặng chàng yêu dấu
Và thiếp, vừa khi gặp lại chàng.
12. Kết bó chuông vàng, đồng thảo xanh,
Thủy tiên trắng mát đượm sương lành
Cho chàng yêu cả vòng hoa cổ
Cùng thiếp, vừa khi gặp bạn tình.
13. Rồi sau thiếp hái bó hoa hồng
Là thứ hoa xinh đẹp nhất vùng,
Ðể kết liền cho chàng với thiếp
Vòng hoa đeo cổ, lúc tương phùng.
14. Kế hoa là lá, thiếp đi tìm
Về trải đầy trên mặt đất mềm
Nơi suốt đêm trường chung gối mộng,
Uyên ương thiêm thiếp giấc nồng êm.
15. Gỗ quế, trầm hương kế tiếp liền
Ðặt trên hòn đá, thiếp đâm nghiền,
Làm hương tắm khắp chàng yêu dấu
Và thiếp, mùi hương cực diệu huyền!
16. Ðứng bên bờ suối chảy tuôn dòng,
Thiếp hái hoa sen mãi đến cùng:
Chiều xuống, suối kia tràn khắp chốn,
Muốn sang bờ nọ, hết chờ mong!
17. Ðành đứng cả hai ở mỗi bờ,
Nhìn nhau tha thiết, ngóng ngang qua,
Ôi, bao tiếng khóc cười đôi ngả,
Ðêm ấy cùng đau đớn xót xa!
18. Sáng lại, vừng đông đã mọc cao,
Khi nhìn con suối cạn khô mau,
Thiếp, chàng vội bước, ôm nhau chặt,
Lập tức cùng cười, khóc với nhau!
19. Gần bảy trăm năm chỉ thiếu ba,
Từ khi chàng, thiếp phải chia xa,
Tim yêu tan nát sầu ly biệt,
Dằng dặc tưởng chừng trọn kiếp qua!
Giữa đá, rồi cơn bão thổi qua,
Vì quá lo âu tìm kiếm thiếp,
Nên tình quân đã lội qua bờ.
11. Trong lúc đôi chân thiếp rộn ràng,
Thiếp đi tìm cỏ nội hoa ngàn,
Làm vòng đeo, tặng chàng yêu dấu
Và thiếp, vừa khi gặp lại chàng.
12. Kết bó chuông vàng, đồng thảo xanh,
Thủy tiên trắng mát đượm sương lành
Cho chàng yêu cả vòng hoa cổ
Cùng thiếp, vừa khi gặp bạn tình.
13. Rồi sau thiếp hái bó hoa hồng
Là thứ hoa xinh đẹp nhất vùng,
Ðể kết liền cho chàng với thiếp
Vòng hoa đeo cổ, lúc tương phùng.
14. Kế hoa là lá, thiếp đi tìm
Về trải đầy trên mặt đất mềm
Nơi suốt đêm trường chung gối mộng,
Uyên ương thiêm thiếp giấc nồng êm.
15. Gỗ quế, trầm hương kế tiếp liền
Ðặt trên hòn đá, thiếp đâm nghiền,
Làm hương tắm khắp chàng yêu dấu
Và thiếp, mùi hương cực diệu huyền!
16. Ðứng bên bờ suối chảy tuôn dòng,
Thiếp hái hoa sen mãi đến cùng:
Chiều xuống, suối kia tràn khắp chốn,
Muốn sang bờ nọ, hết chờ mong!
17. Ðành đứng cả hai ở mỗi bờ,
Nhìn nhau tha thiết, ngóng ngang qua,
Ôi, bao tiếng khóc cười đôi ngả,
Ðêm ấy cùng đau đớn xót xa!
18. Sáng lại, vừng đông đã mọc cao,
Khi nhìn con suối cạn khô mau,
Thiếp, chàng vội bước, ôm nhau chặt,
Lập tức cùng cười, khóc với nhau!
19. Gần bảy trăm năm chỉ thiếu ba,
Từ khi chàng, thiếp phải chia xa,
Tim yêu tan nát sầu ly biệt,
Dằng dặc tưởng chừng trọn kiếp qua!
Quân
vương:
20. Ðời người kỳ hạn đến bao giờ?
Nếu chuyện này truyền lại thuở xưa,
Hoặc giả theo lời nhiều trưởng lão,
Thì đừng sợ hãi, nói cùng ta.
Nếu chuyện này truyền lại thuở xưa,
Hoặc giả theo lời nhiều trưởng lão,
Thì đừng sợ hãi, nói cùng ta.
Tiên
nữ:
21. Một ngàn mùa hạ thắm, an khương,
Chẳng chịu nhiều đau khổ đoạn trường,
Ít gặp ưu sầu, đầy cực lạc,
Suốt đời ngập hạnh phúc yêu đương!
Chẳng chịu nhiều đau khổ đoạn trường,
Ít gặp ưu sầu, đầy cực lạc,
Suốt đời ngập hạnh phúc yêu đương!
Khi
vua nghe vậy, ngài suy nghĩ: "Các sinh vật này thấp kém còn hơn loài
người, thế mà vẫn khóc than mãi suốt bảy trăm năm ròng chỉ vì một đêm xa cách nhau, huống hồ ta đây, chúa tể cả một quốc độ rộng ba trăm dặm,
lại đành bỏ hết cả vinh quang huy hoàng ấy đằng sau để phiêu bạt trong chốn núi rừng hoang dã. Thật là một
sai lầm nghiêm trọng".
Ngài
liền quay về lập tức. Khi đến thành Ba-la-nại,
triều thần hỏi ngài có thấy việc gì hi hữu ở vùng Tuyết Sơn chăng, ngài kể cho
hội chúng nghe toàn thể câu chuyện kỳ dị kia, rồi từ đó về sau ngài thực hành bố thí và an hưởng cảnh
vinh hoa của mình.
Ðể
giải thích việc này bậc Ðạo sư ngâm vần kệ sau:
22. Nhờ được đôi tiên khuyến bảo vầy,
Ðại vương trở lại bước đường ngay,
Bỏ săn, cấp dưỡng người nghèo túng,
An hưởng tháng ngày lướt nhẹ bay.
Ðại vương trở lại bước đường ngay,
Bỏ săn, cấp dưỡng người nghèo túng,
An hưởng tháng ngày lướt nhẹ bay.
Và
Ngài ngâm thêm hai vần kệ nữa:
23. Rút ra bài học của tiên kia,
Ðừng cãi nhau, mà sửa thói lề,
Kẻo các ngài sầu như bọn chúng
Suốt đời, vì chính bởi lầm mê.
24. Lấy ngay bài học tự đôi tiên,
Ðừng khấu tranh, mà sửa thói quen,
Kẻo chịu đau buồn như bọn chúng
Suốt đời, vì chính lỗi lầm riêng.
Ðừng cãi nhau, mà sửa thói lề,
Kẻo các ngài sầu như bọn chúng
Suốt đời, vì chính bởi lầm mê.
24. Lấy ngay bài học tự đôi tiên,
Ðừng khấu tranh, mà sửa thói quen,
Kẻo chịu đau buồn như bọn chúng
Suốt đời, vì chính lỗi lầm riêng.
Bấy
giờ hoàng hậu Mallikà đứng dậy từ bảo tọa khi
bà nghe đức Như Lai thuyết giáo,
rồi bà chấp hai tay đảnh lễ Ngài rất cung
kính, trong lúc bà ngâm vần kệ cuối cùng:
25. Giờ đây kính bạch Thánh nhân,
Với lòng nhu thuận phục tuân sẵn sàng,
Con nghe được các lời vàng,
Tràn đầy thiện ý, chứa chan nhân từ,
Muôn vàn phước đức Tôn Sư!
Ngài vừa khuyến nhủ, ưu tư trút liền!
Với lòng nhu thuận phục tuân sẵn sàng,
Con nghe được các lời vàng,
Tràn đầy thiện ý, chứa chan nhân từ,
Muôn vàn phước đức Tôn Sư!
Ngài vừa khuyến nhủ, ưu tư trút liền!
Từ đó về sau, vua xứ Kosala chung sống sắt cầm hòa
hợp với hoàng hậu mãi mãi.
*
Khi
Pháp thoại này chấm dứt, bậc Ðạo sư nhận diện Tiền thân:
- Vào
thời ấy, vua xứ Kosala là vị tiên nam, hoàng hậu Mallikà là tiên nữ và Ta chính
là vua Bhallàtiya.
-ooOoo-
505.
Chuyện vương tử hoan lạc (Tiền thân Somanassa)
Kìa ai
phá hoại hoặc khinh chê..,
Câu
chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về cách Devadatta
(Ðề-bà-đạt-đa) dự định sát hại Ngài. Sau đó bậc Ðạo sư bảo:
- Này
các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Ðề-ba-đạt-đa tìm cách
sát hại Ta, mà trước kia cũng đã làm như vậy.
Rồi
Ngài kể cho Tăng chúng nghe một câu chuyện quá khứ.
*
Một
thuở nọ, trong quốc độ Câu-lâu (Kuru) và
kinh thành Uttarapãncàla, có vị vua ngự trị với danh hiệu Renu. Lúc ấy có một
ẩn sĩ khổ hạnh tên là Mahàrakkhita, sống ở vùng Tuyết Sơn cùng hội chúng năm
trăm vị tu khổ hạnh khác. Trong lúc xuống vùng đồng bằng để xin muối và gia vị, vị tu khổ hạnh
ấy đến xứ Uttarapancàla và cư trú trong ngự viên.
Cùng
với hội chúng mình đi khất thực, vị ấy đến
tận cung môn, và khi vua chiêm ngưỡng các hiền nhân, ngài rất đẹp lòng về cung cách của các vị, nên mời ngồi
trên bảo tọa lộng lẫy, rồi cúng dường cao lương mỹ vị các vị dùng. Vua lại mời
các vị an cư trong ngự viên suốt mùa mưa. Ngài rước các vị vào trong vườn ngự,
cung cấp đủ nơi chốn để an trú,
cùng các vật cần dùng cho đời sống tu hành, xong
rồi từ giã. Sau đó các vị đều ăn uống
trong cung vua. Bấy giờ vua không có con và đang ước mong sinh được hoàng nam, song chẳng có vương tử nào ra đời cho ngài cả.
Khi
mùa mưa qua rồi, vị ẩn sĩ Mahàrakkhita nói:
-
Nay vùng Tuyết Sơn xinh tươi dễ chịu lắm, ta hãy trở về đó.
Rồi
vị ấy tạ từ vua, ngài liền tỏ bày đủ mọi cách tôn vinh trọng vọng rất hào phóng đối với các hiền nhân, xong hội chúng ra đi.
Trên bước du hành, vào đúng ngọ, vị ấy rời
đường cái cùng hội chúng của mình ngồi xuống trên thảm cỏ êm ái dưới bóng cây
râm mát.
Các
vị khổ hạnh kia bắt đầu đàm đạo. Họ nói:
-
Nay không có hoàng nam trong cung để nối nghiệp hoàng gia. Nếu vua có được một vương tử thì thật là điều vạn phúc để kế tục vương nghiệp.
Mahàrakkhita
nghe lời hội chúng nói chuyện, liền suy nghĩ: "Vua này có sinh được hoàng nam hay chăng?". Rồi vị này nhận
xét thấy rằng vua sẽ có một hoàng nam, vội bảo:
-
Này các Hiền giả, các bạn đừng lo lắng gì, đêm nay lúc rạng đông một đấng thiên tử sẽ giáng trần, và sẽ nhập
mẫu thai của chánh hậu.
Một
vị tu khổ hạnh giả danh nghe được chuyện ấy, nghĩ
thầm: "Nay ta muốn trở thành người tâm phúc của hoàng gia".
Khi đến thời hội chúng khổ hạnh phải lên đường, vị ấy liền nằm xuống giả vờ lâm bệnh.
-
Mau lên, ta cùng đi.
Hội
chúng bảo nhau.
Người
kia đáp:
-
Ðệ không đi nổi.
Sau đó Hiền giả Mahàrakkhita biết được tin vì sao người ấy phải nằm yên tại chỗ.
-
Hễ khi hiền hữu đi được thì hãy theo
chúng ta ngay. Ngài bảo.
Rồi
ngài cùng các hiền nhân kia tiến về Tuyết Sơn.
Bấy
giờ kẻ lừa dối ấy liền ra sức chạy thật nhanh đến đứng tại cửa cung, dâng sớ tâu rằng có một
người tùy tùng của Hiền giả Mahàrakkhita đến chầu. Kẻ ấy được vua triệu vào ngay lập tức và bước lên thượng
lầu ngồi xuống sàn tọa đã được mời. Vua chào mừng kẻ ấy rồi ngồi xuống một
bên, hỏi thăm sức khỏe của chư hiền. Ngài bảo:
-
Tôn giả trở lại quá sớm. Thế vì nguyên cớ gì Tôn giả vội vàng quay lại đây?
-
Tâu Ðại vương - kẻ ấy đáp - trong lúc chư hiền
đang ngồi thong dong cùng nhau, hội chúng bắtđầu nói chuyện nếu đức vua sinh
được hoàng nam để kế nghiệp thì thật là điều đại phúc. Khi tiểu thần nghe thế, liền suy
ngẫm xem Ðại vương có sinh được hoàng nam không, thì nhờ thiên nhãn, thần
thấy được một vị thiên tử vĩ đại sắp giáng trần và vị ấy sẽ nhập vào mẫu thai
của chánh hậu Sudhamma. Rồi thần suy nghĩ: "Nếu họ không biết, họ có thể
vô tình phá hoại bào thai ấy, vậy thì ta phải thông báo cho họ biết". Và
thế là vì để trình Ðại vương về
tin ấy, nên hạ thần đến đây, tâuÐại vương.
Nay hạ thần đã tâu trình xong, xin
cho hạ thần lên đường.
-
Không, không, này hiền hữu, không thể như vậy được.
Vua
vô cùng hơn hỷ đem kẻ lừa gạt kia vào
ngự viên ban cho ông một nơi an trú. Từ đó về sau ông sống trong cung vua, được dâng món ngự thiện tại đó
và được mệnh danh là Dibbacakkuka hay là Thiên nhãn
Ðạo nhân.
Sau đó, Bồ-tát từ cõi trời Ba mươi ba giáng trần,
nhập mẫu thai của chánh hậu và khi ngài ra đời, triều thần đặt tên ngài là Somanassa Kumara hay là Vương tử
Hoan Lạc, rồi ngài được nuôi nấng theo cung
cách của vua chúa.
Bấy
giờ vị tu khổ hạnh giả hiệu ở trong góc vươn ngự thường trồng rau đậu, củ, quả; rồi đem bán cho người trồng rau ở
chợ nên kiếm được nhiều tiền bạc. Khi
Bồ-tát lên bảy, ở biên thùy có xảy ra bạo loạn. Vua ra đi dẹp giặc, giao phó vị tu khổ hạnh
Dibbacakkhuka ấy cho thái tử chăm sóc và dặn không được xao nhãng vị ấy.
Một
ngày kia, thái tử đến thăm vị ẩn sĩ. Ngài
thấy ông mang cả hai chiếc y vàng, buộc chặt thượng y lẫn hạ y, hai tay cầm hai
bình nước tưới cây, ngài nghĩ thầm: "Lão tu hành giả hiệu này lo làm vườn
chứ chẳng lo làm phận sự tu hành". Ngài liền hỏi:
-
Ông đang làm gì thế, này kẻ làm vườn phàm tục kia?
Ngài
làm nhục ông như vậy và bỏ về chẳng chào hỏi gì ông cả. Ông suy nghĩ: "Nay
ta đã khiến thằng bé này thành kẻ thù của ta rồi,
ai biết được nó sẽ làm gì cơ
chứ? Ta phải tiêu diệt nó ngay lập tức".
Vào
lúc vua sắp hồi cung, ông ta ném chiếc trường kỷ bằng đá sang một bên, đập bể vụn bình bát, rải cỏ rác khắp am thất,
lấy dầu bôi khắp người, rồi vào am nằm trên nệm rơi kia, trùm kín mít từđầu đến
chân, làm ra vẻ đau đớn lắm.
Vua đã hồi loan, xa giá diễu quanh kinh thành theo
hướng bên hữu, song trước khi vào nội cung, ngài đến thăm vị thần hữu Dibbacakkhuka ấy. Vừa đứng
bên cửa am, ngài đã thấy cảnh bừa bãi
kia, liền bước vào mà không biết việc gì xảy ra. Còn kẻ đó đang nằm dưới đất. Vua xoa bóp chân ông và
ngâm vần kệ đầu:
1. Kìa ai phá hoại hoặc khinh chê?
Sao khổ buồn, ngài quá ủ ê?
Thương khóc mẹ cha ai đó vậy?
Ðất này ai lại xuống nằm lê?
Sao khổ buồn, ngài quá ủ ê?
Thương khóc mẹ cha ai đó vậy?
Ðất này ai lại xuống nằm lê?
Nghe
lời này, kẻ bịp bợm kia liền vùng dậy rên rỉ, đáp vần kệ thứ hai:
2. Hân hoan thần bái kiến long nhan,
Xa cách từ lâu, tấu Ðại vương!
Thái tử vừa đi thăm lão đó,
Chẳng ai khiêu khích, lại làm càn!
Xa cách từ lâu, tấu Ðại vương!
Thái tử vừa đi thăm lão đó,
Chẳng ai khiêu khích, lại làm càn!
Các
vần kệ sau đây theo mạch lạc rõ
ràng, được sắp đặt đúng với diễn biến của câu chuyện:
3. Ô kìa, đao phủ, hãy xem nào!
Thị giả, đưa trường kiếm lại mau!
Giết chết So-ma, hoàng thái tử!
Ðem đầu cao quý đến đây giao!
4. Sứ giả nhà vua bước vội vàng,
Ðến cung hoàng tử, họ kêu ran:
"Phụ vương đã bỏ hoàng nam đó!
Ðiện hạ ôi, ngài phải chết oan!".
5. Hoàng tử đứng kia cũng khóc than,
Vòng đôi tay lại, khẩn cầu ân:
"Xin tha mạng trẻ trong giây lát,
Ðem trẻ đi nhìn mặt phụ vương?"
6. Nghe lời thỉnh nguyện tự nơi chàng,
Họ dẫn hoàng nhi đến phụ hoàng,
Hoàng tử từ xa nhìn đại đế,
Chàng liền tâu vậy với nghiêm đường:
7. "Quân sĩ cứ mang kiếm chém đầu,
Song nghe con trẻ trước, muôn tâu,
Xin cho con rõ, tâu Hoàng thượng,
Con đã làm nên tội lỗi nào?".
Thị giả, đưa trường kiếm lại mau!
Giết chết So-ma, hoàng thái tử!
Ðem đầu cao quý đến đây giao!
4. Sứ giả nhà vua bước vội vàng,
Ðến cung hoàng tử, họ kêu ran:
"Phụ vương đã bỏ hoàng nam đó!
Ðiện hạ ôi, ngài phải chết oan!".
5. Hoàng tử đứng kia cũng khóc than,
Vòng đôi tay lại, khẩn cầu ân:
"Xin tha mạng trẻ trong giây lát,
Ðem trẻ đi nhìn mặt phụ vương?"
6. Nghe lời thỉnh nguyện tự nơi chàng,
Họ dẫn hoàng nhi đến phụ hoàng,
Hoàng tử từ xa nhìn đại đế,
Chàng liền tâu vậy với nghiêm đường:
7. "Quân sĩ cứ mang kiếm chém đầu,
Song nghe con trẻ trước, muôn tâu,
Xin cho con rõ, tâu Hoàng thượng,
Con đã làm nên tội lỗi nào?".
Vua
cha đáp:
-
Hoàng triều đang suy sụp điêu tàn:
tội của con làm trọng đại lắm.
Rồi
vua giải thích qua vần kệ:
8. Sáng chiều kéo nước, bậc hiền nhân
Ngọn lửa chăm nom, chẳng chút ngừng,
Hãy trả lời ta, sao lại dám
Gọi ngài thánh thiện kẻ phàm trần?
Ngọn lửa chăm nom, chẳng chút ngừng,
Hãy trả lời ta, sao lại dám
Gọi ngài thánh thiện kẻ phàm trần?
Vương
tử đáp:
-
Tâu Chúa thượng, nếu thần nhi gọi một kẻ phàm tục là một kẻ phàm tục thì có hại
gì đâu?
Rồi
chàng ngâm kệ:
9. Lão có nhiều cây với trái đầy,
Phụ vương xem đủ sắn khoai này
Chăm nom chúng, lão không ngừng nghỉ,
Lão chính phàm nhân, trẻ nói ngay.
Phụ vương xem đủ sắn khoai này
Chăm nom chúng, lão không ngừng nghỉ,
Lão chính phàm nhân, trẻ nói ngay.
Hoàng
tử nói tiếp:
-
Và đó là lý do con gọi lão là người phàm tục. Nếu
phụ vương không tin con, xin cứ hỏi thăm những người trồng rau ở bốn cổng thành
thì rõ.
Vua
cha truyền đi điều tra việc ấy. Dân
chúng đáp:
-
Thưa vâng, chúng thần đã mua của vị ấy đủ loại rau quả.
Khi
vua khám phá ra việc buôn bán rau quả này, ngài công bố cho mọi người biết. Gia
nhân của hoàng tử vào am lão và lục soát được một bó đồng tiền và đồng xu nhỏ, là số tiền bán rau quả kia, họ liền trình vua.
Lúc
ấy, vua biết bậc Ðạo sĩ vô tội, liền ngâm kệ:
10. Ðúng là lão có thật nhiều cây
Với các loại rau, củ trái đầy,
Chăm sóc trông nom không chút nghỉ,
Phàm nhân, quả đúng trẻ tâu bày.
Với các loại rau, củ trái đầy,
Chăm sóc trông nom không chút nghỉ,
Phàm nhân, quả đúng trẻ tâu bày.
Sau đó, bậc Ðại sĩ suy nghĩ: "Trong khi có một kẻ ngu si ám động như thế này ở hoàng cung, thì thượng sách
là đi vào vùng Tuyết Sơn và sống đời tu tập. Vậy trước tiên ta công bố tội trạng
lão với quần chúng tại đây, sau đó, ngay hôm
nay, ta xuất gia thành ẩn sĩ".
Thế
là ngài cúi chào hội chúng và nói lớn:
11. Này nghe ta nói, hỡi toàn dân,
Dân chúng thị thành lẫn dã nhân,
Chúa thượng nghe lời người xuẩn ngốc,
Khiến người vô tội phải vong thân.
Dân chúng thị thành lẫn dã nhân,
Chúa thượng nghe lời người xuẩn ngốc,
Khiến người vô tội phải vong thân.
Nói
xong, ngài xin phép thực hiện ước nguyền trên qua vần kệ tiếp theo:
12. Phụ vương, cây tỏa rộng hùng cường,
Nhành trẻ, con sinh tự phụ vương,
Con cúi mình đây xin phép được
Giã từ thế tục để lên đường.
Nhành trẻ, con sinh tự phụ vương,
Con cúi mình đây xin phép được
Giã từ thế tục để lên đường.
Các
vần kệ sau đây thuật lại cuộc trò
chuyện giữa vua cha và vương tử:
Phụ
vương:
13. Vương nhi, hưởng phú quý huy hoàng,
Ngự trị Câu-lâu chiếc bệ vàng,
Ðừng bỏ thế gian, gây khổ não
Cho mình, hãy nhận lễ đăng quang!
Ngự trị Câu-lâu chiếc bệ vàng,
Ðừng bỏ thế gian, gây khổ não
Cho mình, hãy nhận lễ đăng quang!
Vương
tử:
14. Trần thế này đem lạc thú nào?
Khi xưa con đã ở trời cao,
Sắc, thanh, hương, vị và xúc cảm,
Lòng vẫn thường yêu chuộng biết bao!
15. Con từ bỏ hết nghiệp duyên xưa
Thiên lạc cùng thiên nữ ngọc ngà,
Với phụ vương là vua yếu kém,
Con không muốn ở nữa bây giờ.
Khi xưa con đã ở trời cao,
Sắc, thanh, hương, vị và xúc cảm,
Lòng vẫn thường yêu chuộng biết bao!
15. Con từ bỏ hết nghiệp duyên xưa
Thiên lạc cùng thiên nữ ngọc ngà,
Với phụ vương là vua yếu kém,
Con không muốn ở nữa bây giờ.
Phụ
vương:
16. Nếu cha kém trí, hỡi hoàng nam,
Tha thứ cha nay việc đã làm,
Giả sử cha còn làm việc ấy,
Cha tùy con định, chẳng kêu than.
Tha thứ cha nay việc đã làm,
Giả sử cha còn làm việc ấy,
Cha tùy con định, chẳng kêu than.
Sau đó bậc Ðại sĩ ngâm tám vần kệ khuyến giáo vua cha:
17. Hành động không suy nghĩ trước sau,
Hoặc làm không cân nhắc dài lâu,
Cũng như sử dụng lầm phương thuốc,
Hậu quả ắt là phải khổ đau.
18. Hành động nào suy tính thật lâu,
Khôn ngoan thận trọng tiếp theo sau,
Giống như vị thuốc nhiều công hiệu,
Kết quả tất nhiên phải nhiệm mầu.
19. Con chán ghét người ở thế gian
Buông lung phóng dật, dục tham tràn,
Người tu khổ hạnh hư danh đó
Là kẻ dối gian lộ rõ ràng.
Một vị hôn quân thường xử án
Chẳng hề nghe lý lẽ phân trần;
Chẳng bao giờ gọi là chân chánh
Cơn giận bùng lên ở trí nhân.
20. Một vị vua xem xét kỹ càng
Rồi ban lời phán xử công bằng,
Khi vua cân nhắc lời phân xử,
Danh tiếng đời đời mãi vọng vang.
21. Những hình phạt Chúa thượng truyền ban
Phải được đắn đo thật kỹ càng
Những việc làm trong lúc vội vã
Sẽ gây hối hận lúc thư nhàn.
Nếu lòng phát nguyện nhiều điều tốt,
Sau chẳng đau buồn hối tiếc mang.
22. Những người có việc phải thi hành,
Muốn chẳng gây ân hận với mình
Thường đắn đo bao điều thận trọng,
Tạo nên thiện nghiệp thật an lành,
Làm công đức thỏa lòng hiền thánh,
Ðược tán tụng từ bậc trí minh.
23. Cha thét: "Kìa đao phủ, hãy mau!
Ði tìm vương tử của ta nào,
Nơi đâu bây kiếm, liền đem giết!"
Lúc trẻ ngồi bên mẹ dựa đầu,
Bọn chúng tìm ra con trẻ đó,
Rồi lôi đi thật bạo tàn sao?
24. Trẻ thơ non nớt, xử như vầy,
Con thấy chúng tàn nhẫn quá tay,
Nay thoát cảnh đày thân độc ác,
Con rời thế, chẳng sống nơi đây.
Hoặc làm không cân nhắc dài lâu,
Cũng như sử dụng lầm phương thuốc,
Hậu quả ắt là phải khổ đau.
18. Hành động nào suy tính thật lâu,
Khôn ngoan thận trọng tiếp theo sau,
Giống như vị thuốc nhiều công hiệu,
Kết quả tất nhiên phải nhiệm mầu.
19. Con chán ghét người ở thế gian
Buông lung phóng dật, dục tham tràn,
Người tu khổ hạnh hư danh đó
Là kẻ dối gian lộ rõ ràng.
Một vị hôn quân thường xử án
Chẳng hề nghe lý lẽ phân trần;
Chẳng bao giờ gọi là chân chánh
Cơn giận bùng lên ở trí nhân.
20. Một vị vua xem xét kỹ càng
Rồi ban lời phán xử công bằng,
Khi vua cân nhắc lời phân xử,
Danh tiếng đời đời mãi vọng vang.
21. Những hình phạt Chúa thượng truyền ban
Phải được đắn đo thật kỹ càng
Những việc làm trong lúc vội vã
Sẽ gây hối hận lúc thư nhàn.
Nếu lòng phát nguyện nhiều điều tốt,
Sau chẳng đau buồn hối tiếc mang.
22. Những người có việc phải thi hành,
Muốn chẳng gây ân hận với mình
Thường đắn đo bao điều thận trọng,
Tạo nên thiện nghiệp thật an lành,
Làm công đức thỏa lòng hiền thánh,
Ðược tán tụng từ bậc trí minh.
23. Cha thét: "Kìa đao phủ, hãy mau!
Ði tìm vương tử của ta nào,
Nơi đâu bây kiếm, liền đem giết!"
Lúc trẻ ngồi bên mẹ dựa đầu,
Bọn chúng tìm ra con trẻ đó,
Rồi lôi đi thật bạo tàn sao?
24. Trẻ thơ non nớt, xử như vầy,
Con thấy chúng tàn nhẫn quá tay,
Nay thoát cảnh đày thân độc ác,
Con rời thế, chẳng sống nơi đây.
Khi
bậc Ðại sĩ đã thuyết giáo như vậy
xong, vua phán bảo hoàng hậu:
25. Vậy vương nhi đó, Su-dham-ma,
Vừa thốt lời từ chối lệnh ta,
Quí tử So-ma bao khả ái;
Vì ta không mãn nguyện bây giờ,
Ðích thân hoàng hậu nên xem thử
Có chuyển lay lòng trí trẻ thơ.
Vừa thốt lời từ chối lệnh ta,
Quí tử So-ma bao khả ái;
Vì ta không mãn nguyện bây giờ,
Ðích thân hoàng hậu nên xem thử
Có chuyển lay lòng trí trẻ thơ.
Song
hoàng hậu thúc giục vương tử rời bỏ thế tục:
26. Hãy vui đời Thánh hạnh, hoàng nam,
Tuân thủ chánh chân, bỏ cõi phàm,
Ai giữa quần sinh không độc ác
Sẽ lên thiên giới, chẳng sai lầm.
Tuân thủ chánh chân, bỏ cõi phàm,
Ai giữa quần sinh không độc ác
Sẽ lên thiên giới, chẳng sai lầm.
Vua
ngâm kệ tiếp theo:
27. Chuyện lạ này nghe tự ái khanh,
Sầu đang chất ngất ở trong mình,
Bảo nàng khuyên nhủ con dừng lại,
Nàng chỉ giục con phải bước nhanh.
Sầu đang chất ngất ở trong mình,
Bảo nàng khuyên nhủ con dừng lại,
Nàng chỉ giục con phải bước nhanh.
Hoàng
hậu lại ngâm kệ nữa:
28. Có hạng người không đắm dục tham,
Thoát sầu bi, sống chẳng sai lầm,
Nhiều người đắc Niết-bàn cao thượng:
Ví thử hoàng nhi muốn dự phần
Cùng tiến lên con đường Thánh hạnh,
Thì hoài công cản bước hoàng nam.
Thoát sầu bi, sống chẳng sai lầm,
Nhiều người đắc Niết-bàn cao thượng:
Ví thử hoàng nhi muốn dự phần
Cùng tiến lên con đường Thánh hạnh,
Thì hoài công cản bước hoàng nam.
Vua
ngâm vần kệ cuối cùng để đáp lời:
29. Quả thật là chân chánh thiện tâm,
Tôn sùng bậc trí tuệ cao thâm
Tâm tư siêu việt thường sinh khởi,
Ái hậu từng nghe các diệu âm,
Thông hiểu kiến văn nhiều bậc Thánh,
Nên không còn khổ não, tham lam.
Tôn sùng bậc trí tuệ cao thâm
Tâm tư siêu việt thường sinh khởi,
Ái hậu từng nghe các diệu âm,
Thông hiểu kiến văn nhiều bậc Thánh,
Nên không còn khổ não, tham lam.
Sau đó, bậc Ðại sĩ đảnh lễ song thân, xin
hai vị tha thứ cho ngài nếu có lỗi lầm gì, rồi vào cung kính vái chào toàn thể
hội chúng, ngài quay mặt về hướng Tuyết Sơn. Khi dân chúng đã về, ngài cùng với các Thiên thần vừa đến đó giả dạng người trần, vượt băng qua bảy
ngọn đồi cao lên tận Tuyết Sơn. Trong chiếc am tranh do vị Thiên thần
Vissakamma giáng thế xây dựng cho ngài, ngài sống đời tu hành, tại đó ngài được các Thiên thần ấy giả dạng làm tùy tùng của vị hoàng tử, hầu
hạ ngài đến năm lên mười sáu
tuổi. Còn kẻ tu hành lừa bịp kia bị dân chúng bao vây đánh chết.
Về
sau, bậc Ðại sĩ tu tập làm phát khởi năng lực Thiền định, và được sinh lên cõi Phạm thiên.
*
Khi
Pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo sư bảo:
- Này
các Tỷ-kheo, như vậy ngày xưa cũng như bây giờ, kẻ ấy đã dự mưu sát hại Ta.
Và Ngài
nhận diện Tiền thân:
- Vào
thời ấy Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) là kẻ lừa đảo, mẫu hậu Mayà là vương hậu
kia, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là Hiền giả Rakkhita và Ta chính là vương tử
Somanassa
-ooOoo-
506.
Chuyện long vương Campeyya (Tiền thân Campeyya)
Ai đó như tia chớp sáng bừng..,
Câu
chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về các hạnh nguyện ngày trai
giới. Bậc Ðạo sư bảo:
- Lành
thay, này các thiện nam tử, các ông đã phát nguyện giữ trai giới. Nhưng bậc trí xưa
kia cũng đã từ bỏ ngay cả vinh quang của một Long vương và sống theo
các giới hạnh này.
Sau đó theo lời thỉnh cầu của hội
chúng, Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Một
thuở nọ, khi vua Anga (Ưng-già) trị vì ở quốc độ Anga (Ưng-già) mà vua Ma-kiệt-đà trị vì ở xứ
Magadha (Ma-kiệt-đà); giữa hai quốc độ Ưng-già và Ma-kiệt-đà là con sông Campà (Chiêm-bà), nơi có loài
Rồng rắn (Nàga) sinh sống, được chúa Rồng Campeyya
cầm quyền thống lãnh.
Ðôi
khi vua Ma-kiệt-đà chiếm nước Ưng-già và có khi vua Ưng-già chiếm Ma-kiệt-đà.
Một ngày kia, vua Ma-kiệt-đà, sau khi lâm chiến với Ưng-già và thất bại, liền
leo lên chiến mã đào tẩu, và bị quân sĩ
Ưng-già đuổi theo gấp. Khi vua
đến sông Campà lại đang mùa lũ lụt, nhưng
vua nói:
-
Thà chết chìm trong dòng sông này hơn là chết trong tay kẻ thù của ta!
Rồi
cả người và ngựa đều nhào xuống dòng sông
ấy.
Thời
bấy giờ Long vương đã xây dựng cho mình ở
dưới nước một ngôi nhà thủy tạ bằng châu ngọc, ngay lúc ấy đang ở giữa triều đãi tiệc say sưa. Nhưng vua
trên kia cùng chiến mã nhảy xuống sông ngay chính trước mặt chúa Rồng. Rồng
chúa ngắm vị vua lộng lẫy cao sang này, sinh lòng yêu mến, liền đứng lên từ bảo tọa, Rồng chúa mời vua ngự lên
chính ngai vàng của mình, bảo vua đừng sợ gì cả, rồi hỏi tại sao vua lại nhảy xuống sông. Vua kể hết
mọi sự xảy ra cho Rồng chúa nghe. Rồng chúa liền bảo:
-
Tâu Ðại vương, đừng sợ gì cả! Trẫm sẽ
làm cho Ðại vương trở thành bá chủ hai vương quốc ấy.
Rồng
chúa an ủi vua như vậy và suốt bảy ngày liền tiếp đãi vua vô cùng trọng thể. Vào ngày thứ bảy,
chúa Rồng cùng vua Ma-kiệt-đà rời Long cung. Sau đó nhờ thần lực của Long vương, vua Ma-kiệt-đà
chiếm lấy quốc độ Ưng-già, giết vua
Ưng-già rồi thống trị cả hai lãnh thổ ấy. Từ đó trở đi, có mối giao hảo mật thiết giữa vua và Rồng chúa.
Dần
dần vua truyền lệnh xây một ngôi đình bằng châu báu trên bờ sông Campà, triều cống Rồng chúa đủ lễ vật rất cao sang. Rồng chúa cùng đám tùy tùng đông đảo xuất hiện từ Long cung lên tiếp nhận lễ triều cống và mọi
người được dịp chiêm ngưỡng cảnh vinh quang của Rồng
chúa.
Thời
ấy, Bồ-tát sinh trưởng trong một gia đình nghèo khó, ngài thường đi cùng đám thần dân ấy đến bờ
sông. Tại đó khi trông thấy cảnh vinh quang của Rồng chúa, ngài sinh lòng thèm
muốn và ngài chết đi trong nỗi khát vọng
này. Rồi bảy ngày sau khi Rồng chúa Campeyya ấy từ trần, phần Bồ-tát vì suốt
một đời đã sống đầy đức hạnh và chuyên bố thí, nên được tái sinh vào cung điện của Rồng chúa ấy trên long sàng kia, thân
thể ngài như một chuỗi vũ quý hoa (hoa lài) vĩ đại.
Khi
thấy vậy, lòng ngài tràn ngập niềm hối hận. Ngài bảo: "Ta đã có quyền lực để dành trên sáu cảnh trời dục giới là do kết
quả các thiện nghiệp của ta, như hạt thóc tích trữ trong vựa. Song nay hãy xem đây, ta lại sinh làm thân rồng rắn, vậy ta còn
thiết gì đời sống nữa?" Và
vì thế ngài có ýđịnh kết liễu cuộc đời mình. Nhưng có một Long nữ tên là Sumanà,
trông thấy ngài liền báo tin cho cả loài biết:
-
Vị này ắt hẳn là Ðế Thích Thiên chủ đầy uy lực vừa ra đời tại đây với chúng ta!
Sau đó, Long chúng cùng đi đến dâng lễ vật cho ngài với đủ loại đàn ca múa hát. Long cung của ngài chẳng
khác nào cung của Thiên chủ, nên ngài không còn nghĩ đến chuyện chết nữa, ngài trút bỏ hình tướng
Rồng và ngự lên bảo tọa, lộng lẫy xiêm y cùng ngọc vàng trang điểm. Từ đó về sau, cảnh vinh quang của ngài
thật vĩ đại, ngài thấy hối tiếc ăn năn thầm nghĩ: "Ta còn ham thích gì cái
thân rồng rắn này nữa? Ta muốn sống theo các hạnh nguyện trai giới, ta muốn
thoát thân khỏi nơi này, ta sẽ ra đi đến giữa loài người, học hỏi các chân lý và chấm dứt khổ đau".
Nhưng
sau đó ngài vẫn ở lại trong cung điện ấy, và thành tựu các hạnh nguyện trai giới,
rồi khi các Long nữ trang điểm rực rỡ đến vây
quanh ngài, ngài lại thường vi phạm giới đức. Về sau, ngài rời bỏ cung điện đi vào ngự viên, nhưng bọn chúng theo ngài đến đó, và hạnh nguyện của ngài cũng bị phá bỏ
như trước kia. Ngài liền suy nghĩ: "Ta phải rời cung này, đi vào thế giới loài người, và tại đó, ta phải sống theo đúng hạnh nguyện của trai
giới".
Vì
thế vào ngày trai giới, ngài rời cung điện ra đi, vào nằm trên nóc tổ kiến cạnh đường cái, không xa một thôn làng biên địa. Ngài nói:
-
Ai muốn lấy da thịt ta, thì cứ lấy, hoặc có ai muốn bắt ta làm trò con rồng
nhảy múa thì cứ bắt tađi.
Như
vậy ngài đã chịu xả thân ra bố
thí, nên vừa thu gọn chiếc mồng lại, ngài vừa nằm đó hành trì hạnh nguyện trai giới.
Nhiều
người qua lại trên đường cái trông thấy
ngài, liền cúng dường ngài đủ hương hoa thơm ngát.
Và dân chúng trong thôn làng biên địa kia xem ngài là Rồng chúa đại oai lực, nên dựng một ngôi đình trên chỗ ngài nằm, rải cát trước đó và cúng dường chiêm bái đủ thứ hương liệu, nước hoa.
Bấy
giờ, dân chúng bắt đầu cầu tự nhờ ngài giúp
sức, nên có lòng tín ngưỡng bậc Ðại sĩ và sùng kính tôn thờ ngài. Tại đó bậc Ðại sĩ giữ hạnh nguyện vào các ngày mười bốn, rằm giữa tháng, an
tọa trên tổ kiến, rồi đến ngày mồng một âm
lịch, ngài lại về long cung, và cứ như vậy ngài giữ tròn hạnh nguyện theo thời
gian.
Một
hôm vương phi Sumanà thưa với ngài:
-
Tâu Chúa thượng, ngài ra đi đến cõi nhân gian để giữ hạnh nguyện trai giới, song nhân thế đầy
nguy hiểm kinh hoàng. Giả sử có mối nguy cơ nào xảy ra cho Chúa thượng, thì nay
ngài hãy bảo cho thần thiếp biết nhờ dấu hiệu gì để nhận ra việc ấy.
Sau đó ngài dẫn vương phi đến bên một hồ nước an toàn và bảo:
-
Nếu có ai đánh ta hay làm ta bị
thương, thì nước hồ sẽ vẩn đục lên. Còn nếu có con
chim đại bàng nào tha ta đi, thì nước hồ sẽ biến mất, nếu có kẻ bỏ bùa
bắt rắn nào tóm được ta thì hồ sẽ đổi thành màu máu.
Sau
khi giải thích ba dấu hiệu này cho vương phi, ngài rời cung điện ra đi, giữ hạnh nguyện trai giới trong ngày
mười bốn, đến nằm trên tổ kiến,
ánh sáng trên thân ngài tỏa rực rỡ khắp chỗ đó. Toàn thân ngài trắng ngần, như một cuộn dây toàn bạc, đầu ngài như một cuộn len đỏ. Trong Tiền thân này, thân thể Bồ-tát to bằng
cái đầu lưỡi cày, còn trong Tiền thân Bhuridatta (số
543, tập VII) ngài lớn bằng bắp đùi, và trong Tiền thân
Sankhapàla (số 524, tập VI) thân ngài tròn trịa như chiếc xuồng dài có móc
chèo.
Thời
ấy có một thanh niên Bà-la-môn ở Ba-la-nại đến Takkasilà học tập dưới sự dạy bảo của một vị giáo sĩ lừng danh
thế giới, nhờ vị này chàng ta học được bùa chú sai khiến mọi loài hữu tình. Khi về nhà theo đường cái ấy, chàng chẳng thấy gì ngoài bậc Ðạo
sĩ. Chàng suy nghĩ: "Ta sẽ bắt con Rồng này và sẽ du hành khắp thôn làng
thị trấn, kinh thành, bắt nó nhảy múa và tha hồ kiếm lợi lớn".
Sau đó chàng lấy thứ cỏ thuốc linh dược, đọc thần chú và đến gần Rồng chúa. Vừa nghe tiếng niệm chú này,
tức thì bậc Ðại sĩ cảm thấy hai lỗ tai như bị củi đốt cháy đâm thủng, đầu ngài như thể vỡ ra vì bị
kiếm đâm vào. Ngài suy nghĩ: "Ta gặp chuyện gì đây?". Rồi ló đầu ra khỏi chiếc mồng, ngài
trông thấy người bỏ bùa bắt rắn ấy. Ngài liền suy nghĩ: "Nọc độc của ta cực kỳ mãnh liệt, nếu ta nổi giận và
phì hơi độc từ lỗ mũi ra thì
thân nó sẽ tan nát ra như một nắm trấu vậy, và thế là công đức của ta sẽ bị tiêu diệt hết, nên ta không
muốn nhìn nó". Ngài vừa nhắm mắt lại vừa thụt đầu vào trong chiếc mồng.
Người
Bà-la-môn bỏ bùa rắn kia nhai một cây cỏ thuốc, niệm chú rồi nhỏ lên mình ngài:
nhờ công hiệu cỏ thuốc và bùa chú nên nơi nào có nước miếng của người đó dính vào thì các mụn mủ nổi lên. Sau đó chàng ta nắm lấy được ngài ra. Chàng ta lấy chiếc gậy hình chân
dê thúc ép ngài cho đến lúc ngài yếu sức,
rồi nắm chặt phần đầu ngài mà chà xuống.
Bậc Ðại sĩ há mồm ra, chàng nhỏ nước miếng vào, nhờ công hiệu cỏ thuốc và bùa
chú, răng ngài gãy tan hết, chiếc mồm đầy cả máu. Song bậc Ðại sĩ sợ phải phá hủy công đức của ngài, nên ngài chịu mọi khổ hình này và không hề mở mắt ra đủ để liếc nhìn gã.
Sau đó chàng nói:
-
Ta sẽ làm Rồng chúa này yếu đi!
Chàng
ép chặt thân Rồng chúa từ đầu chí đuôi như thể
chàng muốn chà nát xương ngài thành bột! Rồi chàng gói ngài trong thứ thường được gọi là mảnh vải cuộn, thắt thêm một vật gọi
là dây thừng rồi nắm đuôi ngài và đấm đá. Thân thể của bậc Ðại sĩ bê bết máu, và ngài đau đớn vô cùng. Khi thấy chúa Rồng này đã yếu sức, chàng làm cái thúng bằng cây liễu
gai để đặt Rồng chúa vào.
Sau đó chàng đem ngài vào làng xóm, bắt ngài làm trò cho dân chúng. Dù phải hóa
thành màu xanh, đen hay màu gì khác nữa,
biến ra hình tròn vuông lớn nhỏ ra sao, hễ chàng Bà-la-môn muốn gì , bậc Ðại sĩ đều làm cả, vừa nhảy múa, giương mồng quay tít
thành thiên hình vạn trạng. Dân chúng quá thích thú nên cho thật nhiều tiền.
Trong một ngày chàng đã kiếm được cả ngànđồng ru-pi và nhiều trò đáng giá cả ngàn đồng khác nữa.
Lúc đầu chàng dự định thả ngài ra khi đã kiếm được một ngàn đồng, nhưng khi được rồi, chàng lại nghĩ:
"Trong một làng biên địa mà ta đã kiếm được chừng này, nếu gặp vua quan thì ta còn mong được biết bao nhiêu của cải nữa".
Thế
là chàng mua một chiếc xe bò và một chiếc xe du ngoạn, trong xe bò, chàng chất đầy hàng hóa, còn chàng ngồi xe kia. Như vậy
cùng với một đoàn tùy tùng hầu cận,
chàng đi qua thôn làng thị trấn, bắt bậc Ðại sĩ làm
trò, và tiếp tục du hành với ý định trình diện ngài
trước vua Uggasena ở Ba-la-nại rồi mới thả ngài đi.
Chàng
ta thường giết ếch nhái và đem cho Rồng chúa nhưng
Rồng từ chối mỗi khi chàng ta đưa vậy, để không một
sinh vật nào bị chàng ta giết vì ngài nữa. Sau đó chàng ta đem mật và bắp rang cho ngài. Nhưng ngài cũng không chịu ăn, vì ngài nghĩ: "Nếu ta ăn gì thì ta sẽ ở trong giỏ này chođến
chết".
Suốt
một tháng, người Bà-la-môn đến ở Ba-la-nại. Tại đó
chàng kiếm được nhiều tiền nhờ bảo
Rồng chúa diễn trò trong các thôn làng ngoài cổng thành. Vua cho triệu chàng
vào và ra lệnh diễn trò. Chàng hứa sẽ làm vào ngày hôm sau, là ngày cuối trong
mỗi nửa tháng. Sau đó vua bảo đánh trống
khắp kinh thành, bố cáo ngày mai sẽ có một Rồng chúa nhảy múa trong sân chầu,
vậy dân chúng được phép tụ tập để xem
thật đông. Hôm sau sân chầu được trang hoàng, và người Bà-la-môn được triệu vào. Chàng mang bậc Ðại sĩ trong cái
thúng và có dát ngọc vàng, trên một tấm thảm rực rỡ, chàng đặt thúng xuống và vua an tọa trên ngai vàng
giữa thần dân chật ních vây quanh.
Người
Bà-la-môn bắt bậc Ðại sĩ ra và bảo nhảy múa. Dân chúng không thể nào ngồi yên được: hàng ngàn chiếc khăn quăng tung vẫy giữa
không gian; bảy loại châu báu rớt xuống như mưa quanh Bồ-tát.
Từ
khi Long vương bị bắt đến nay đã một tháng
tròn và suốt thời gian ấy ngài chẳng ăn uống gì cả. Bây giờ vương phi Sumanà bắt đầu suy nghĩ: "Phu quân yêu quý của ta đã ở nán lại trên đó lâu rồi. Cả tháng này ngài chưa trở về chắc
có việc gì chăng?
Vì
thế nàng bước ra xem mặt nước hồ: Kìa, nước đỏ như máu! Thế là nàng biết chắc hẳn ngài đã bị hành hạ, và nàng khóc than.
Sau đó nàng vào ngôi làng biên địa kia để hỏi thăm và khi biết hết mọi sự, nàng đi thẳng đến Ba-la-nại và ngay giữa quần chúng
trên khoảng không của chính sân chầu, nàng cứ đứng than khóc mãi.
Trong
lúc bậc Ðại sĩ nhảy múa, ngài chợt nhìn lên không và thấy nàng, ngài hổ thẹn,
bò ngay vào thúng nằm yên. Khi ngài bò vào thúng, vua kêu lớn:
-
Sao có gì thế này?
Nhìn
quanh quẩn đâu đó, ngài thấy Long
nữ đứng ở trên không liền ngâm vần kệ:
1. Ai đó như tia chớp sáng bừng,
Hay vầng tinh tú tỏa hào quang,
Tu-la thần nữ hay Thiên nữ?
Ta chắc nàng không phải thế nhân?
Hay vầng tinh tú tỏa hào quang,
Tu-la thần nữ hay Thiên nữ?
Ta chắc nàng không phải thế nhân?
Sau đây câu chuyện giữa hai vị qua các vần kệ:
Long
nữ:
2. Chẳng là Thiên nữ, Tu-la thần,
Cũng chẳng loài người, tấu Ðại quân,
Tiện thiếp chính là Long nữ đó,
Ðến đây vì có việc cầu ân.
Cũng chẳng loài người, tấu Ðại quân,
Tiện thiếp chính là Long nữ đó,
Ðến đây vì có việc cầu ân.
Ðức
vua:
3. Nàng tỏ ra hờn giận, bất bằng,
Mắt nàng mưa lệ cứ tuôn tràn,
Việc gì, ước vọng nào đưa đến,
Hãy nói, ta mong biết, hỡi nàng!
Mắt nàng mưa lệ cứ tuôn tràn,
Việc gì, ước vọng nào đưa đến,
Hãy nói, ta mong biết, hỡi nàng!
Long
nữ:
4. Rắn rồng bò, tựa lửa hung hăng!
Chúng vẫn gọi ngài thế, bỗng dưng
Gã bắt ngài đi vì hám lợi,
Thiếp cầu Chúa thượng thả Long quân!
Chúng vẫn gọi ngài thế, bỗng dưng
Gã bắt ngài đi vì hám lợi,
Thiếp cầu Chúa thượng thả Long quân!
Ðức
vua:
5. Vì sao kẻ ốm đói như vầy
Bắt được Rồng kia mãnh lực đầy?
Long nữ, xin nàng cho trẫm biết,
Làm sao đánh giá đúng Rồng này?
Bắt được Rồng kia mãnh lực đầy?
Long nữ, xin nàng cho trẫm biết,
Làm sao đánh giá đúng Rồng này?
Long
nữ:
6. Thần lực ngài, ngay cả thị thành,
Ngài thiêu ra đống bụi tan tành,
Song ngài yêu chuộng đường thanh tịnh,
Khổ hạnh đi tìm lại chính danh.
Ngài thiêu ra đống bụi tan tành,
Song ngài yêu chuộng đường thanh tịnh,
Khổ hạnh đi tìm lại chính danh.
Sau đó vua hỏi bằng cách nào chàng kia bắt được ngài, nàng đáp qua vần kệ sau:
7. Vào ngày trai giới, đấng Long vương
Bốn pháp hành trì hạnh Thánh nhân,
Gã múa rối kia tìm bắt được,
Xin ngài vì thiếp, cứu lang quân!
Bốn pháp hành trì hạnh Thánh nhân,
Gã múa rối kia tìm bắt được,
Xin ngài vì thiếp, cứu lang quân!
Sau
những lời trên, nàng lại ngâm hai vần kệ khác xin giải thoát cho ngài:
8. Mười sáu ngàn kìa đám nữ nhân,
Rỡ ràng vòng ngọc với kim ngân,
Dưới dòng nước đã tôn Rồng thánh
Là chúa tể cho chúng ẩn thân.
9. Ðại vương, mong rộng lượng, công bằng,
Xin chuộc Long vương được thoát thân
Bằng một làng, trăm bò cái chẵn,
Thêm vàng, đem phước báo Quân vương.
Rỡ ràng vòng ngọc với kim ngân,
Dưới dòng nước đã tôn Rồng thánh
Là chúa tể cho chúng ẩn thân.
9. Ðại vương, mong rộng lượng, công bằng,
Xin chuộc Long vương được thoát thân
Bằng một làng, trăm bò cái chẵn,
Thêm vàng, đem phước báo Quân vương.
Ðức
vua liền ngâm tiếp ba vần kệ:
10. Này xem ta chánh đáng, hào hoa,
Ta chuộc cho Rồng chúa được tha
Bằng một làng, trăm bò cái chẵn,
Thêm vàng, đem phước báo cho ta!
11. Rồi trẫm tặng chàng vòng ngọc tai,
Với vàng trăm lượng chẳng hề sai,
Tọa sàng xinh đẹp như hoa gấm,
Gối nệm nằm chen bốn dãy dài.
12. Bò đực, cùng bò cái một trăm,
Và hai người vợ cũng chung dòng,
Xin tha Rồng chúa đầy thanh tịnh,
Việc ấy sẽ đem lắm phước phần.
Ta chuộc cho Rồng chúa được tha
Bằng một làng, trăm bò cái chẵn,
Thêm vàng, đem phước báo cho ta!
11. Rồi trẫm tặng chàng vòng ngọc tai,
Với vàng trăm lượng chẳng hề sai,
Tọa sàng xinh đẹp như hoa gấm,
Gối nệm nằm chen bốn dãy dài.
12. Bò đực, cùng bò cái một trăm,
Và hai người vợ cũng chung dòng,
Xin tha Rồng chúa đầy thanh tịnh,
Việc ấy sẽ đem lắm phước phần.
Nghe
vậy, người bắt rắn đáp lời:
13. Thần không cầu thưởng, tấu Anh quân,
Mà để chúa Rồng được thoát thân,
Như vậy, nay thần xin giải phóng:
Việc này sẽ tạo lắm hồng ân.
Mà để chúa Rồng được thoát thân,
Như vậy, nay thần xin giải phóng:
Việc này sẽ tạo lắm hồng ân.
Sau
lời này, chàng ta đem bậc Ðại sĩ ra khỏi thúng. Long vương từ từ bò ra,
tiến vào trong một cái hoa, tại đó ngài trút bỏ xác cũ
và hiện hình một nam tử phục sức cực kỳ lộng lẫy: Ngài đứng sừng sững, chẳng khác nào ngài vừa rẽ mặt đất ra và bước lên. Còn nàng Long nữ Sumanà từ
trên trời giáng xuống đứng cạnh ngài. Vị Rồng
chúa đứng chấp tay tỏ vẻ tôn trọng vua lắm.
Ðể
giải thích việc này, bậc Ðạo sư ngâm hai vần kệ:
14. Tự do, Rồng chúa xứ Cam-pa
Liền nói như vầy với đức vua:
"Chúa tể Kà-si nuôi quốc độ!
Cầu ngài vinh hiển tự bây giờ
Thần xin đảnh lễ ngài cung kính,
Trước lúc trở về viếng cố gia!".
Liền nói như vầy với đức vua:
"Chúa tể Kà-si nuôi quốc độ!
Cầu ngài vinh hiển tự bây giờ
Thần xin đảnh lễ ngài cung kính,
Trước lúc trở về viếng cố gia!".
Ðức
vua:
15. Ðời thường nói các đấng siêu phàm
Khó được lòng tin ở thế gian
Ví thử chúa Rồng nay nói thật:
Long cung đâu? Hãy chỉ ngay đàng!
Khó được lòng tin ở thế gian
Ví thử chúa Rồng nay nói thật:
Long cung đâu? Hãy chỉ ngay đàng!
Nhưng
bậc Ðại sĩ muốn vua tin tưởng, liền thề nguyền như sau qua hai vần kệ:
16. Dù gió thổi tung cả núi đồi,
Mặt trời, trăng rớt khỏi bầu trời,
Suối sông, xoáy ngược dòng đang cháy,
Chúa thượng, thần không thể dối lời!
17. Ví trời nứt nẻ, hải dương khô,
Ðất mẹ bao la vỡ vụn ra,
Dù núi Tu-di rung bật gốc,
Ðại vương, thần chẳng dối bao giờ!
Mặt trời, trăng rớt khỏi bầu trời,
Suối sông, xoáy ngược dòng đang cháy,
Chúa thượng, thần không thể dối lời!
17. Ví trời nứt nẻ, hải dương khô,
Ðất mẹ bao la vỡ vụn ra,
Dù núi Tu-di rung bật gốc,
Ðại vương, thần chẳng dối bao giờ!
Dù
có lời cam đoan như vậy, vua vẫn
chưa tin bậc Ðại sĩ và bảo:
18. Ðời thường nói các đấng siêu phàm
Khó được lòng tin ở thế gian,
Ví thử chúa Rồng nay nói thật,
Long cung đâu, hãy chỉ ngay đàng!
Khó được lòng tin ở thế gian,
Ví thử chúa Rồng nay nói thật,
Long cung đâu, hãy chỉ ngay đàng!
Một
lần nữa vua ngâm vần kệ trên và thêm:
-
Ngài phải biết ơn ta về các hành động tốt ta đã làm cho ngài đấy. Tuy nhiên ta có tin ngài chân chánh hay không, thì việc ấy
tùy ta định đoạt.
Vua
nói rõ điều này qua vần kệ:
19. Ngài đầy nọc độc, đủ quyền năng,
Chiếu sáng rực trời, chóng nổi sân,
Ngài bị giam, nhờ ta giải thoát,
Quyền ta là phải được tri ân!
Chiếu sáng rực trời, chóng nổi sân,
Ngài bị giam, nhờ ta giải thoát,
Quyền ta là phải được tri ân!
Bậc
Ðại sĩ liền thề nguyền như vầy để vua tin tưởng:
20. Kẻ nào không muốn đáp ân tình,
Sẽ chẳng làm sao hưởng phước lành,
Kẻ đó bỏ mình trong rọ nhốt!
Chịu thiêu trong ngục tối hồn kinh!
Sẽ chẳng làm sao hưởng phước lành,
Kẻ đó bỏ mình trong rọ nhốt!
Chịu thiêu trong ngục tối hồn kinh!
Bấy
giờ vua mới tin ngài và cảm ơn ngài như vầy:
21. Ngài nguyện lời kia quả thật chân,
Giận hờn tan biến, tránh thù hằn:
Như ta tránh lửa trong mùa hạ,
Mong Ðiểu vương xa lành chúa Rồng!
Giận hờn tan biến, tránh thù hằn:
Như ta tránh lửa trong mùa hạ,
Mong Ðiểu vương xa lành chúa Rồng!
Phần
ngài, bậc Ðại sĩ cũng ngâm kệ nữa để cảm tạ vua:
22. Như mẹ hiền kia muốn bố ân
Cho con độc nhất quý vô ngần,
Ðại vương nhân ái cùng rồng rắn,
Xin phụng sự vua, mỗi chúng thần.
Cho con độc nhất quý vô ngần,
Ðại vương nhân ái cùng rồng rắn,
Xin phụng sự vua, mỗi chúng thần.
Bấy
giờ vua ước ao đi viếng cảnh giới loài
Rồng, nên truyền lệnh cho quân sĩ chuẩn bị sẵn sàng lên đường qua vần kệ:
23. Ðoàn vương xa, hãy thắng yên cương,
Ðứng sẵn bầy la khéo luyện thuần,
Vương tượng cân đai vàng chói lọi,
Ta cùng đi viếng xứ Long vương.
Ðứng sẵn bầy la khéo luyện thuần,
Vương tượng cân đai vàng chói lọi,
Ta cùng đi viếng xứ Long vương.
Sau đây là vần kệ phát xuất từ trí tuệ Tối thắng của đức Phật:
24. Trống con, trống lớn, đánh thì thùng,
Chũm chọe, tù và thổi dậy rân,
Kìa ngắm Ug-ga vương ngự đến
Huy hoàng hiện giữa đám cung tần.
Chũm chọe, tù và thổi dậy rân,
Kìa ngắm Ug-ga vương ngự đến
Huy hoàng hiện giữa đám cung tần.
Vào
lúc vua rời kinh thành, bậc Ðại sĩ dùng thần lực khiến cảnh giới Long vương
xuất hiện với một bức tường thành bao quanh làm bằng bảy loại châu báu, cùng
các tháp canh tại cổng thành, ngài hóa phép cho các con đường dẫn đến Long cung đều được trang hoàng rực
rỡ. Theo đường này, vua cùng đám tùy tùng bước vào cung và trông thấy một
khung cảnh đầy kỳ thú với nhiều lâu
đài nguy nga lộng lẫy cao sang.
Ðể
giải thích việc này, bậc Ðạo sư ngâm kệ:
25. Chúa tể Kà-si thấy đất bằng
Nơi nơi rải khắp cát như vàng,
Hoa san hô đẹp trồng quanh chốn,
Ðỉnh tháp bằng vàng ở tứ phương.
26. Sau đó, Ðại vương lại đặt chân
Ngự vào đại sảnh của Long thần
Tựa thiên lôi chủy đồng lóe sáng,
Hay cả vầng hồng tỏa ánh quang.
27. Vào đến Cam-pey đại sảnh đường,
Vừa dời gót ngọc, đấng Quân vương:
Ngàn cây đổ bóng che im mát,
Không khí ngàn mùi tỏa diệu hương.
28. Bên trong cung điện chúa Cam-pey,
Ðại đế vừa khi ngự đến đây,
Ðàn trổi khúc thần tiên tuyệt diệu,
Yêu kiều Long nữ múa như bay!
29. Ngài được mời lên bảo tọa vàng
Nệm êm ái sực nức chiên-đàn,
Cả đoàn kiều nữ khoan thai lướt
Khắp sảnh đường theo gót rộn ràng.
Nơi nơi rải khắp cát như vàng,
Hoa san hô đẹp trồng quanh chốn,
Ðỉnh tháp bằng vàng ở tứ phương.
26. Sau đó, Ðại vương lại đặt chân
Ngự vào đại sảnh của Long thần
Tựa thiên lôi chủy đồng lóe sáng,
Hay cả vầng hồng tỏa ánh quang.
27. Vào đến Cam-pey đại sảnh đường,
Vừa dời gót ngọc, đấng Quân vương:
Ngàn cây đổ bóng che im mát,
Không khí ngàn mùi tỏa diệu hương.
28. Bên trong cung điện chúa Cam-pey,
Ðại đế vừa khi ngự đến đây,
Ðàn trổi khúc thần tiên tuyệt diệu,
Yêu kiều Long nữ múa như bay!
29. Ngài được mời lên bảo tọa vàng
Nệm êm ái sực nức chiên-đàn,
Cả đoàn kiều nữ khoan thai lướt
Khắp sảnh đường theo gót rộn ràng.
Vừa
khi vua an tọa tại đó, quân hầu đã dâng lên đủ thức cao lương mỹ vị thần tiên, họ cũng đem các thứ này mời mười sáu ngàn Long nữ kia và
toàn thể hội chúng ấy. Suốt bảy ngày, vua cùngđám tùy tùng thọ hưởng các thực
phẩm thần tiên cùng mọi lạc thú khác. Vừa ngự trên bảo tọa, vua vừa ca ngợi
cảnh vinh quang của bậc Ðại sĩ:
-
Này Long vương - vua hỏi - tại sao ngài bỏ mọi cảnh huy hoàng này để đi nằm trên tổ kiến giữa cảnh trần thế của
con người và hành trì ngày trai giới vậy?
Bậc
Ðại sĩ liền đáp lại vua.
Ðể
giải thích sự việc này, bậc Ðạo sư ngâm kệ:
30. Chốn kia, vua hưởng thú vui tràn,
Rồi tới Cam-pey chúa, hỏi han:
"Cung điện ngài đây vinh hiển quá,
Hồng như vầng nhật tỏa hào quang,
Trên trần không chốn nào như vậy,
Vì cớ sao ngài muốn ẩn thân?
31. Ðứng đây toàn tuyệt sắc giai nhân
Cầm lấy bằng đầu ngón búp măng
Chén rượu trong bàn tay ửng đỏ,
Ðai vàng ôm sát ngực và thân,
Tại sao ngài muốn làm tu sĩ,
Chẳng thấy cảnh kia ở cõi trần?
32. Suối, sông, hồ cá đẹp, trong ngần,
Ðều có bến xây bậc vững vàng
Trên trần chẳng chốn nào như thế,
Vì cớ sao ngài muốn ẩn thân?
33. Ðàn công, sếu hạc, với thiên nga,
Bao vẻ mê hồn cu gáy ca,
Vì cớ sao ngài làm ẩn sĩ,
Trên đời đâu thấy cảnh kia mà?
34. Ðây trồng ti-lak, đó xoài, sal,
Hoa quế, hoa chuông nở rộ tràn,
Chẳng thấy cảnh này nơi địa giới,
Sao ngài làm ẩn sĩ trần gian?
35. Nhìn các hồ kia, gió thoảng đưa,
Hương thần tiên tỏa khắp đôi bờ,
Cảnh này không thấy trên trần giới,
Vì cớ sao ngài muốn ẩn cư?
Rồi tới Cam-pey chúa, hỏi han:
"Cung điện ngài đây vinh hiển quá,
Hồng như vầng nhật tỏa hào quang,
Trên trần không chốn nào như vậy,
Vì cớ sao ngài muốn ẩn thân?
31. Ðứng đây toàn tuyệt sắc giai nhân
Cầm lấy bằng đầu ngón búp măng
Chén rượu trong bàn tay ửng đỏ,
Ðai vàng ôm sát ngực và thân,
Tại sao ngài muốn làm tu sĩ,
Chẳng thấy cảnh kia ở cõi trần?
32. Suối, sông, hồ cá đẹp, trong ngần,
Ðều có bến xây bậc vững vàng
Trên trần chẳng chốn nào như thế,
Vì cớ sao ngài muốn ẩn thân?
33. Ðàn công, sếu hạc, với thiên nga,
Bao vẻ mê hồn cu gáy ca,
Vì cớ sao ngài làm ẩn sĩ,
Trên đời đâu thấy cảnh kia mà?
34. Ðây trồng ti-lak, đó xoài, sal,
Hoa quế, hoa chuông nở rộ tràn,
Chẳng thấy cảnh này nơi địa giới,
Sao ngài làm ẩn sĩ trần gian?
35. Nhìn các hồ kia, gió thoảng đưa,
Hương thần tiên tỏa khắp đôi bờ,
Cảnh này không thấy trên trần giới,
Vì cớ sao ngài muốn ẩn cư?
Long
vương:
36. Chẳng vì thọ mạng, của hay con,
Ta phấn đấu vầy với bản thân,
Nếu được, chính lòng ta ước nguyện,
Tái sinh làm một kẻ phàm nhân.
Ta phấn đấu vầy với bản thân,
Nếu được, chính lòng ta ước nguyện,
Tái sinh làm một kẻ phàm nhân.
Vua
lại nói:
37. Phục sức cao sang, mắt đỏ ngầu,
Rộng vai và nhẵn nhụi đầu râu,
Chiên-đàn tẩm ướt, như Thiên đế
Phán bảo toàn dân chúng địa cầu.
38. Lực thần vĩ đại thật hùng oai,
Làm chủ quyền mơ ước mọi loài,
Rồng chúa, xin vui lòng giải đáp,
Vì sao địa giới vượt Long đài?
Rộng vai và nhẵn nhụi đầu râu,
Chiên-đàn tẩm ướt, như Thiên đế
Phán bảo toàn dân chúng địa cầu.
38. Lực thần vĩ đại thật hùng oai,
Làm chủ quyền mơ ước mọi loài,
Rồng chúa, xin vui lòng giải đáp,
Vì sao địa giới vượt Long đài?
Câu
hỏi này được Rồng chúa đáp lại
như sau:
39. Thanh tịnh, điều thân, chỉ đạt thành
Khi người ta sống giữa quần sinh,
Nếu làm người, chẳng bao giờ nữa
Ta thấy tử sinh đến với mình.
Khi người ta sống giữa quần sinh,
Nếu làm người, chẳng bao giờ nữa
Ta thấy tử sinh đến với mình.
Vua
lắng nghe và đáp kệ này:
40. Quả thật là chân chánh thiện tâm
Tôn sùng bậc trí tuệ uyên thâm
Tầm tư siêu việt thường sinh khởi.
Khi trẫm nay chiêm ngưỡng chúa Rồng,
Cùng với cả đoàn Long nữ ấy,
Trẫm mong làm thiện nghiệp muôn phần.
Tôn sùng bậc trí tuệ uyên thâm
Tầm tư siêu việt thường sinh khởi.
Khi trẫm nay chiêm ngưỡng chúa Rồng,
Cùng với cả đoàn Long nữ ấy,
Trẫm mong làm thiện nghiệp muôn phần.
Long
vương bảo ngài:
41. Quả thật là chân chánh thiện tâm
Tôn sùng bậc trí tuệ uyên thâm
Tầm tư siêu việt thường sinh khởi.
Khi Ðại vương nhìn thấy tiểu quân,
Cùng với cả đoàn Long nữ ấy,
Ngài mong thành thiện nghiệp muôn phần.
Tôn sùng bậc trí tuệ uyên thâm
Tầm tư siêu việt thường sinh khởi.
Khi Ðại vương nhìn thấy tiểu quân,
Cùng với cả đoàn Long nữ ấy,
Ngài mong thành thiện nghiệp muôn phần.
Sau
buổi đàm đạo ấy, vua Uggasena muốn ra đi, liền tạ từ ngài và bảo:
-
Này Long vương, trẫm ở lại đây đã lâu rồi, nay trẫm
cần phải ra về.
Bậc
Ðại sĩ liền chỉ các kho báu cho vua xem, vừa tặng bất cứ thứ gì vua muốn lấy,
ngài vừa ngâm kệ:
42. Vàng thoi bỏ đó, kể không cùng,
Bạc chất như cây cả mấy tầng,
Ngài lấy mà xây tường đá bạc,
Ðem về dựng gác ngọc lầu vàng.
43. Ta đoán năm ngàn xe ngọc trai,
San hô chen giữa ửng hồng tươi,
Lấy đi để trải đầy cung điện
Chẳng thấy đất dơ lộ phía ngoài.
44. Ðại vương! Hãy dựng một cung đình,
Như tiểu quân nay muốn tấu trình,
Tại đó xin ngài lên ngự trị,
Thành Ba-la-nại sẽ phồn vinh:
Mong ngài cai trị dân hiền đức,
Và trị nước nhà thật xứng danh.
Bạc chất như cây cả mấy tầng,
Ngài lấy mà xây tường đá bạc,
Ðem về dựng gác ngọc lầu vàng.
43. Ta đoán năm ngàn xe ngọc trai,
San hô chen giữa ửng hồng tươi,
Lấy đi để trải đầy cung điện
Chẳng thấy đất dơ lộ phía ngoài.
44. Ðại vương! Hãy dựng một cung đình,
Như tiểu quân nay muốn tấu trình,
Tại đó xin ngài lên ngự trị,
Thành Ba-la-nại sẽ phồn vinh:
Mong ngài cai trị dân hiền đức,
Và trị nước nhà thật xứng danh.
Vua
chấp thuận lời đề nghị này. Sau đó bậc Ðại sĩ ban lời bố cáo khắp kinh thành bằng tiếng trống lệnh:
-
Hãy để cho đám tùy tùng của đức vua từ nhân giới lấy đem về bất cứ món gì
trong các kho báu của ta, cả vàng ròng nữa như ý muốn.
Rồi
ngài truyền đưa bảo vật đến tặng vua
chất đầy hàng trăm cỗ xe.
Xong
xuôi, vua giã từ cảnh giới Long vương trong muôn vẻ huy hoàng trọng thể và trở
về thành Ba-la-nại. Từ đó về sau, tục truyền
rằng đất được lát vàng khắp cả xứ Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ).
*
Khi
Pháp thoại này chấm dứt, bậc Ðạo sư bảo:
- Như
vậy các bậc trí ngày xưa đã từ giã cảnh vinh quang trong thế giới loài Rồng để hành trì ngày trai giới.
Rồi
Ngài nhận diện Tiền thân:
- Vào
thời ấy Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) là người nhử rắn, mẹ của Ràhula (La-hầu-la) là
nàng Sumanà, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là vua Uggasena và Ta chính là Long vương
Campeyya.
-ooOoo-
507.
Chuyện sức cám dỗ mạnh (Tiền thân Mahà-Palobhana)
Từ cõi
Phạm thiên một vị thần..,
Câu
chuyện này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về sự ô nhiễm lậu hoặc của
các vị bậc thanh tịnh.
Các
hoàn cảnh đã được nêu trước kia. Tại đây, một lần nữa, bậc Ðạo sư bảo:
- Nữ
nhân thường gây cấu uế cho cả những người đã đạt tâm thanh tịnh.
Rồi
Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Một
thuở nọ tại thành Ba-la-nại.. câu chuyện đời xưa này cũng diễn tiến như trong Tiền thân Cullapalobhana. Bấy
giờ một lần nữa, bậc Ðại sĩ từ Phạm thiên giới giáng trần làm vương tử của vua
Kàsi và ngài có tên là Anitthi gandha: Người ghét nữ nhân. Vương tử hài nhi
không muốn ở trong tay bất cứ một nữ nhân nào, nên bọn chúng phải mặc áo quần đàn ông khi cho vương tử bú sữa và chàng cứ ở
riêng trong một thiền thất, không hề thấy bóng một nữ nhân nào cả.
Ðể
giải thích việc này, bậc Ðạo sư ngâm bốn vần kệ:
1. Từ cõi Phạm thiên, một vị thần
Ðến đây là thế giới phàm nhân
Tái sinh, ngài được làm hoàng tử,
Mỗi ước mơ là lệnh phải vâng.
2. Chẳng có nghiệp tình, cõi Phạm thiên,
Chưa hề nghe nói chuyện tình duyên,
Giờ sinh dục giới này, vương tử
Nghe chữ "tình" thôi, chán ngấy liền!
3. Ở nội cung, hoàng tử đã xây,
Một am thất nhỏ của riêng tây,
Nơi chàng chìm đắm vào Thiền định,
Ðơn độc trôi qua chuỗi tháng ngày.
4. Phụ vương lo lắng trước hoàng nam
Khi biết chàng trong ấy, khóc than:
"Trẫm chí sinh ra mình thái tử
Mà bao dục lạc, trẻ không màng!"
Ðến đây là thế giới phàm nhân
Tái sinh, ngài được làm hoàng tử,
Mỗi ước mơ là lệnh phải vâng.
2. Chẳng có nghiệp tình, cõi Phạm thiên,
Chưa hề nghe nói chuyện tình duyên,
Giờ sinh dục giới này, vương tử
Nghe chữ "tình" thôi, chán ngấy liền!
3. Ở nội cung, hoàng tử đã xây,
Một am thất nhỏ của riêng tây,
Nơi chàng chìm đắm vào Thiền định,
Ðơn độc trôi qua chuỗi tháng ngày.
4. Phụ vương lo lắng trước hoàng nam
Khi biết chàng trong ấy, khóc than:
"Trẫm chí sinh ra mình thái tử
Mà bao dục lạc, trẻ không màng!"
Vần
kệ thứ năm diễn tả lời than vãn của vua cha:
5. Ai cho trẫm biết phải làm gì?
Ôi, lẽ nào không có cách chi?
Ai dạy con thèm mùi dục lạc?
Có ai làm thái tử mê ly?
Ôi, lẽ nào không có cách chi?
Ai dạy con thèm mùi dục lạc?
Có ai làm thái tử mê ly?
Vần
kệ rưỡi này là vần kệ xuất phát từ Trí tuệ Tối thắng của đức Phật:
6. Có thiếu nữ kia dáng mỹ miều,
Làn da trắng muốt thật yêu kiều,
Nàng thông suốt một trời ca nhạc,
Và uốn người quay tít thật đều.
Xuân nữ này đi tìm Chúa thượng,
Thế là nàng khởi chuyện tình yêu.
Làn da trắng muốt thật yêu kiều,
Nàng thông suốt một trời ca nhạc,
Và uốn người quay tít thật đều.
Xuân nữ này đi tìm Chúa thượng,
Thế là nàng khởi chuyện tình yêu.
Nửa
vần kệ này do cô gái ngâm:
7. Thần thiếp sẽ đi quyến rủ chàng,
Nếu duyên cầm sắt được ngài ban.
Nếu duyên cầm sắt được ngài ban.
Vua đáp lời cô gái, và phán như vầy như vầy:
Gắng công cám dỗ cho hoàn mãn,
Chàng sẽ là vương tử của nàng!
Chàng sẽ là vương tử của nàng!
Bấy
giờ vua truyền lệnh tạo ra mọi cơ hội thuận tiện cho nàng và triệu nàng vào
chầu chực bên mình vương tử.
Buổi
sáng kia, nàng đem cây đàn đến đứng ngay bên ngoài tịnh thất của vương tử
và chạm nhẹ các đầu ngón tay vào đàn, cố ra sức quyến rủ chàng bằng giọng ca êm
ái dịu ngọt làm sao.
Bậc
Ðạo sư ngâm kệ để giải thích việc này:
8. Kiều nhi vào tận chốn cung đình,
Nơi đó nàng riêng đứng một mình,
Hát khúc ngọt ngào, đầy khát vọng,
Xuyên vào tim của bạn chung tình.
9. Xuân nữ đứng kia, cất tiếng oanh,
Ông hoàng nghe lọt được âm thanh,
Tức thì bỗng thấy lòng mê mẩn,
Chàng hỏi quân hầu đứng chực quanh:
10. "Âm thanh nào đó thật du dương
Ðưa đến phòng ta rõ lạ thường,
Ðâm suốt con tim, đầy dục tưởng,
Bên tai kỳ thú thật khôn lường!"
11. "- Vương tử, nàng kia ngắm tuyệt xinh!
Biết bao đùa cợt, vẻ đa tình,
Ví ngài mong hưởng tình ngon ngọt,
Thì lạc thú đây, hãy đắm mình!".
12. "- Này, bảo nàng kia hãy đến gần,
Rồi nàng ca hát thật nhiều lần,
Ðến đây, trước mặt ta rồi hát
Ngay chính bên trong cánh cửa phòng!"
13. Cô gái vừa ca ngoại bức tường,
Ðứng kia, trong thất của ông hoàng,
Nàng vây chàng chặt như voi nọ
Bị mắc bẫy giăng giữa núi ngàn!
14. Chàng hưởng tròn hoan lạc ái ân,
Kìa xem! Tràn ngập nỗi ghen tương:
"Không ai được phép yêu nàng cả!
Chỉ một mình ta được luyến thương!"
15. Một mình ta, chẳng được người nào!
Rồi chạy ra, chàng cứ thét gào,
Cầm kiếm lồng lên như khát máu
Ði tàn sát hết bọn mày râu!
16. Lâm nguy, dân chúng thét vang lừng,
Toàn thể phi thân đến hậu cung:
"Vương tử giết người bất kể số,
Chẳng ai khiêu khích!" Họ kêu rần.
17. Ðại vương truyền bắt lấy chàng ngay,
Khuất mắt phụ vương, phán lệnh đày:
"Con chẳng được tìm nơi trú ẩn
Trong vùng biên địa nước ta này!".
18. Chàng đem vợ quý nọ lên đường
Cho đến khi dừng cạnh đại dương,
Tại đó chàng xây lều lợp lá,
Sống bằng của nhặt ở rừng hoang.
19. Một đạo nhân thanh tịnh lượt ngang
Bay qua biển cả, giữa không gian,
Ði vào lều lá sao vừa lúc
Cơm nước vừa đem dọn sẵn sàng.
20. Cô nàng kia quyến rủ ngài ngay,
Xem việc làm sao hạ liệt thay!
Ngài đọa khỏi con đường Thánh hạnh,
Mọi thần thông lực thảy xa bay!
21. Chiều đến, khi vương tử trở về,
Do chàng thâu nhặt thật tràn trề
Quả rau, một đống trên đòn gánh,
Ðồ vật rừng hoang đã phủ phê!
22. Ẩn sĩ nhìn vương tử đến gần,
Ngài ra bờ biển vội rời chân,
Ngỡ là hành cước qua không khí,
Song chỉ chìm sâu xuống biển dần!
23. Vương tử vừa khi thấy trí nhân
Vào trong biển cả cứ chìm thân,
Từ tâm khởi dậy trong vương tử,
Liền đó chàng ngâm kệ mấy vần:
24. Ngài phi hành đến bởi thần thông
Trên biển không buồm để ruổi dong,
Chìm xuống giờ đây, vì ác phụ,
Khiến ngài chịu nhục nhã tiêu vong.
25. Phản bội, hồng quần cám dỗ ta,
Khiến người thanh tịnh nhất sa đà!
Chúng chìm dần xuống và dần xuống,
Ai biết hồng quần phải tránh xa!
26. Nói ngọt ngào, song khó thỏa lòng,
Cũng như khó đổ nước đầy sông,
Chúng chìm dần xuống và dần xuống,
Ai biết, nên xa lánh má hồng!
27. Bất kể hồng nhan phục vụ ai,
Hoặc vì tham dục hoặc tiền tài,
Chúng thiêu chàng rụi như nhiên liệu
Ðược thả cháy trong lửa sáng ngời!
28. Ẩn sĩ nghe lời thái tử khuyên,
Chán chê trần thế quả hư huyền,
Trở về Thánh đạo xưa thanh tịnh,
Ngay giữa không gian đứng vụt liền.
29. Vương tử vừa khi đứng ngắm trông
Cách ngài bay bổng giữa hư không,
Buồn phiền, vương tử liền cương quyết
Lựa chọn đời thanh tịnh vững lòng.
30. Chuyển hướng tu hành, quyết đập tan
Dục tham và khát vọng nồng nàn,
Dục tham lắng dịu, chàng thề nguyện:
"Ðến cõi Phạm thiên, tiến thẳng đàng".
Nơi đó nàng riêng đứng một mình,
Hát khúc ngọt ngào, đầy khát vọng,
Xuyên vào tim của bạn chung tình.
9. Xuân nữ đứng kia, cất tiếng oanh,
Ông hoàng nghe lọt được âm thanh,
Tức thì bỗng thấy lòng mê mẩn,
Chàng hỏi quân hầu đứng chực quanh:
10. "Âm thanh nào đó thật du dương
Ðưa đến phòng ta rõ lạ thường,
Ðâm suốt con tim, đầy dục tưởng,
Bên tai kỳ thú thật khôn lường!"
11. "- Vương tử, nàng kia ngắm tuyệt xinh!
Biết bao đùa cợt, vẻ đa tình,
Ví ngài mong hưởng tình ngon ngọt,
Thì lạc thú đây, hãy đắm mình!".
12. "- Này, bảo nàng kia hãy đến gần,
Rồi nàng ca hát thật nhiều lần,
Ðến đây, trước mặt ta rồi hát
Ngay chính bên trong cánh cửa phòng!"
13. Cô gái vừa ca ngoại bức tường,
Ðứng kia, trong thất của ông hoàng,
Nàng vây chàng chặt như voi nọ
Bị mắc bẫy giăng giữa núi ngàn!
14. Chàng hưởng tròn hoan lạc ái ân,
Kìa xem! Tràn ngập nỗi ghen tương:
"Không ai được phép yêu nàng cả!
Chỉ một mình ta được luyến thương!"
15. Một mình ta, chẳng được người nào!
Rồi chạy ra, chàng cứ thét gào,
Cầm kiếm lồng lên như khát máu
Ði tàn sát hết bọn mày râu!
16. Lâm nguy, dân chúng thét vang lừng,
Toàn thể phi thân đến hậu cung:
"Vương tử giết người bất kể số,
Chẳng ai khiêu khích!" Họ kêu rần.
17. Ðại vương truyền bắt lấy chàng ngay,
Khuất mắt phụ vương, phán lệnh đày:
"Con chẳng được tìm nơi trú ẩn
Trong vùng biên địa nước ta này!".
18. Chàng đem vợ quý nọ lên đường
Cho đến khi dừng cạnh đại dương,
Tại đó chàng xây lều lợp lá,
Sống bằng của nhặt ở rừng hoang.
19. Một đạo nhân thanh tịnh lượt ngang
Bay qua biển cả, giữa không gian,
Ði vào lều lá sao vừa lúc
Cơm nước vừa đem dọn sẵn sàng.
20. Cô nàng kia quyến rủ ngài ngay,
Xem việc làm sao hạ liệt thay!
Ngài đọa khỏi con đường Thánh hạnh,
Mọi thần thông lực thảy xa bay!
21. Chiều đến, khi vương tử trở về,
Do chàng thâu nhặt thật tràn trề
Quả rau, một đống trên đòn gánh,
Ðồ vật rừng hoang đã phủ phê!
22. Ẩn sĩ nhìn vương tử đến gần,
Ngài ra bờ biển vội rời chân,
Ngỡ là hành cước qua không khí,
Song chỉ chìm sâu xuống biển dần!
23. Vương tử vừa khi thấy trí nhân
Vào trong biển cả cứ chìm thân,
Từ tâm khởi dậy trong vương tử,
Liền đó chàng ngâm kệ mấy vần:
24. Ngài phi hành đến bởi thần thông
Trên biển không buồm để ruổi dong,
Chìm xuống giờ đây, vì ác phụ,
Khiến ngài chịu nhục nhã tiêu vong.
25. Phản bội, hồng quần cám dỗ ta,
Khiến người thanh tịnh nhất sa đà!
Chúng chìm dần xuống và dần xuống,
Ai biết hồng quần phải tránh xa!
26. Nói ngọt ngào, song khó thỏa lòng,
Cũng như khó đổ nước đầy sông,
Chúng chìm dần xuống và dần xuống,
Ai biết, nên xa lánh má hồng!
27. Bất kể hồng nhan phục vụ ai,
Hoặc vì tham dục hoặc tiền tài,
Chúng thiêu chàng rụi như nhiên liệu
Ðược thả cháy trong lửa sáng ngời!
28. Ẩn sĩ nghe lời thái tử khuyên,
Chán chê trần thế quả hư huyền,
Trở về Thánh đạo xưa thanh tịnh,
Ngay giữa không gian đứng vụt liền.
29. Vương tử vừa khi đứng ngắm trông
Cách ngài bay bổng giữa hư không,
Buồn phiền, vương tử liền cương quyết
Lựa chọn đời thanh tịnh vững lòng.
30. Chuyển hướng tu hành, quyết đập tan
Dục tham và khát vọng nồng nàn,
Dục tham lắng dịu, chàng thề nguyện:
"Ðến cõi Phạm thiên, tiến thẳng đàng".
*
Khi
Pháp thoại này chấm dứt, bậc Ðạo sư bảo:
- Như
vậy, này các Tỷ-kheo, chỉ vì nữ nhân mà ngay những người có tâm thanh tịnh cũng
vẫn gây ác nghiệp.
Rồi
ngài thuyết giảng các Sự thật, bấy giờ vào lúc kết thúc các Sự thật, vị Tỷ-kheo
thối thất kia đãđắc Thánh quả A-la-hán.
Sau đó, Ngài nhận diện Tiền thân:
- Vào
thời ấy, Ta chính là Vương tử Anitthigandha
-ooOoo-
508.
Chuyện năm vị Hiền nhân (Tiền thân Panca-Pandita)
Chuyện
Tiền thân về năm vị Hiền nhân sẽ được kể trong Tiền thân Mahà-Ummagga (Ðường
Hầm lớn) số 546, tập VII.
-ooOoo-
509.
Chuyện Hiền giả quản tượng (Tiền thân Hatthipàla)
Cuối
cùng thấy một Bà-la-môn..,
Câu
chuyện này, bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về Ðại sự Xuất thế của
Ngài.
Rồi
cùng với các lời sau đây:
- Này
các Tỷ-kheo, không phải đây là lần đầu tiên Như Lai làm Ðại sự xuất thế, mà xưa kia
cũng vậy.
Bậc Ðạo
sư kể cho Tăng chúng một chuyện quá khứ.
*
Một
thời tại Ba-la-nại, có một vị vua cai trị mệnh danh là Esukàri. Vị tế sư của
ngài vốn là bạnđồng môn được ngài yêu chuộng từ thuở niên thiếu. Cả hai đều không có con. Một ngày kia trong lúc hai vị đang ngồi chuyện trò thân thiết cùng nhau, hai
vị nghĩ thầm: "Chúng ta cùng hưởng cảnh đại vinh quang, song chẳng hề có con trai con gái gì cả, vậy phải
làm sao bây giờ?" Vua liền bảo vị tế sư:
-
Này hiền hữu, nếu nhà hiền hữu sinh được một công tử thì hài nhi đó sau trở thành chúa tể trong quốc độ ta, song nếu ta sinh được một hoàng nam thì đó sẽ là chủ nhân tài sản nhà hiền hữu vậy.
Cả
hai vị giao ước với nhau về các chuyện tiếp theo các điều lệ này.
Một
hôm, vị tế sư đi đến ngôi làng có hoa
lợi của mình, và vào làng bằng cổng phía nam, vị này thấy ngoài cổng làng một
người đàn bà cùng khổ lại sinh nhiều con trai quá: có đến bảy đứa, tất cả đều cường tráng khỏe mạnh,
đứa cầm nồi đem chảo đi nấu bếp, đứa thì lấy chiếu trải giường, thằng này đi trước thằng nọ theo sau, thằng khác nắm tay
mẹ, thằng kia ngồi trong lòng mẹ, một thằng nữa trèo trên vai bà. Vị tế sư hỏi:
-
Thế cha bầy trẻ này đâu?
Bà
ấy đáp:
-
Thưa ngài, chắc chắn là đám trẻ chẳng có cha nào
cả.
Vị
này hỏi:
-
Vậy thì làm sao bà có được bảy thằng con xinh
tốt như thế này?
Người đàn bà không để ý đến cả khu rừng rậm, mà chỉ tay vào cây đa đứng cạnh cổng thành và nói:
-
Thưa ngài, tiện thiếp cầu khẩn vị thần sống ở cây này, vị thần ấy đáp lại lời cầu xin của thiếp bằng cách ban cho
bảy thằng bé ấy.
Vị
tế sư liền bảo:
-
Thôi được, bà đi đi.
Rồi
vị này xuống xe bước lên cây ấy, cầm một cành mà lắc mạnh, bảo nó:
-
Này thần linh, đức vua có thiếu món gì
cúng ông, suốt năm này qua năm khác, ngài cúng ông cả ngàn đồng tiền, mà ngược lại ông chẳng ban cho ngài
vị vương tử nào cả. Còn mụ ăn mày kia đã làm gì mà ông cho mụ cả bảy đứa con trai hử? Ông phải cho đức vua một đứa
con trai này trong vòng bảy ngày, nếu không ta sẽ bảo chặt đốn thân ông xuống và xẻ ra từng khúc đấy.
Khi
trách mắng vị thần cây đa như thế xong, vị tế
sư ra đi.
Suốt
sáu ngày vị tế sư cứ làm như vậy và vào ngày thứ sáu, vừa nắm một cành cây vừa
bảo:
-
Này thần cây, chỉ còn một đêm nữa thôi đấy, nếu ông không cho đức vua một con trai thì
thân ông phải ngã xuống ngay.
Vị
nữ thần trên cây suy nghĩ mãi cho đến khi nàng thấy sự việc ấy rõ ràng như thế nào. Nàng nghĩ thầm:
"Vị Bà-la-môn kia sẽ phá tan nhà của ta nếu vị ấy không được đứa con trai. Vậy ta biết cho ngài một con
trai bằng cách nào đây đã chứ? Sau đó nàng yết kiến Tứ đại Thiên vương, và tâu trình với các ngài. Các
ngài phán:
-
Này, chúng ta không thể ban cho người ấy một đứa con trai được!
Kế đó, nàng đến gặp hai mươi tám vị thần Dạ-xoa (Yakkha), các thần kia cũng
trả lời nàng như vậy, nàng liền đến yết kiến Sakka (Ðế
Thích) Thiên chủ và tâu trình ngài.
Thiên
chủ suy nghĩ trong lòng: "Nhà vua nay có sinh được hoàng nam xứng đáng với mình hay chăng?" Rồi ngài nhìn
quanh và chợt thấy bốn vị Thiên tử đức độ. Truyện kể rằng các vị này nguyên là thợ dệt ở Ba-na-lại,
trong một đời trước, tất cả mọi
tiền của kiếm được nhờ buôn bán, các vị ấy chia làm năm phần, bốn phần làm của
riêng mỗi người, còn phần thứ năm là của chungđược đem ra bố thí hết. Từ thành
ấy chư vị tái sanh lên cõi trời (Ba-mươi-ba) sau đó lại tái sinh vào cõi Yama thiên (Dạ-ma), từ đấy cứ tái sinh liên tục lên xuống qua về sáu
tầng trời cõi dục và hưởng thọ vô số vinh quang.
Ngay
thời bấy giờ là lúc chư vị phải đi từ cõi trời
Ba-mươi-ba đến cõi Yama (Dạ-ma).
Thiên chủ Sakka liền đi tìm kiếm, đi đến cõi nhân gian và nhập mẫu thai của chánh
hậu Ðại vương Esukàri.
-
Lành thay, tâu Thiên chủ.
Và
các vị cùng nói những lời này:
-
Chúng thần sẽ đi, song chúng thần
không muốn liên quan gì đến hoàng gia cả: chúng
thần sẽ tái sinh vào gia đình vị tế sư và ngay
khi còn thanh niên, chúng thần sẽ từ giã thế tục.
Thế
là Thiên chủ tán thành các vị ngay về lời cam kết kia, xong ngài trở về, kể lại
mọi chuyện cho nữ thần sống trên cây đa ấy. Nữ thần rất vui mừng, tạ từ Thiên chủ Sakka và lui về nơi
cư ngụ của mình.
Còn
vị tế sư ngày hôm sau lại đến cùng với một đám người lực lưỡng mà vị này đã tập họp lại, mỗi người cầm một cây rìu thật
bén hay một vật tương tự. Vị tế sư bước gần cây nắm một cành và kêu to:
-
Này thần cây! Ðây là ngày thứ bảy. Kể từ khi ta cầu khẩn ông một đặc ân: nay đã đến phá hoại cây rồi đó!
Vị
thần cây dùng đại lực của nàng làm nứt
nẻ thân cây và xuất hiện với giọng ngọt ngào, bảo vị ấy như vầy:
-
Này vị Bà-la-môn, ngài muốn có một nam tử chăng? Chà! Ta sẽ ban cho ngài cả bốn đứa kia!
Vị
tế sư bảo:
-
Ta không muốn có con, xin nàng có một đứa con trai cho đức vua của ta thôi.
Nàng đáp:
-
Không được đâu, ta chỉ muốn ban cho ngài thôi.
Vậy
thì nàng hãy ban cho đức vua hai đứa và ta
hai đứa đi.
-
Không được, đức vua chẳng thể nào có con đâu, phần ngài phải có cả bốn đứa, mà chúng chỉđược phép ban cho riêng ngài
thôi, là vì chúng sẽ không muốn sống cuộc đời thế tục tại gia, nên ngay lúc tuổi còn thanh xuân, chúng sẽ từ
giã thế tục này.
-
Vậy nàng cứ cho ta các đứa con trai ấy đi, ta
quyết chăm sóc để bọn chúng khỏi từ giã thế tục. Vị ấy đáp.
Như
vậy là nữ thần đã chấp thuận lợi cầu tự
của vị tế sư này và trở về chỗ cư ngụ của nàng. Từ đó về sau, nữ thần kia được trọng vọng tôn vinh
lắm.
Bấy
giờ vị Thiên tử lớn nhất giáng trần, nhập mẫu thai của phu nhân vị quốc sư kia.
Vào ngày đặt tên, gia đình ấy gọi hài nhi là Hatthipala hay Người Quản
Tượng, và để ngăn cản con trai rời
khỏi thế tục này, họ giao hài nhi cho vài người giữ voi chăm sóc, nên hài nhi
lớn lên giữa đám người ấy.
Khi
hài nhi mới lớn vừa biết đi chập chững thì hài
nhi thứ hai ra đời cũng từ phu nhân ấy.
Vào ngày sanh, họ đặt tên hài nhi là
Assapàla hay Người Giữ Ngựa, và hài nhi lớn lên giữa bọn người giữ ngựa. Hài
nhi thứ ba lúc ra đời được đặt tên là
Gopàla hay Người Chăn Trâu và hài nhi lớn lên giữa bầy mục tử. Còn Ajapàla hay
Người Chăn Dê, là tên hài nhi thứ tư được gọi lúc ra đời và hài nhi này lớn lên giữa đám người chăn dê. Khi bầy trẻ lớn lên, chúng là
những nam tử có đầy đủ tướng mạo tốt
lành.
Lúc
bấy giờ, vì lo sợ bầy con trai từ bỏ thế tục nên các người tu khổ hạnh xuất gia đều bị đuổi ra khỏi quốc độ này: trong toàn xứ
sở Kàsi không còn sót tu sĩ nào cả. Riêng bầy nam tử này tính tình thô bạo lắm:
hễ chúng đi trên con đường nào là chúng cướp đoạt những lễ vật cúng cấp đây đó trong vùng.
Khi
Hathipàla lên mười sáu tuổi, vua và vị tế sư thấy dung mạo hoàn mỹ của chàng,
liền nghĩ thầm: "Các con nay đã khôn lớn mạnh mẽ. Khi đã giương lên chiếc lọng hoàng gia rồi thì ta sẽ làm gì chúng được nữa? Ngay khi làm lễ quán đảnh cho chúng xong, chúng sẽ thống trị tất cả:
Các vị tu khổ hạnh sẽ đến, bọn chúng sẽ thấy các vị đó và cũng sẽ trở thành các
vị tu khổ hạnh luôn; một khi chúng hành động như thế thì cả nước sẽ loạn lên mất. Vậy trước tiên ta phải
thử lòng chúng rồi sau đó mới làm lễ quán đảnh".
Thế
là hai vị này cải trang làm các nhà tu khổ hạnh và đi khất thực cho đến khi vào tận cửa nhà của
Hatthipàla đang ở. Chàng trai này
vui vẻ thích thú ngay khi gặp hai vị, liền bước đến gần đảnh lễ hai vị rất cung kính, và ngâm
vần kệ:
1. Cuối cùng thấy được Bà-la-môn
Ðầu tóc búi to, tựa Thánh thần,
Răng bẩn, hôi dơ đầy bụi bặm,
Lại gồng gánh nặng nhọc trên lưng.
2. Cuối cùng thấy được một hiền nhân
Vui thú theo đường lối chánh chân
Với vỏ cây làm y phủ kín,
Và thêm một chiếc nữa màu vàng.
3. Xin nhận tọa sàng nước rửa chăn,
Thật là chân chánh lúc đem dâng,
Tặng nhiều thực phẩm chư hiền khách,
Xin nhận, vì gia chủ đón mừng.
Ðầu tóc búi to, tựa Thánh thần,
Răng bẩn, hôi dơ đầy bụi bặm,
Lại gồng gánh nặng nhọc trên lưng.
2. Cuối cùng thấy được một hiền nhân
Vui thú theo đường lối chánh chân
Với vỏ cây làm y phủ kín,
Và thêm một chiếc nữa màu vàng.
3. Xin nhận tọa sàng nước rửa chăn,
Thật là chân chánh lúc đem dâng,
Tặng nhiều thực phẩm chư hiền khách,
Xin nhận, vì gia chủ đón mừng.
Chàng
trai lần lượt nói như vậy với hai vị. Rồi vị tế sư bảo:
-
Này Hatthipàla con hỡi, con nói điều này vì con không
biết chúng ta. Con tưởng chúng ta là các bậc hiền nhân từ vùng Tuyết Sơn xuống đây ư, song thật chúng ta không phải như vậy
đâu, con ạ.Ðây là Ðại vương Esukàri và ta là thân phụ của con, vị quốc sư đó.
Chàng
trai nói:
-
Thế thì tại sao Ðại vương và thân phụ đắp y như các bậc hiền giả?
Vị
ấy đáp:
-
Ðể thử lòng các con đó mà!
Chàng
hỏi:
-
Tại sao lại thử con chứ?
-
Bởi vì, nếu con gặp chúng ta mà không muốn từ giã thế tục thì chúng ta sẵn sàng
làm lễ quánđảnh phong vương cho con ngay.
-
Ồ thưa phụ vương, chàng đáp, con chẳng ham vương
vị, con muốn rời bỏ thế tục.
Thân
phụ chàng liền đáp:
-
Này con Hatthipàla, đây chưa phải thời để
rời bỏ thế tục đâu.
Rồi
vị này giải thích ý định của mình qua vần kệ
thứ tư:
4. Học Vệ-đà kinh, việc trước tiên,
Làm giàu và cướp vợ vầy duyên,
Nhiều con, hưởng thú vui trần thế,
Thanh, sắc cùng hương, vị, xúc êm,
Sau đó ẩn cư rừng khả ái,
Thế là người trí xứng danh hiền.
Làm giàu và cướp vợ vầy duyên,
Nhiều con, hưởng thú vui trần thế,
Thanh, sắc cùng hương, vị, xúc êm,
Sau đó ẩn cư rừng khả ái,
Thế là người trí xứng danh hiền.
Hatthipàla đáp lại với vần kệ:
5. Chân lý không sao lại đạt thành
Từ vàng bạc hoặc Vệ-đà kinh,
Nhiều con chẳng khỏi thành già cả,
Có lối thoát ra mọi dục tình,
Như các trí nhân đều thấu suốt:
Gieo gì gặt nấy kiếp lai sinh.
Từ vàng bạc hoặc Vệ-đà kinh,
Nhiều con chẳng khỏi thành già cả,
Có lối thoát ra mọi dục tình,
Như các trí nhân đều thấu suốt:
Gieo gì gặt nấy kiếp lai sinh.
Bấy
giờ vua ngâm kệ đáp lời chàng trai:
6. Lời tự mồm con quả thật chân:
Ðời sau ta gặt thứ đang trồng,
Hai thân con đó, nay già yếu
Song các người mong muốn thấy rằng
Cuộc sống trăm năm đầy hạnh phúc
An khang cho trẻ hưởng riêng phần.
Ðời sau ta gặt thứ đang trồng,
Hai thân con đó, nay già yếu
Song các người mong muốn thấy rằng
Cuộc sống trăm năm đầy hạnh phúc
An khang cho trẻ hưởng riêng phần.
-
Tâu Chúa thượng, ngài muốn ám chỉ việc gì thế?
Vương
tử hỏi và ngâm hai vần kệ:
7. Kẻ nào khi chết, tấu Anh quân,
Có thể tìm ra một bạn thân,
Ðã ký với tuổi già thỏa ước
Ðể cho người ấy chẳng từ trần,
Mong lời cầu nguyện trên Hoàng thượng
Dành bách niên kẻ đó hưởng phần.
8. Cũng giống như người lái vượt dòng,
Con thuyền sang bến nọ bên sông,
Phàm nhân đều vậy, không sao khỏi
Bệnh, lão niên, rồi tử, mệnh chung.
Có thể tìm ra một bạn thân,
Ðã ký với tuổi già thỏa ước
Ðể cho người ấy chẳng từ trần,
Mong lời cầu nguyện trên Hoàng thượng
Dành bách niên kẻ đó hưởng phần.
8. Cũng giống như người lái vượt dòng,
Con thuyền sang bến nọ bên sông,
Phàm nhân đều vậy, không sao khỏi
Bệnh, lão niên, rồi tử, mệnh chung.
Bằng
cách trên, chàng trai đã chỉ cho các vị này
thấy cuộc sống thế nhân giả tạm phù du ra sao, rồi thêm lời khuyên nhủ:
-
Tâu Ðại vương, ngài đứng đó và ngay khi tiểu
sinh đang đàm đạo với ngài, ngay bây giờ đây, bệnh tật, tuổi già và thần chết đang tiến gần ta. Vậy xin Ðại vương hãy tỉnh giác!
Sau
khi vái chào vua và phụ thân, chàng đem theo đám hầu cận muốn đi cùng chàng, bỏ lại vương quốc
Ba-la-nại đằng sau và lên đường với ý định theo sống đời khổ hạnh. Cả một
hội chúng đông đảo cùng đi với chàng thanh niên
Hatthipàla vì hội chúng bảo:
-
Cuộc sống tu hành này chắc hẳn phải cao thượng lắm.
Hội
chúng ấy trải dài suốt một dặm đường, chàng nam tử cùng
hội chúng tiến lên cho đến tận bờ sông Hằng.
Tại đó chàng làm phát khởi Thiền định bằng cách quán sát dòng nước sông Hằng.
Chàng
nghĩ thầm: "Tại đây rồi sẽ có hội chúng
đông lắm!.. Ba vị hiền đệ của ta sẽ đến, kế là song thân, đức vua và hoàng hậu, tất cả cùng với đám tùy tùng sẽ sống theo đời tu tập. Thành Ba-la-nại sẽ trống vắng. Ta sẽ
ở đây cho đến khi các vị đến đủ". Thế là
chàng ngồi tại đó, khích lệ cả đám đông
dân chúng đang tụ tập.
Hôm
sau, vua và vị tế sư suy nghĩ: "Như vậy vương tử Hatthipàla đã thực sự rời bỏ quyền làm vua và hiện đang ngồi bên bờ sông Hằng, từ đó chàng sẽ đi theo cuộc sống tu hành cùng với một hội chúng đông đảo ở bên chàng. Song ta hãy đi thử Assapàla xem sao, rồi làm lễ quán đảnh phong vương cho chàng". Vì thế cũng
như trước kia vừa khoác bộ y phục của nhà tu khổ hạnh, hai vị cùng đi đến cửa nhà chàng. Chàng rất hoan hỷ khi thấy
hai vị, liền bước tới gần hai vị ngâm câu kệ "Cuối cùng.." ấy giống
như anh cả của chàng đã ngâm. Hai vị này cùng
làm như trước, và báo cho chàng biết nguyên nhân hai vị đến đây. Chàng đáp:
-
Tại sao chiếc lọng trắng hoàng gia lại dành ưu tiên cho phần con, khi con có
một hoàng huynh như Hatthipàla?
Hai
vị đáp:
-
Này con, hoàng huynh con đã ra đi để sống đời tu tập, anh con chẳng muốn liên
hệ gì với hoàng gia nữa.
-
Thế bây giờ anh con đâu rồi? - Chàng hỏi.
-
Hiện đang ngồi bên bờ sông Hằng.
-
Tâu Chúa thượng và thân phụ, con cũng chẳng đến cái thứ mà anh con đã nhổ khỏi mồm. Chỉ có những kẻ ngu si và thiếu trí mới không đủ năng lực vứt bỏ ác dục này, còn con quyết sẽ
vứt bỏ nó.
Sau đó chàng thuyết pháp cho thân phụ và đức vua qua hai vần kệ được chàng ngâm lên:
9. Dục lạc là bùn bẩn, uế nhơ,
Tham tâm gây chết chóc, sầu tư,
Ai chìm trong đám bùn vô trí
Không thể bước sang đến bến bờ.
10. Ðây là kẻ đã chịu sầu tư,
Nó bị bắt giam trước đến giờ,
Tìm lối thoát thân nào chẳng thấy;
Ðể không làm những chuyện như xưa
Từ nay con quyết lòng xây dựng
Những bức tường không thể lọt vô.
Tham tâm gây chết chóc, sầu tư,
Ai chìm trong đám bùn vô trí
Không thể bước sang đến bến bờ.
10. Ðây là kẻ đã chịu sầu tư,
Nó bị bắt giam trước đến giờ,
Tìm lối thoát thân nào chẳng thấy;
Ðể không làm những chuyện như xưa
Từ nay con quyết lòng xây dựng
Những bức tường không thể lọt vô.
-
Tiểu sinh xin thưa: Chúa thượng cùng thân phụ hiện đứng chỗ kia và ngay khi tiểu sinh đang trình với hai vị, thì bệnh tật, tuổi già và
cả thần chết cũng đang tiến đến gần ta
hơn.
Cùng
với lối khuyến giáo này, vừa được một đám đông hộ
tống kéo dài cả dặm đường, chàng rađi tìm
gặp vương tử Hatthipàla, vị vương huynh chàng liền đứng ở trên không và thuyết Pháp cho chàng rồi
nói:
-
Này hiền đệ, sau sẽ có một đám
đông dân chúng đến đây, vậy hai ta hãy cùng ở lại chốn này.
Chàng đồng ý ở lại đó ngay.
Hôm
sau, vua và vị tế sư cũng theo cách trên đến nhà vương tử Gopala. Khi được chàng hoan hỷ chào đón theo như cách hai vị vương tử trước, hai vị giải thích duyên
cớ đến đây. Cũng như Hatthipàla, chàng từ chối lời đề nghị của hai ngài.
-
Từ lâu con đã ước mong sống đời tu tập như một bò cái bị lạc trong rừng, còn
vẫn đi lang thang tìm lối sống. Nay con nhìn thấy
con đường mà hai vương huynh của con đã đi qua, giống như dấu chân kia của con bò bị lạc, nên con cũng
theo đường ấy mà ra đi.
Sau đó chàng ngâm kệ:
11. Như tìm bò cái lạc trên đường,
Bối rối, loanh quanh mãi giữa rừng,
Cũng vậy, an vui con đã mất,
Sao còn do dự với phân vân,
Xin tâu Chúa thượng E-su rõ,
Khi bước đi tìm theo dấu chân?
Bối rối, loanh quanh mãi giữa rừng,
Cũng vậy, an vui con đã mất,
Sao còn do dự với phân vân,
Xin tâu Chúa thượng E-su rõ,
Khi bước đi tìm theo dấu chân?
Hai
vị đáp:
-
Nhưng này Gopàlaka thân yêu, con hãy đến ở cùng chúng ta một ngày, hoặc đến với chúng ta hai ba ngày, để nhà chúng ta được hạnh phúc hân hoan, rồi sau đó con hãy rời
thế tục.
Chàng đáp:
-
Tâu Ðại vương, xin đừng bao giờ hoãn lại đến ngày hôm sau chuyện gì đáng làm hôm nay, nếu Ðại vương muốn an lành xin
hãy hành động ngay hôm nay, đừng
trì hoãn nữa.
Sau đó chàng ngâm kệ khác:
12. Ngày mai! Kêu lớn gã ngu nhân,
Gã thét: ngày mai! mãi chẳng ngừng,
"Thời vị lai không còn sự nghiệp!"
Bậc hiền nhân vẫn cứ khuyên răn,
Chẳng bao giờ bậc hiền khinh rẻ
Thiện nghiệp nằm ngay đúng với tầm.
Gã thét: ngày mai! mãi chẳng ngừng,
"Thời vị lai không còn sự nghiệp!"
Bậc hiền nhân vẫn cứ khuyên răn,
Chẳng bao giờ bậc hiền khinh rẻ
Thiện nghiệp nằm ngay đúng với tầm.
Gopala
vừa nói như vậy, vừa thuyết Pháp qua hai vần kệ trên, xong rồi nói thêm:
-
Ngay nơi Ðại vương đứng đó, và ngay lúc con
thưa trình với Ðại vương thì bệnh tật, tuổi già và cả thần chết nữa cũng đang tiến tới dần.
Sau đó được dân chúng hộ tống cả một dặm đường,
chàng ra đi tìm kiếm hai vị hiền
huynh. Rồi Tôn giả Hattipàla vừa đứng ở trên không vừa thuyết Pháp cho chàng như trước.
Ngày
kế đó, vua và vị tế sư cũng theo cách trên và đi đến nhà vương tử Ajapàla; chàng hoan hỷđón
chào hai vị giống như các vương huynh chàng đã làm. Hai vị nói rõ duyên cớ đến đây và đề nghị giương cho chàng
chiếc lọng hoàng gia. Vương tử bảo:
-
Thế hai vương huynh con đâu rồi? Hai vị đáp:
-
Hai vương huynh của con không muốn liên hệ với giang sơn quốc độ này nữa; cả hai đã khước từ chiếc lọng trắng và cùng với một hội
chúng trải rộng cả ba dặm đường đang ngồi trên bờ
sông Hằng.
-
Thế thì con cũng không muốn đặt lên đầu cái vật mà hai vương huynh nhả ra khỏi mồm
và đi theo sống đời tu hành như thế, nhưng con muốn
hành trì đời sống xuất gia thôi.
Hai
vị bảo:
-
Này con, con còn trẻ lắm, hạnh phúc của con là mối quan tâm lo lắng của hai ta,
vậy để lúc già hơn rồi con hãy sống theo đời tu tập.
Song
chàng trai đáp:
-
Ðại vương và thân phụ bảo con điều gì thế kia? Hiển
nhiên cái chết vẫn đến với tuổi trẻ cũng
như với tuổi già! Không ai có dấu hiệu gì trong bàn tay hay không biết được lúc nào con chết cả, vì vậy con muốn rời
thế tục ngay bây giờ đấy.
Rồi
chàng ngâm hai vần kệ:
13. Con thường trông thiếu nữ xinh tươi,
Mắt sáng, say sưa với cuộc đời,
Chưa hưởng phần vui xuân mới hé:
Tử thần mang liễu yếu đi rồi!
14. Cũng vậy nhiều nam tử thật sang,
Khôi ngô, cường tráng tuổi xuân quang,
Bao quanh những chiếc cằm đen nhánh
Xúm xít chòm râu cứ mọc tràn
Con giã biệt đời người thế tục
Cùng bao dục lạc của trần gian,
Ðể làm ẩn sĩ, xin tha thứ,
Và hãy trở về chốn cố hương.
Mắt sáng, say sưa với cuộc đời,
Chưa hưởng phần vui xuân mới hé:
Tử thần mang liễu yếu đi rồi!
14. Cũng vậy nhiều nam tử thật sang,
Khôi ngô, cường tráng tuổi xuân quang,
Bao quanh những chiếc cằm đen nhánh
Xúm xít chòm râu cứ mọc tràn
Con giã biệt đời người thế tục
Cùng bao dục lạc của trần gian,
Ðể làm ẩn sĩ, xin tha thứ,
Và hãy trở về chốn cố hương.
Sau đó chàng nói tiếp:
-
Nay Ðại vương đứng chỗ kia và ngay lúc
tiểu sinh đang tâu trình với Ðại
vương cùng thân phụ, thì bệnh tật, tuổi già và thần chết cũng đang tiến tới gần tiểu sinh.
Rồi
chàng đảnh lễ cả hai vị, dẫn đầu một hội chúng dài cả
dặm đường, chàng ra đi đến bờ sông Hằng. Tôn giả Hatthipàla cũng đứng ở trên không và thuyết Pháp cho chàng, rồi
ngồi xuống, đợi đám đại chúng mà
ngài mong gặp.
Hôm
sau, vị tế sư bắt đầu suy tư trầm ngâm
trong lúc ngồi trên bảo tọa. Ông nghĩ thầm: "Các con ta đã sống đời tu tập, nay chỉ còn lại một mình ta là lão già như gốc cây đã cằn cỗi tàn rụi, ta cũng muốn theo cuộc sống
tu hành.
Rồi
ông ngâm kệ với phu nhân mình:
15. Cái vật kia đâm lộc trổ cành,
Người ta gọi đó một cây xanh,
Chặt cành, chẳng phải là cây nữa,
Nó chỉ còn trơ trụi khúc mình.
Người chẳng cháu con gì cũng vậy,
Hỡi phu nhân quý tộc cao danh,
Ðây là thời điểm dành cho lão
Sống cuộc đời tu tập Thánh hành.
Người ta gọi đó một cây xanh,
Chặt cành, chẳng phải là cây nữa,
Nó chỉ còn trơ trụi khúc mình.
Người chẳng cháu con gì cũng vậy,
Hỡi phu nhân quý tộc cao danh,
Ðây là thời điểm dành cho lão
Sống cuộc đời tu tập Thánh hành.
Nói
lời này xong, vị tế sư triệu tập các Bà-la-môn vào diện kiến mình: sáu mươi
ngàn vị đến nơi. Sau đó ông hỏi
cả hội chúng muốn làm gì. Họ đồng đáp:
-
Ngài là sư phụ của chúng thần.
Ông
bảo:
-
Ðược lắm, thế thì ta sẽ đi tìm con trai ta và
theo đời sống tu hành.
Hội
chúng đáp:
-
Không chỉ riêng ngài mới thấy địa ngục nóng rực lửa;
chúng tiểu thần cũng sẽ làm y như ngài vậy.
Vị
tế sư liền giao hết kho tàng châu báu, cả tám trăm triệu đồng tiền cho bà phu
nhân, rồi dẫn đầu cả một đoàn
Bà-la-môn trải dài suốt một dặm đường, ra đi đến vùng đất hai vị vương tử đang cư trú. Với hội chúng
này cũng như trước kia, Tôn giả Hatthipàla đứng ở trên không và thuyết Pháp.
Ngày
hôm sau, bà phu nhân nghĩ thầm: "Bốn nam tử của ta đã từ chối chiếc lọng trắng của hoàng gia để theo đời tu tập; trượng phu của ta cũng đã để lại kho tài sản và vứt bỏ luôn chức vụ tế sư
của triều đình nữa, rồi đi theo các con, thế ta còn làm gì một thân trơ
trọi nữa? Theo cách các con ta đã đi, ta cũng đi luôn".
Rồi
bà ngâm kệ nói lên ước vọng qua câu tục ngữ:
16. Tháng ngày mưa gió đã qua,
Lưới kia đã bị thiên nga phá rồi,
Tự do bay lượn giữa trời,
Như đàn sếu hạc tung đôi cánh liền,
Vậy ta theo đúng đường thiêng
Chồng con đã bước, ta tìm tâm minh.
Lưới kia đã bị thiên nga phá rồi,
Tự do bay lượn giữa trời,
Như đàn sếu hạc tung đôi cánh liền,
Vậy ta theo đúng đường thiêng
Chồng con đã bước, ta tìm tâm minh.
Bà
nhủ thầm: "Vì ta biết rõ điều này, sao ta lại
không rời bỏ thế tục?". Với dự định trên, bà triệu tập các phu nhân Bà-la-môn lại và bảo:
-
Các phu nhân định làm gì giờ đây?
Họ
bảo bà:
-
Thế lệnh bà muốn làm gì?
-
Về phần ta, ta sẽ từ giã thế tục.
-
Vậy chúng thần thiếp cũng làm việc ấy.
Như
thế, bà từ giã mọi cảnh huy hoàng này, ra đi tìm các con mình, đem theo cả một đám nữ nhân trải dài trên một dặm đường. Với hội chúng này, Tôn giả Hatthipàla
cũng đứng ở trên không và thuyết Pháp.
Hôm
sau, vua hỏi:
-
Vị tế sư của trẫm đâu rồi?
Triều
thần đáp:
-
Tâu Chúa thượng, ngài tế sư và phu nhân đã vứt bỏ hết cảnh phú quý lại đằng sau, rồi ra đi theo các công tử cùng với một hội chúng dài đến hai ba dặm đường.
Vua
phán:
-
Tiền bạc vô chủ đến tay ta rồi!
Vua
truyền lệnh đem tiền bạc từ nhà vị
tế sư về cung. Lúc bấy giờ chánh hậu muốn biết nhà vuađang làm gì, bà được trình báo:
-
Hoàng thượng đang truyền đem về cả
kho báu từ nhà vị tế sư.
Bà
hỏi:
-
Thế vị tế sư đâu?
-
Tâu lệnh bà, ngài đã xuất gia làm ẩn sĩ
khổ hạnh, cùng với cả vợ con và gia quyến.
Hoàng
hậu nghĩ: "Thế tại sao chúa thượng đây lại truyền theo đem vào nhà mình thứ phân uế và nước bọt mà vị
Bà-la-môn này cùng gia quyến vợ con đã nhổ ra thế kia? Thật là một kẻ ngu si mê mờ tham đắm làm sao! Ta sẽ khuyên bảo ngài qua ví dụ
này".
Bà
truyền lấy một mớ thịt dành cho chó, chất thành một đống giữa sân hoàng cung, rồi bà đặt một cái bẫy quanh đó, để cho lối ra vào bẫy
mở rộng thẳng lên trời. Bầy kên kên thấy thịt, từ xa vội sà xuống. Song những
con chim khôn ngoan trong đàn ấy nhận ra cái bẫy đã được giăng quanh đó, và tự biết thân mình quá nặng nề nên không
thể bay vụt thẳng được, liền nôn ra hết
mọi thứ chúng đã ăn và không để cho mình bị mắc bẫy, chúng lại vút lên không
và bay biến mất.
Còn
những con chim khác vì ngu si mà giáng xuống, ngốn ngấu hết các thức mửa ra của đàn trước, nên quá nặng nề không thể nào bay
thoát được và bị mắc vào bẫy. Quân hầu mang một con
chim mắc bẫy vào dâng lên hoàng hậu và bà tự mang đến chỗ vua:
-
Tâu Chúa thượng hãy nhìn xuống, bà nói. Trong sân chầu có một cảnh lạ mắt cho
ta nhìn đấy!
Rồi
bà vừa mở cánh cửa sổ vừa nói:
-
Tâu Chúa thượng, hãy nhìn đám kên kên kia kìa!
Sau đó bà ngâm hai vần kệ:
17. Ðám nọ đã ăn, đã mửa rồi!
Tự do bay lượn giữa bầu trời:
Ðám kia ăn nán và lưu lại,
Giờ bị bắt giam bởi thiếp rồi.
18. Vị tế sư nôn hết dục tham,
Vật kia, Chúa thượng muốn ăn phàm?
Người ăn đồ mửa, tâu Hoàng thượng,
Xứng đáng chê bai cực tệ tàn!
Tự do bay lượn giữa bầu trời:
Ðám kia ăn nán và lưu lại,
Giờ bị bắt giam bởi thiếp rồi.
18. Vị tế sư nôn hết dục tham,
Vật kia, Chúa thượng muốn ăn phàm?
Người ăn đồ mửa, tâu Hoàng thượng,
Xứng đáng chê bai cực tệ tàn!
Nghe
những lời này, vua tràn đầy ăn năn hối hận, ba
cõi sinh hữu đều chẳng khác nào đám lửa đang cháy bừng bừng, nên vua bảo:
-
Ngay chính hôn nay, trẫm phải từ giã vương vị này và sống theo đời ẩn dật tu hành.
Lòng
nặng trĩu ưu phiền, ngài tán thán chánh hậu qua vần kệ:
19- Khác nào người lực sĩ can cường
Giúp cánh tay vì kẻ yếu hơn
Bị chìm trong vũng bùn dơ bẩn,
Hay bãi cát lầy đã lún thân.
Chánh hậu Pan-ca này cũng vậy,
Nàng vừa giải cứu đấng quân vương
Bằng nhiều vần kệ ngâm êm dịu
Như mật rót tai trẫm dịu dàng!
Giúp cánh tay vì kẻ yếu hơn
Bị chìm trong vũng bùn dơ bẩn,
Hay bãi cát lầy đã lún thân.
Chánh hậu Pan-ca này cũng vậy,
Nàng vừa giải cứu đấng quân vương
Bằng nhiều vần kệ ngâm êm dịu
Như mật rót tai trẫm dịu dàng!
Vua
vừa nói như thế xong, liền lập tức triệu hồi đám quần thần, lòng nôn nóng theo đuổi cuộc sống tu hành, ngài bảo:
-
Còn các khanh sẽ ý sao? - Ngài phán - Trẫm sẽ đi tìm Hatthipàla và trở thành người tu hành.
Quần
thần đáp:
-
Tâu chúa thượng, vậy chúng thần cũng xin làm việc ấy.
Nhà
vua rời bỏ vương quyền khắp Ba-la-nại hình thành vĩ đại rộng cả mười hai dặm và bảo:
-
Ai muốn thì cứ giương lên chiếc lọng trắng vương quyền.
Sau đó được đám triều thần vây quanh, ngài dẫn đầu một dòng người dài cả ba dặm, đi đến trình diện vị nam tử kia. Với đám người này, Tôn giả Hatthipàla cũng đứng ở trên không và thuyết Pháp.
*
Bậc
Ðạo Sư ngâm kệ kể chuyện vua này lại xuất hiện thế ra sao:
20. Như vậy, E-su-kà Ðại vương
Nắm quyền nhiều lãnh thổ, giang sơn
Từ vua, ngài hóa thành tu sĩ
Như thể voi vùng đứt bộ cương .
Nắm quyền nhiều lãnh thổ, giang sơn
Từ vua, ngài hóa thành tu sĩ
Như thể voi vùng đứt bộ cương .
*
Ngày
hôm sau dân chúng còn lại trong kinh thành tụ tập lại trước cung môn, xin trình
báo với chánh hậu, rồi họ đi và đảnh lễ chánh hậu xong, liền ngồi sang một bên
và ngâm kệ:
21. An lạc thay là đấng Thánh quân
Trở thành ẩn sĩ bỏ phàm trần
Chúng thần nay nguyện cầu hoàng hậu
Vào ngự trong ngôi vị đế vương
Xin hãy yêu thương toàn quốc độ,
Ðược tay phò trợ của quần thần.
Trở thành ẩn sĩ bỏ phàm trần
Chúng thần nay nguyện cầu hoàng hậu
Vào ngự trong ngôi vị đế vương
Xin hãy yêu thương toàn quốc độ,
Ðược tay phò trợ của quần thần.
Bà
lắng nghe những lời hội chúng thỉnh nguyện, xong bà liền ngâm các vần kệ còn
lại:
22. An lạc thay là đấng Thánh Quân
Trở thành ẩn sĩ, bỏ phàm trần
Bây giờ hãy biết rằng ta quyết
Tiến bước đơn thân giữa thế nhân
Cùng bao lạc thú đủ toàn phần.
23. An lạc thay là đấng Thánh quân
Trở thành ẩn sĩ, bỏ phàm trần
Bây giờ hãy biết rằng ta quyết
Tiến bước đơn thân giữa thế nhân,
Bất cứ nơi nào còn ngũ dục
Ta đều vứt bỏ chúng toàn phần.
24. Thời gian trôi, sáng tối không ngừng
Dung sắc thanh xuân phải úa dần
Nay hãy biết rằng ta đã quyết
Bước đi đơn độc giữa phàm trần
Giã từ khát vọng và tham ái
Cùng các thú vui đủ mọi phàm.
25. Thời gian trôi, sáng tối qua dần
Phải úa tàn bao vẻ đẹp xuân
Nay hãy biết rằng ta quyết chí
Bước đi đơn độc giữa phàm trần
Nơi nào bất kể còn tham dục
Ta cũng rời xa chúng mọi phần
26. Thời gian trôi, sáng tối xoay vần
Hương sắc thanh tân phải úa dần,
Nay hãy biết rằng ta ước nguyện
Bước đi đơn độc giữa phàm trần
Mọi dây ràng buộc đều quăng bỏ
Cũng chẳng còn uy lực dục tâm
Trở thành ẩn sĩ, bỏ phàm trần
Bây giờ hãy biết rằng ta quyết
Tiến bước đơn thân giữa thế nhân
Cùng bao lạc thú đủ toàn phần.
23. An lạc thay là đấng Thánh quân
Trở thành ẩn sĩ, bỏ phàm trần
Bây giờ hãy biết rằng ta quyết
Tiến bước đơn thân giữa thế nhân,
Bất cứ nơi nào còn ngũ dục
Ta đều vứt bỏ chúng toàn phần.
24. Thời gian trôi, sáng tối không ngừng
Dung sắc thanh xuân phải úa dần
Nay hãy biết rằng ta đã quyết
Bước đi đơn độc giữa phàm trần
Giã từ khát vọng và tham ái
Cùng các thú vui đủ mọi phàm.
25. Thời gian trôi, sáng tối qua dần
Phải úa tàn bao vẻ đẹp xuân
Nay hãy biết rằng ta quyết chí
Bước đi đơn độc giữa phàm trần
Nơi nào bất kể còn tham dục
Ta cũng rời xa chúng mọi phần
26. Thời gian trôi, sáng tối xoay vần
Hương sắc thanh tân phải úa dần,
Nay hãy biết rằng ta ước nguyện
Bước đi đơn độc giữa phàm trần
Mọi dây ràng buộc đều quăng bỏ
Cũng chẳng còn uy lực dục tâm
Qua
các vần kệ trên, bà thuyết Pháp cho hội chúng đông đảo ấy xong, bà triệu tập các vị phu nhân
của đám triều thần và bảo:
-
Nay các phu nhân muốn làm gì?
-
Tâu nương nương , thánh ý định thế nào?
-
Ta muốn sống đời tu tập.
-
Thế thì chúng thần thiếp cũng làm theo lệnh bà.
Vậy
là chánh hậu mở rộng cửa kho vàng trong cung, bà ra lệnh khắc một phiến đá vàng ghi câu: "Nơi ấy là cả một đại kho tàng, bất cứ ai muốn, đều có thể lấy về". Phiến vàng ấy được bà cho buộc vào một cái trụ trên một đài cao. Sau đó, từ giã bao cảnh vinh quang tráng lệ của hoàng cung, bà ra khỏi
kinh thành. Tiếp theo toàn thành nhốn nháo lên với tiếng la hét:
-
Ðại vương và chánh hậu đã rời thành đi theo hội chúng tu khổ hạnh, vậy bây giờ ta
phải làm gì?
Từ đó về sau dân chúng rời bỏ nhà cửa cùng các đồ vật trong đó, và ra đi, đem theo con cái, các tiệm buôn bán mở rộng
cửa hàng, song chẳng ai buồn quay lại nhìn chúng nữa, cả kinh thành trống vắng
không một bóng người.
Và
chánh hậu cùng với đoàn người hộ tống dài
cả ba trăm dặm đường đi đến cùng nơi chốn ấy như các vị trước đây. Với hội chúng này, Tôn giả Hatthipàla cũng đứng ở trên không và thuyết pháp; rồi sau đó cùng toàn thể dân chúng dài hơn mười dặm khởi
hành về hướng Tuyết Sơn.
Toàn
quốc độ Kàsi náo loạn, la hét vang lừng câu chuyện
nam tử Hatthipàla đã làm cho kinh thành
Ba-la-nại trống vắng bằng cách nào, với hội chúng dài hơn cả nười hai dặm đường chàng rađi về vùng Tuyết Sơn ra sao, để theo sống đời tu khổ hạnh, dân chúng bảo
nhau:
-
Thế thì hiển nhiên chúng ta càng nên làm việc ấy!
Cuối
cùng hội chúng này cứ tăng dần đến độ chiếm cả ba mươi dặm đường, rồi vương tử
cùng cảđại chúng ấy đi đến Tuyết Sơn.
Sakka
(Ðế Thích) Thiên chủ trong luc xét suy, đã nhận biết mọi việc đang xảy ra. Ngài suy nghĩ: "Vương tử Hatthipàla đã làm Ðại sự Xuất thế; quần chúng đông đúc lắm, như thế chúng phải có nơi cư trú".
Ngài liền ra lệnh cho Thiên sứ Vissakamma (Thần xây dựng):
-
Này hiền hữu, hãy ra đi xây dựng vùng am tu
dài ba mươi sáu dặm và rộng mười lăm dặm, rồi thâu góp về đó tất cả mọi thứ cần
dùng cho các vị tu hành.
Vị
này tuân lệnh, và dựng bên bờ sông Hằng ở một nơi mát mẻ dễ chịu cả một vùng am
thất theođúng tầm cỡ cần dùng, chuẩn bị trong các am đầy đủ nệm rơm lót bằng cánh lá cây, lại để sẵn
sàng mọi vật dụng cần thiết cho các người tu hành. Mỗi am đều có các cửa ra vào, một chốn đi dạo mát, có chỗ ở riêng biệt dùng cho ban
ngày và ban đêm, tất cả đều được quét vôi trắng sạch sẽ sáng sủa, lại có
thêm các trường kỷ để nghỉ ngơi. Ðó đây rải rác đủ loại trái cây trổ hoa chi chít trên cành khoe đủ sắc hương ngào ngạt; cuối mỗi chốn dạo chơi
là một cái giếng để kéo nước, cạnh đó có
cây ăn trái, mỗi cây đều mọc đủ mọi thứ. Tất cả những thứ này đều nhờ thần lực hóa ra cả.
Khi
Thiên sứ Vissakamma đã xây xong khu ẩn cư
này và cung cấp cho các thảo am đủ mọi vật cần thiết, vị
ấy ghi các hàng chữ bằng son đỏ trên bức tường:
"Ai muốn sống đời tu tập xin mời đến
chỗ các vật dụng này". Sau đó vị ấy lại dùng thần
lực xua đuổi ra khỏi vùng ấy mọi
thứ tiếng kêu kỳ quái, mọi ác điểu và mãnh thú, những
loại phi nhân rồi trở về cõi của mình.
Tôn
giả Hatthipàla chợt thấy vùng ẩn am này là tặng vật của Ðế Thích Thiên chủ,
ngài đi theo con đường mòn và thấy phiến đá ghi chữ kia. Ngài nghĩ thầm: "Ðế Thích
Thiên chủ hẳn đã nhận thấy ta vừa làm
Ðại sự Xuất Thế". Ngài mở một cánh và bước vào am, cầm lên những vật dụng
dành cho người tu khổ hạnh, ngài lại bước ra đi dọc theo chốn dạo chơi, và quanh quẩn đó đây vài lần. Sau đó ngài thâu nhận cả hội chúng vào nếp sống tu
hành, và đi quan sát cả vùng ẩn
cư ấy. Ngàiđể dành phần giữa là cho phụ nữ có con thơ, phần kế đó cho các bà già, phần kế nữa cho đám phụ nữ không có con cái gì, còn các am thất
khác ở chung quanh đều dành cho nam giới.
Thế
rồi một hôm vị vua kia nghe tin đồn là không có vua cai
trị vì Ba-la-nại liền đi xem và thấy cả kinh
thành được trang hoàng rực rỡ với nhiều báu vật. Bước
vào cung điện vua ấy thấy vàng
bạc nằm ngổn ngang từng đống.
-
Kìa! Vị ấy bảo. Rời bỏ kinh thành như thế này để trở thành người tu hành ngay khi cơ duyên tốt
lành vừa đến, thật là một việc
cao cả thay!
Vị
vua ấy vừa hỏi đường một anh chàng say
rượu nào đó, liền đi tìm Tôn giả
Hatthipàla. Khi Hatthipàla nhận biết vị vua ấy đã đến ven rừng, liền bước ra đón mừng, vừa trên không vừa thuyết
Pháp cho toàn hội chúng mới. Sau đó ngài dẫn đám người ấy vào rừng ẩn
cư, tiếp nhận cả đoàn vào hội chúng tu
tập. Cùng cách trên, sáu vị vua khác gia nhập vào đây. Bảy vị vua này đều từ bỏ mọi phú quí vinh quang. Chốn ẩn cư này
rộng cả ba mươi sáu dặm cứ đông đúc dần dần. Mỗi
khi có một vị đạo nhân nào khởi tư tưởng tham dục hay các tưởng tượng như thế,
ngài thường thuyết Pháp cho vị đó và giảng dạy hội
chúng tư duy về các Công hạnh Viên mãn (Các hạnh Ba-la-mật) và thiền định, nên dần dần các vị này tu tập pháp môn
nhập định; hai ba phần hội chúng được tái sanh vào
cảnh giới Phạm Thiên, còn một phần ba lại được chia ra thành ba nhóm: một nhóm được sanh lên cõi Phạm thiên giới, một nhóm được sanh vào sáu tầng trời dục giới và một
nhóm, sau khi hoàn thành sứ mạng của vị kiến giả, được sinh vào thế giới loài người. Như vậy mỗi
người trong ba nhóm đều được thọ hưởng công
đức của mình. Thế là việc giáo hóa của hiền giả Hatthipàla đã cứu độ mọi người khỏi đọa địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ và khỏi trở
thành một Asura (A-tu-la: một loại ác thần hay sân hận, từng gây chiến với chư
Thiên dục giới).
*
Trên đảo Tích Lan (Ceylon) này, các vị đã làm Ðại sự Xuất thế là Trưởng lão
Dhammagutta, vị này đã làm cho địa cầu chấn động; Trưởng lão Phussa-deva, một
thị dân của thành Katakandhakara, Trưởng lão Mahàsamgharakkhita từ vùng
Uparimandalakamalay, Trưởng lão Malimahàdeva từ vùng Bhaggiri; Trưởng lão
Mahàsìva, từ vùng Vàmantapabbhàra; Trưởng lão Mahànàga từ vùng
Kàlavallimandapa; các vị trong hội chúng của ngài Kuddàla, Mùgapakkha,
Cùlusutasoma, của Hiền giả Ayohara, và cuối cùng của tất cả hội chúng
Hatthipàla.
Do
vậy bậc Thế Tôn bảo:
-
Hãy vội làm việc lành, các vị sẽ được an lạc! Nghĩa là an lạc chỉ đến với ta nếu ta vận dụng hết công sức mình.
*
Khi
Pháp thoại này chấm dứt, bậc Ðạo Sư bảo:
- Như
vậy này các Tỷ-kheo, ngày xưa, Như Lai làm Ðại sự Xuất thế cũng như bây giờ
Nói
xong Ngài nhận diện Tiền thân:
- Vào
thời ấy phụ vương Sudhodana (Tịnh Phạn) là vua Eusari, mẫu hậu Mahàmayà là vị
chánh hậu kia; Kassapa (Ca-diếp) là vị tế sư, Bhaddakapilàni là vị phu nhân,
Anuruddha (A-na-luật-đà) là Ajapàla, Moggallàna (Mục-kiền-liên) là Gopàla, Sàriputta
(Xá-lợi-phất) là Assapala, hội chúng của đức Phật là toàn thể đám người kia, và Ta chính là
Hiền giả Hatthipàla.
-ooOoo-
510.
Chuyện vương tử trong ngôi nhà sắt (Tiền thân Ayoghara)
Mầm
sống một khi nhập tử cung...
Câu
chuyện này bậc Ðạo Sư kể về Ðại sự Xuất thế của Ngài. Tại đây một lần nữa, Ngài bảo:
- Này
các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Như Lai làm Ðại sự
Xuất thế, vì trước kia Như Lai cũng đã làm như thế.
Và Ngài
kể cho Tăng chúng một chuyện quá khứ.
*
Một
thuở nọ, khi vua Bramadatta trị vì Ba-la-nại, bà chánh hậu thọ thai, đến thời mãn nguyệt khai hoa, bà sinh một vương
tử ngay sau buổi rạng đông. Bấy giờ trong một
đời trước có một phụ nữ khác cũng lấy chồng chung với bà, đã thốt lời thề rằng nàng sẽ tìm cách ăn thịt hài nhi của bà đời sau. Chuyện kể lại, vì nàng không sinh sản
gì nên đem lòng tức giận cả hai
mẹ con bà thuở ấy, mới thốt lên lời nguyền như trên. Bởi duyên cớ đó, nàng tái sinh thành một thứ quỷ cái. Còn
người mẹ kia, nay trở thành chánh hậu và sinh hạ hoàng nam này. Con quỷ cái ấy
tìm cơ hội hiện hình khủng khiếp chụp lấy hài nhi ngay trước mặt người mẹ và
mang đi mất. Hoàng hậu thét lên vang lừng:
-
Một con quỷ đã bắt hoàng nam của ta
rồi!
Con
quỷ kia nhai ngấu nghiến trệu trạo đứa hài nhi như ăn một củ hành sống rồi
nuốt trửng hết! Sau đó nó lại biến hóa tay
chân ra đủ hình dạng để đe dọa cho hoàng hậu
kinh hoảng lên, rồi biếnđi. Khi vua hay tin dữ ấy, ngài câm lặng không nói gì được, ngài suy nghĩ: "Còn biết làm sao
chống chọi lại con quỷ cái kia chứ?"
Lần
kế tiếp hoàng hậu lâm bồn, vua sắp đặt quân canh phòng bên mình bà. Bà hạ sinh một vương tử nữa, con
quỷ ấy lại đến vồ lấy đứa bé ăn
thịt rồi biến mất.
Làn
thứ ba chính là bậc Ðại Sĩ nhập mẫu thai của chánh hậu. Vua triệu tập một số
người lại phán:
-
Hễ hoàng nhi nào do chánh hậu của trẫm sinh ra đều bị một con quỷ cái đến vồ lấy ăn thịt. Vậy
phải làm sao bây giờ?
Sau đó có người tâu:
-
Bọn quỷ rất sợ lá thốt nốt, chúa thượng nên cho buộc một ngọn lá ấy vào tay
chân hoàng hậu.
Một
kẻ khác lại tâu:
-
Bọn quỷ cũng sợ cái nhà bằng sắt. Vậy phải dựng lên một cái.
Nhà
vua chấp thuận. Ngài triệu tập tất cả thợ rèn trong quốc độ ngài và ra lệnh dựng cho ngài một cái nhà
bằng sắt, và cho người giám sát công việc của họ. Ngay trong kinh thành, tại
một địa điểm khả ái, họ xây lên một ngôi nhà có cột
trụ và mọi bộ phận trong nhà không gì khác ngoài sắt; trong chín tháng ngôi nhà được hoàn tất, thật là một lâu đài vững chắc kiên cố, được đèn chiếu sáng suốt ngày đêm không bao giờ ngưng cả.
Khi
vua biết rằng hoàng hậu sắp mãn nguyệt khai hoa, ngài truyền lệnh sắp đặt tiện nghi đầy đủ cho tòa nhà sắt rồi rước bà
vào trong đó. Bà hạ sinh một hoàng
nam có đầy đủ mọi quý tướng tốt
lành, và hai vị đặt tên con là Ayoghara
Kumàra hay Vương tử Thiết Thất (Vương tử ở trong ngôi nhà sắt)
Vua
giao hài nhi cho các nhũ mẫu trông nom lại sắp đặt một đôi vệ sĩ hùng hậu giữ quanh lâu đài ấy, trong khi ngài cùng chánh hậu đi diễu quanh kinh thành hướng về phía hữu, rồi
ngự lên thượng lầu nguy nga lộng lẫy của hoàng cung. Ðồng thời con quỷ cái, vì
cần uống nước đã đi tìm thứ nước của Thiên Vương Vessavana
(Tỳ-sa-môn) nên bị giết.
Trong
ngôi nhà sắt kia, bậc Ðại Sĩ lớn lên cùng với trí khôn phát triển dần, ngài được dạy đủ mọi môn học thuật cũng tại nơi đó
cả.
Vua
hỏi các triều thần:
-
Nay vương nhi đã mấy tuổi rồi?
Hội
chúng đáp:
-
Tâu chúa thượng, vương tử vừa lên mười sáu: thật là một trang anh hùng đầy dũng lực cường tráng, đủ để chế ngự cả ngàn
con quỷ kia!
Vua
liền quyết định giao vương quyền
vào tay vương tử. Ngài ra lệnh cho kinh thành trang hoàng rực rỡ, truyền bảo
rước vương tử ra khỏi ngôi nhà sắt đến triều kiến ngài. Quần thần tuân lệnh: Toàn thành Ba-la-nại được trang hoàng rực rỡ, kinh đô vĩ đại ấy trải khắp mười hai dặm; họ lại tô
điểm cho vương tượng bằng tấm khăn phủ lưng thật lộng lẫy, phục sức cho vương
tử cực kỳ sang trọng rồi đặt ngài lên lưng vương tượng và tâu:
-
Tâu Ðiện hạ, xin Ðiện hạ ngự du một vòng theo phía hữu quanh kinh thành đang nô nức mở hội này, đây chính là giang sơn sự nghiệp của Ðiện hạ,
sau đó sẽ đến đảnh lễ đấng Hoàng thượng là Ðại vương
quốc độ Kàsi, vì hôm nay chính là ngày Ðiện hạ đón nhận chiếc Lọng trắng.
Bậc
Ðại Sĩ ngự đám rước ngài diễu quanh
kinh thành theo về phía bên hữu, ngài thấy các hoa viên tuyệt mỹ, đủ màu sắc xinh tươi với hồ nước, các thửa
ruộng, vườn cây, nhà cửa phố xá, khắp nơi đều đẹp mắt, ngài tự nhủ thầm: "Tất cả cảnh sắc thế này mà
trong bao lâu vương phụ lại giam giữ ta rất cẩn mật, chẳng hề cho ta thấy kinh
thành được trang hoàng rực rỡ thể kia. Ta đã có lỗi gì vậy?" Ngài liền đem câu ấy hỏi các triều thần. Hội chúng đáp:
-
Tậu Ðiện hạ, ngài chẳng có lỗi gì. Song có một con quỷ cái đã xé xác ăn hai vương huynh của ngài mất đi nên đức Thượng hoàng cho
ngài ở trong ngôi nhà sắt và chính ngôi nhà sắt ấy đã cứu mạng ngài.
Những
lời này lại làm ngài suy nghĩ: "Suốt mười tháng ta đã ở trong bụng mẹ, chắc hẳn có khác gì cái địa ngục hình Chảo Sắt (Thiết Oa địa ngục) hay Ðịa ngục phân dơ (Phẩn Ni địa ngục) đâu, rồi khi ta ra khỏi bụng mẹ, cả mười sáu năm trời
nay ta sống trong ngục thất kia, không bao giờ có cơ hội nhìn ra ngoài. Mặc dù
ta đã thoát được đôi bàn tay của con quỷ kia, ta vẫn không sao thoát được tuổi già và thần chết; vậy ta sẽ xin phép
phụ vương đi theo đời sống tu
hành, và ta sẽ lên vùng Tuyết Sơn để thực hiện ước nguyện."
Như
vậy sau khi ngài dự đám lễ hội rước ngài ngự
quanh kinh thành xong, ngài vào hoàng cung,đảnh lễ phụ vương và đứng chờ lệnh. Vua ngắm dung sắc tuyệt mỹ của
ngài, lại nhìn đến đám quần thần với
tấm lòng yêu thương mãnh liệt bừng lên trong đôi mắt. Quần thần hỏi:
-
Tâu Chúa thượng, Chúa thượng muốn truyền cho chúng thần làm gì?
-
Các hiền khanh hãy đưa vương nhi ngự lên đám trân châu báu ngọc, làm lễ quán đảnh cho vương nhi với nước từ ba vỏ ốc xà cừ,
xong rồi giương chiếc Lọng trắng viền tua vàng lên che cho vương nhi.
Song
Bậc Ðại Sĩ đảnh lễ phụ vương và
thưa trình:
-
Tâu phụ vương, con không muốn liên hệ gì với vương triều nữa. Con ước ao sống đời tu tập và con tha thiết cầu mong phụ vương
cho phép con làm việc ấy.
-
Này vương nhi, tại sao con lại muốn rời bỏ vương vị và sống theo đời tu khổ hạnh.
-
Tâu phụ vương, suốt mười tháng con nằm trong bụng mẹ chẳng khác nào Ðịa ngục
phân dơ, khiđã sinh ra đời, vì sợ con quỷ dữ mà
con phải sống trong cảnh giam cầm, chẳng bao giờ có cơ hội nhìn ra ngoài. Con
thấy giống như bị nhốt vào ngục Ussada (Ngục có thành sắt bao bọc), nay đã thoát nạn quỷ cái ấy, song con chẳng bao giờ
thoát được tưổi già và cái chết, vì không ai có thể
chiến thắng thần chết cả. Con nhàm chán sự sinh ra đời rồi. Vậy trước khi già, bệnh, chết kéo đến với con, con quyết theo đời người tu hành,
tiến bước trong chánh hạnh. Con không muốn ngai vàng dành cho con. Tâu phụ
vương, xin phụ vương ban ơn chấp thuận cho con đi.
Rồi
ngài thuyết Pháp cho thân phụ như vầy:
1. Mầm sống, một khi nhập tử cung
Mới vừa khởi sự bước đầu xong
Nó liền tiến mãi hoài liên tục
Sinh mệnh dòng kia chẳng thể dừng.
2. Không một quyền năng, chẳng lực hùng
Giúp người tránh lão tử sau cùng,
Mọi loài khổ lụy vì sinh lão,
Con quyết tìm thanh tịnh bản thân
3. Ðại vương chiến thắng bởi hùng binh
Bốn đạo quân nhìn thật đáng kinh,
Song chẳng phá tan quân Diêm chúa
Nên con nguyền Phạm hạnh phần mình
4. Dù mã, tượng, xa với đạo quân
Vây quanh, vài kẻ thoát nhanh chân;
Song không ai thoát tay thần chết
Con quyết đời thanh tịnh để phần.
5. Với mã , tượng xã, các đạo binh
Anh hùng tiêu diệt thảy tan tành.
Song không thấy có người nào đủ
Sức mạnh phá tan được tử hình;
Vì thế lòng con nay đã quyết
Cuộc đời Phạm hạnh để cho mình
6. Voi điên, da đẫm ướt trên đường
Phố xá dẫm tan, giết hại dân,
Song chẳng thấy người đầy thế lực
Dẫm ta, tiêu diệt tử ma vương;
Cho nên con quyết lòng tu tập
Thanh tịnh đời riêng với bản thân.
7. Xạ thủ đại hùng, thiện xảo thay,
Bắn như tia chớp tự xa bay,
Song con không thấy người thừa sức
Làm tổn thương được thần chết này
Vì thế lòng con giờ quyết định
Theo đời thanh tịnh để phần đây.
8. Rừng núi, hồ sông với thạch bàn
Không lâu để sụp đổ điêu tàn
Ðúng thời, vạn vật thành không cả,
Con quyết đời thanh tịnh bước đàng.
9. Giống như cây ở mé bờ sông
Bán áo, người say đổi rượu nồng
Cuộc sống muôn loài đều khổ cả,
Nên con quyết Phạm hạnh riêng phần
10. Tứ đại rã tan , chúng lụi dần,
Trẻ già, nam nữ, cả nhân quần
Ngã như trái rụng vì cây đổ;
Con quyết đời thanh tịnh bản thân
11. Xuân của thế gian khác nữ thần
Ngự trên tinh tú ấy cô Hằng
Chẳng bao giờ tuổi xuân về nữa
Ðối với lão niên kiệt quệ dần
Lạc thú ái ân nào có được?
Nên con quyết Phạm hạnh riêng phần.
12. Ác quỷ thần tiên, lúc nổi sân
Phun luồng khí độc hại phàm nhân,
Song làn khí độc thần linh ấy
Chẳng giúp vào xô ngã tử thần
Vì vậy lòng con giờ đã quyết
Cuộc đời thanh tịnh để riêng phần.
13. Khi ác thần, yêu quái quỷ tinh
Nổi sân, được vuốt dịu làm lành
Do người cúng bái; song không thể
Làm tử thần tan hết bất bình
Vì vậy giờ con đây quyết định
Cuộc đời thanh tịnh để phần mình.
14. Những người gây tội ác, hung tàn
Khi lộ, bị hình phạt chúa ban
Song với tử thần, không thể phạt
Nên con nguyền Phạm hạnh lên đàng
15. Những người gây tội ác đau thương
Tìm cách cản tay các đế vương
Song với tử thần tay lưỡi hái
Việc này xem quả thật vô phương.
Cho nên con quyết giờ đây chọn
Thanh tịnh đời con tiến thẳng đường
16. Quân vương, võ tướng, Bà-la-môn
Những kẻ mang danh vị tối tôn,
Những đại phú gia, người thế lực
Tử thần cũng chẳng rũ lòng thương
Cho nên con quyết từ đây sống
Phạm hạnh đời con đã chọn đường
17. Cọp beo, sư tử chụp con mồi
Tất cả đều ăn sống nuốt tươi
Cho dẫu con mồi mong giãy giụa
Tử thần đâu sợ hổ, sư nhai!
Cho nên con trẻ từ đây quyết
Phạm hạnh riêng con sống cả đời
18. Kẻ xiếc trên sân khấu lộn sòng
Diễn trò lừa bịp mắt người trông
Muốn lừa thần chết, không mưu kế;
Thánh hạnh đời con đã quyết lòng
19. Nọc độc rắn rồng lúc nổi sân
Tấn công, giết lập tức người trần;
Nọc kia, thần chết không hề sợ;
Thanh tịnh đời con quyết chọn phần
20. Nanh độc rắn dùng lúc nổi sân,
Vị lương y có đủ tài năng
Làm tiêu tan hết xà công lực
Song chữa vết thương của Tử thần
Không một anh hùng nào đủ sức
Nên con quyết Phạm hạnh riêng phần
21. Lương y chữa nọc rắn tài tình,
Ðã chết, giờ đây khuất bóng hình:
Bố-giạ, Vệ-tài, Ða-mẫn nữa
Nên con quyết Phạm hạnh cho mình
22. Vài kẻ tinh thông thuật, chú thần,
Tàng hình đi trước mặt tha nhân,
Tuy nhiên không thể tàn hình mãi
Mà tử thần trông thấy vẫn gần
Vì vậy lòng con nay quyết định:
Cuộc đời thanh tịnh để riêng phần
23. Bất cứ ai theo hạnh phúc chánh chân
Ðều là người được hưởng bình an,
Khéo hành chánh đạo nhiều công đức,
Hạnh phúc thay là bậc chánh nhân!
Chẳng bao giờ có người chánh hạnh
Rơi vào trong đọa xứ đau buồn
24. Ðúng chăng nghiệp quả của riêng mình
Ðều phải do tà, chánh phát sinh?
Tà hạnh dẫn người vào địa ngục
Chánh chân đưa đến cõi thiên đình.
Mới vừa khởi sự bước đầu xong
Nó liền tiến mãi hoài liên tục
Sinh mệnh dòng kia chẳng thể dừng.
2. Không một quyền năng, chẳng lực hùng
Giúp người tránh lão tử sau cùng,
Mọi loài khổ lụy vì sinh lão,
Con quyết tìm thanh tịnh bản thân
3. Ðại vương chiến thắng bởi hùng binh
Bốn đạo quân nhìn thật đáng kinh,
Song chẳng phá tan quân Diêm chúa
Nên con nguyền Phạm hạnh phần mình
4. Dù mã, tượng, xa với đạo quân
Vây quanh, vài kẻ thoát nhanh chân;
Song không ai thoát tay thần chết
Con quyết đời thanh tịnh để phần.
5. Với mã , tượng xã, các đạo binh
Anh hùng tiêu diệt thảy tan tành.
Song không thấy có người nào đủ
Sức mạnh phá tan được tử hình;
Vì thế lòng con nay đã quyết
Cuộc đời Phạm hạnh để cho mình
6. Voi điên, da đẫm ướt trên đường
Phố xá dẫm tan, giết hại dân,
Song chẳng thấy người đầy thế lực
Dẫm ta, tiêu diệt tử ma vương;
Cho nên con quyết lòng tu tập
Thanh tịnh đời riêng với bản thân.
7. Xạ thủ đại hùng, thiện xảo thay,
Bắn như tia chớp tự xa bay,
Song con không thấy người thừa sức
Làm tổn thương được thần chết này
Vì thế lòng con giờ quyết định
Theo đời thanh tịnh để phần đây.
8. Rừng núi, hồ sông với thạch bàn
Không lâu để sụp đổ điêu tàn
Ðúng thời, vạn vật thành không cả,
Con quyết đời thanh tịnh bước đàng.
9. Giống như cây ở mé bờ sông
Bán áo, người say đổi rượu nồng
Cuộc sống muôn loài đều khổ cả,
Nên con quyết Phạm hạnh riêng phần
10. Tứ đại rã tan , chúng lụi dần,
Trẻ già, nam nữ, cả nhân quần
Ngã như trái rụng vì cây đổ;
Con quyết đời thanh tịnh bản thân
11. Xuân của thế gian khác nữ thần
Ngự trên tinh tú ấy cô Hằng
Chẳng bao giờ tuổi xuân về nữa
Ðối với lão niên kiệt quệ dần
Lạc thú ái ân nào có được?
Nên con quyết Phạm hạnh riêng phần.
12. Ác quỷ thần tiên, lúc nổi sân
Phun luồng khí độc hại phàm nhân,
Song làn khí độc thần linh ấy
Chẳng giúp vào xô ngã tử thần
Vì vậy lòng con giờ đã quyết
Cuộc đời thanh tịnh để riêng phần.
13. Khi ác thần, yêu quái quỷ tinh
Nổi sân, được vuốt dịu làm lành
Do người cúng bái; song không thể
Làm tử thần tan hết bất bình
Vì vậy giờ con đây quyết định
Cuộc đời thanh tịnh để phần mình.
14. Những người gây tội ác, hung tàn
Khi lộ, bị hình phạt chúa ban
Song với tử thần, không thể phạt
Nên con nguyền Phạm hạnh lên đàng
15. Những người gây tội ác đau thương
Tìm cách cản tay các đế vương
Song với tử thần tay lưỡi hái
Việc này xem quả thật vô phương.
Cho nên con quyết giờ đây chọn
Thanh tịnh đời con tiến thẳng đường
16. Quân vương, võ tướng, Bà-la-môn
Những kẻ mang danh vị tối tôn,
Những đại phú gia, người thế lực
Tử thần cũng chẳng rũ lòng thương
Cho nên con quyết từ đây sống
Phạm hạnh đời con đã chọn đường
17. Cọp beo, sư tử chụp con mồi
Tất cả đều ăn sống nuốt tươi
Cho dẫu con mồi mong giãy giụa
Tử thần đâu sợ hổ, sư nhai!
Cho nên con trẻ từ đây quyết
Phạm hạnh riêng con sống cả đời
18. Kẻ xiếc trên sân khấu lộn sòng
Diễn trò lừa bịp mắt người trông
Muốn lừa thần chết, không mưu kế;
Thánh hạnh đời con đã quyết lòng
19. Nọc độc rắn rồng lúc nổi sân
Tấn công, giết lập tức người trần;
Nọc kia, thần chết không hề sợ;
Thanh tịnh đời con quyết chọn phần
20. Nanh độc rắn dùng lúc nổi sân,
Vị lương y có đủ tài năng
Làm tiêu tan hết xà công lực
Song chữa vết thương của Tử thần
Không một anh hùng nào đủ sức
Nên con quyết Phạm hạnh riêng phần
21. Lương y chữa nọc rắn tài tình,
Ðã chết, giờ đây khuất bóng hình:
Bố-giạ, Vệ-tài, Ða-mẫn nữa
Nên con quyết Phạm hạnh cho mình
22. Vài kẻ tinh thông thuật, chú thần,
Tàng hình đi trước mặt tha nhân,
Tuy nhiên không thể tàn hình mãi
Mà tử thần trông thấy vẫn gần
Vì vậy lòng con nay quyết định:
Cuộc đời thanh tịnh để riêng phần
23. Bất cứ ai theo hạnh phúc chánh chân
Ðều là người được hưởng bình an,
Khéo hành chánh đạo nhiều công đức,
Hạnh phúc thay là bậc chánh nhân!
Chẳng bao giờ có người chánh hạnh
Rơi vào trong đọa xứ đau buồn
24. Ðúng chăng nghiệp quả của riêng mình
Ðều phải do tà, chánh phát sinh?
Tà hạnh dẫn người vào địa ngục
Chánh chân đưa đến cõi thiên đình.
Khi
bậc Ðại Sĩ đã thuyết pháp như vậy
qua hai mươi bốn vần kệ xong, ngài tiếp:
-
Tâu Ðại vương, xin Ðại vương giữ quốc độ cho mình, phần con không màng đến nó chút nào. Ngay khi con đang tâu trình với phụ vương thì bệnh tật, tuổi
già và thần chết nữa đều tiến đến gần con
hơn. Xin phụ vương ở lại vương vị cũ.
Sau đó, chẳng khác nào con voi điên cuồng bật tung xiềng xích bằng sắt, hoặc
như chú sư tử nhỏ bé phá vỡ chiếc lồng vàng, ngài đập tan mọi dục vọng phàm tục trong lòng và đảnh lễ song thân rồi ra đi.
Tiếp
theo đó phụ vương của ngài phán:
-
Ta cũng không thiết ngai vàng quốc độ nữa!
Rồi
vua cha từ giã thế sự, ra đi cùng ngài. Khi các
ngài đi rồi, chánh hậu, đám triều thần Bà-la-môn, các
gia chủ cùng mọi người khác trong kinh thành đều bỏ nhà cửa ra đi hết.
Thế
là một đoàn đại chúng trải dài cả mười hai dặm đường. Cùng với đám đông này, ngài tiến về phía Tuyết Sơn.
Khi
Sakka Thiên chủ (Ðế Thích) biết rằng ngài đã xuất gia, liền sai Thiên sứ đi xây dựng một vùng am thất trải dài cả mười hai dặm, bề rộng bảy
dặm và truyền bảo vị ấy đem vào đó mọi thứ cần thiết cho cuộc đời tu tập khổ
hạnh. Cách thức bậc Ðại Sĩ tiếp tục thâu
nhận đám người này vào hội chúng xuất gia của ngài và
thuyết giáo cho hội chúng, sau đó hội chúng được sinh
lên Phạm thiên giới hay chứng đắc quả Tam quả bất Lai
như thế nào, tất cả đều diễn ra giống như
trước kia
*
Khi
Pháp thoại này chấm dứt, bậc Ðạo Sư bảo:
- Như
vậy này các Tỷ-kheo, trước kia Như Lai cũng đã làm Ðại sự Xuất thế.
Sau đó Ngài nhận diện Tiền thân:
- Vào
thời ấy, song thân của vương tử kia là phụ hoàng và mẫu hậu ngày nay, hội chúng
của đức Phật là đám thần dân và Ta chính là Hiền giả Ayoghara
(Thiết Thất)
-ooOoo-
0 Komentar