Chương XIII (tt)
480.
Chuyện Hiền Giả Akitta (Tiền thân Akitta)
Sak-ka,
Chúa tể giữa quần sinh..,
Chuyện
này bậc Ðạo sư kể trong khi trú tại Kỳ Viên về một đại thí chủ rất rộng lượng sống
ở Xá-vệ.
Chuyện
kể rằng người này mời bậc Ðạo sư đến nhà và suốt bảy ngày đã cúng dường rất nhiều thí vật
cho Tăng chúng đi theo Ngài. Vào ngày cuối cùng lại cúng dường Thánh chúng đủ các vật dụng cần thiết, sau
đó bậc Ðại sư nói lời tùy hỷ với ông:
- Này
nam cư sĩ, công đức bố thí của ông thật là rộng lớn, ông đã thực hành một việc khó lắm
thay. Bố thí là tục lệ của các bậc hiền trí ngày xưa, thí vật phải được phân phát dù người còn tại
gia hay xuất gia, các bậc trí giả ngày xưa, ngay khi đã rời thế tục vào ở trong
rừng, khi chỉ ăn lá Kara rảy nước mà không có thứ gia vị nào cả cũng vẫn đem cho đám khất thực đi qua đó
để đáp ứng nhu cầu của các vị ấy và vẫn an trú trong hỷ lạc của bản thân mình.
Gia chủ
kia đáp:
-
Bạch Thế Tôn, việc cúng dường mọi vật dụng cần thiết ấy cho Tăng chúng thật rõ
ràng dễ hiểu. Song lời dạy của Thế Tôn chưa được rõ. Xin Thế Tôn giải thích cho chúng con.
Rồi
theo lời thỉnh cầu trên, Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Một
thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh trong một gia đình đại phú Bà-la-môn, có tài sản lên tới tám trăm
triệu. Ngài được đặt tên là Akitti.
Khi ngài vừa biết đi, thì một bé gái lại
ra đời với tên Yavasati.
Lúc
mười sáu tuổi, bậc Ðại sĩ đi vào thành Ba-la-nại
học tập cho đến lúc thành đạt rồi ra về. Sau đó cha mẹ ngài qua đời. Khi ngài cử hành tang lễ cho song thân đã khuất xong, ngài xem xét lại kho tàng của gia
tộc. Danh mục ghi rõ: "Các vị này, vị kia đã tích trữ những tài sản lớn như vậy rồi qua đời, kế đến là các vị khác cũng tích trữ nhiều
như vậy.." Nghe chuyện này, ngài phiền muộn trong trí và nghĩ thầm:
"Kho báu này ai cũng thấy cả, song những vị tích trữ tài sản thì không còn
nữa. Các vị đã ra đi để lại kho báu đằng sau mình, nhưng khi ta từ
trần, ta muốn đem theo bảo vật".
Vì vậy, ngài cho tìm em gái đến và bảo:
-
Hiền muội, hãy trông nom kho báu này.
-
Ý hiền huynh là thế nào?
Ngài đáp:
-
Ta muốn làm người tu khổ hạnh.
Nàng đáp:
-
Này hiền huynh, tiểu muội không muốn đội lên đầu những thứ mà hiền
huynh đã nhổ ra khỏi miệng, tiểu muội chẳng muốn thứ
gì cả, mà cũng muốn sống đời khổ hạnh thôi.
Rồi
sau khi xin phép vua, ngài bảo đánh trống vang dội khắp
kinh thành, bố cáo cho mọi người rõ:
-
Toàn dân lắng nghe này: "Ai muốn có tiền bạc cứ đến nhà hiền nhân kia!".
Suốt
bảy ngày, ngài phân phát những kho tài sản lớn, tuy thế kho báu vẫn chưa hết,
ngài lại nghĩ thầm: "Tứ đại trong thân ta đang
tan rã, ta còn muốn cái trò phân phát tài sản này nữa sao? Thôi, ai muốn lấy cứ
lấy đi".
Thế
là ngài từ giã ngôi nhà đầy châu báu, giữa các
gia nhân thân quyến khóc lóc xung quanh, ngài cùng em gái ra đi. Và cái cổng thành Ba-la-nại nơi các ngài đi qua được gọi là cổng Akitta, còn bến đò các ngài bước xuống bến sông cũng được đặt tên là bến đò Akitta nữa.
Các
ngài băng qua ba dặm đường, đến một nơi mát mẻ dễ chịu thì dựng lên một am lá
và cùng em gái ngài sống như người tu khổ hạnh. Sau thời gian từ bỏ thế tục,
nhiều người khác cũng làm như vậy, dân ở thôn quê, thị trấn, hoặc ở kinh thành, đầy đủ cả. Hội chúng thật đông đảo, các vị ấy
nhận được nhiều vật cúng dường cùng sự tôn trọng sùng kính chẳng khác nào thời
có một đức Phật xuất hiện ở
đời. Lúc ấy bậc Ðại sĩ thầm nghĩ:
"Ở đây thật nhiều vinh
quang trọng vọng cùng với vô số thí vật và hội chúng đông đảo, song ta phải độc cư".
Vì
thế, vào một lúc không ai ngờ được và cũng không báo
trước cho cô em gái, ngài ra đi một mình, dần dần đến tận vương quốc Damila ở bờ biển bắc Tích lan
sống trên một hoa viên sát trên vùng Kàvìrapattana, ngài tu tập Thiền định và Thắng trí. Tại đó ngài cũng nhận được sự ngưỡng mộ và vô số thí vật của dân. Ðiều
ấy không thích hợp với ngài, ngài liền từ bỏ hết và phi hành qua không gian rồi đến tận đảo của Rắn Rồng (Nàga) gần Bắc Tích
Lan. Vào thời ấy, Kàradìpa được gọi là Ahidìpa hay đảo Rắn Rồng. Tại đó, ngài xây một ẩn am cạnh
một cây Kàra lớn và an trú. Song việc ngài ở đó không ai hay biết cả.
Lúc
bấy giờ, em gái ngài đi tìm anh, dần dần đến tận vương quốc Damila, vẫn không gặp ngài,
nàng lại ở ngay chính nơi ngài đã ở, song nàng không
thể phát khởi Thiền định.
Còn
bậc Ðại sĩ sống thiểu dục đến độ ngài không đi đâu cả, mà cứ vào mùa có trái cây chín, ngài
chỉ sống bằng trái cây đó, còn vào mùa lá trổ
bông thì ngài ăn lá đó luộc với ít
nước lã. Nhờ ngọn lửa công đức của ngài mà chiếc
ngai báu bằng cẩm thạch của Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ nóng rực lên. Thiên chủ
nghĩ: "Ai đã khiến ta phải bước
xuống khỏi chiếc ngai ta đang ngự?" và ngài
nhận xét và thấy bậc hiền nhân này, ngài nghĩ thầm: "Tại cớ gì vị tu khổ
hạnh đằng kia hộ trì côngđức? Có phải vị ấy muốn lên
ngôi Thiên chủ chăng? Hay vì một duyên cớ nào khác? Ta muốn thử vị ấy xem. Vị
ấy sống rất khổ cực, chỉ ăn lá Kàra luộc với nước
thôi: Nếu vị đó ước muốn làm Thiên
chủ, vị ấy sẽ nhường cho ta mớ lá cây luộc với nước của mình, còn nếu không thì
vị ấy sẽ không đưa". Sau đó, Thiên
chủ giả dạng một Bà-la-môn, đến gặp Bồ-tát.
Bồ-tát đang ngồi ở cửa thảo am, sau khi luộc lá và đem xuống, ngài nghĩ: "Khi nào nguội ta
sẽăn". Vào lúc ấy, Sakka Thiên chủ đứng trước mặt ngài và xin bố thí. Khi Bồ-tát nhìn thấy Thiên chủ,
lòng rất hoan hỷ: "Thật là một niềm hạnh phúc cho ta - Ngài nghĩ thầm - ta
thấy một vị khất thực, hôm nay ta sẽ đạt được tâm nguyện và ta sẽ bố thí".
Lúc
món ăn đã sẵn sàng, ngài liền múc vào bát ngài và
vừa tiến về phía Thiên chủ, vừa nói:
-
Ðây là vật cúng dường của ta, ước mong rằng đây là phương tiện để ta đạt Chánh Giác tối
thượng.
Rồi
chẳng để lại chút gì cho mình, ngài đặt hết thức ăn vào bình bát của Thiên chủ. Vị
Bà-la-môn này cầm lấy vừa đi một khoảng ngắn thì
biến mất. Còn bậc Ðại sĩ, sau khi cúng dường, cũng không nấu thêm thứ gì nữa,
mà cứ ngồi an tịnh trong niềm hỷ lạc. Hôm sau, ngài cũng luộc lá và ngồi trước
cửa am như cũ. Thiên chủ Sakka lại đến giả dạng một Bà-la-môn và bậc Ðại sĩ cũng bố thí rồi tiếp tục
an trú vào hỷ lạc. Vào ngày thứ ba, ngài lại bố thí như trước, và bảo:
-
Ngài hãy xem phần phước lạc dành cho ta nhiều biết bao! Chỉ một ít lá Kàra đã mang lại côngđức lớn cho ta rồi.
Trong
niềm hỷ lạc phát xuất tận đáy lòng như vậy, ngài
thấy yếu người vì thiếu ăn đã ba ngày, ngài liền
ra khỏi am đúng lúc ngọ và ngồi
trước cửa, suy nghĩ về tặng vật ngài đã đem cúng dường.
Còn
Sakka Thiên chủ nghĩ thầm: "Vị đạo sĩ Bà-la-môn này đã nhịn ăn đã ba ngày, yếu ớt
thế kia song vẫn nhường cho ta và tìm an lạc trong việc bố thí. Trong tư tưởng
vị này không còn ý định nào khác. Ta không
hiểu vị ấy ao ước điều gì và tại sao lại
bố thí như vậy, nên ta phải hỏi để hiểu vị ấy muốn gì và
biết được nguyên nhân việc bố thí trên".
Vì
thế, Thiên chủ chờ đợi đến quá giờ ngọ, và
trong vẻ huy hoàng oai nghi tột bực, ngài xuất hiện trước mặt bậc Ðại sĩ, sáng
chói như mặt trời ban mai; vừa đứng trước bậc Ðại sĩ, Thiên chủ hỏi:
-
Này Ðạo sĩ, tại sao ngài hành trì khổ hạnh, trong rừng này, xung quanh là biển
mặn bao bọc, với những cơn gió nóng hừng hực đang hắt mạnh vào người?
*
Thiên
chủ ngâm vần kệ đầu để giải thích vấn đề
này:
1. Sak-ka, Chúa tể của quần sinh,
Trông thấy A-ki đáng kính danh,
Liền hỏi: "Tại sao, này Ðại sĩ,
Trú đây trời hực nắng vàng hanh?"
Trông thấy A-ki đáng kính danh,
Liền hỏi: "Tại sao, này Ðại sĩ,
Trú đây trời hực nắng vàng hanh?"
*
Khi
bậc Ðại sĩ nghe vậy, và thấy vị đó chính là Sakka, ngài đáp:
-
Ta không ước ao đạt đến những cảnh giới
trên kia, mà chỉ ao ước chứng đắc Chánh Giác tối
thượng nên ta đã sống đời khổ hạnh ở đây.
Ngài
ngâm vần kệ thứ hai để làm sáng tỏ điều này:
2. Thân hoại, tái sinh, tử biệt trần,
Mê lầm, tất cả chính đau buồn,
Sak-ka Thiên chủ, nay vì vậy
Ta vẫn trú đây được vạn an.
Mê lầm, tất cả chính đau buồn,
Sak-ka Thiên chủ, nay vì vậy
Ta vẫn trú đây được vạn an.
Nghe
những lời này, Sakka Thiên chủ hoan hỷ trong lòng và thầm nghĩ: "Vị ấy
không ham thích bất cứ sinh loại hữu tình nào và vì muốn chứng đắc Niết bàn nên vào an trú trong rừng. Ta muốn
ban cho vị ấy một điều ước". Thế là
Thiên chủ mời ngài chọn một điều ước qua lời kệ thứ
ba:
3. Kas-sa-pa, khéo diễn chân ngôn,
Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
Hãy chọn giờ đây lời ước nguyện
Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.
Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
Hãy chọn giờ đây lời ước nguyện
Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.
Bậc
Ðại sĩ ngâm vần kệ thứ tư nói lên điều ngài ước mong:
4. Thiên chủ Sakka của chúng sinh,
Ban cho ta hưởng một ân lành;
Vợ con, vàng bạc, cùng kho lúa,
Dù có dư, ta vẫn bất bình;
Ta ước những điều tham dục ấy
Chẳng còn trú ẩn ở tâm mình.
Ban cho ta hưởng một ân lành;
Vợ con, vàng bạc, cùng kho lúa,
Dù có dư, ta vẫn bất bình;
Ta ước những điều tham dục ấy
Chẳng còn trú ẩn ở tâm mình.
Lúc
ấy Sakka Thiên chủ vô cùng hoan hỷ, ban cho ngài thêm nhiều đặc ân khác nữa và bậc Ðại sĩ nhận lãnh, mỗi vị
lần lượt ngâm một vần kệ như sau:
Thiên
chủ:
5. Kas-sa-pa, khéo diễn chân ngôn,
Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
Hãy chọn, giờ đây, điều ước nguyện,
Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.
Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
Hãy chọn, giờ đây, điều ước nguyện,
Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.
Bồ-tát:
6. Chúa tể muôn loài chính là Sak-ka,
Ân lành, ngài muốn tặng cho ta:
Ruộng, vàng, của cải, tôi đòi, ngựa,
Trâu, chó, ngay sau phải chết già.
Ta ước sẽ không còn giống chúng.
Ta mong nhược điểm ấy rời ta.
Ân lành, ngài muốn tặng cho ta:
Ruộng, vàng, của cải, tôi đòi, ngựa,
Trâu, chó, ngay sau phải chết già.
Ta ước sẽ không còn giống chúng.
Ta mong nhược điểm ấy rời ta.
Thiên
chủ:
7. Kas-sa-pa, khéo diễn chân ngôn,
Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
Hãy chọn, giờ đây, điều ước nguyện,
Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.
Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
Hãy chọn, giờ đây, điều ước nguyện,
Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.
Bồ-tát:
8. Sak-ka, Thiên chủ ngự trên trần,
Ban tặng cho ta một đặc ân:
Ước chẳng nghe, nhìn người độn trí,
Kẻ kia chẳng sống với ta cùng,
Chẳng ham trò chuyện người vô trí,
Chẳng kết bạn cùng kẻ độn căn!
Ban tặng cho ta một đặc ân:
Ước chẳng nghe, nhìn người độn trí,
Kẻ kia chẳng sống với ta cùng,
Chẳng ham trò chuyện người vô trí,
Chẳng kết bạn cùng kẻ độn căn!
Thiên
chủ:
9. Kẻ ấy làm gì, Kas-sa-pa,
Cho ngài, xin hãy nói ngay ra,
Tại sao bầu bạn người vô trí
Ngài chẳng ưa, này, hãy bảo ta.
Cho ngài, xin hãy nói ngay ra,
Tại sao bầu bạn người vô trí
Ngài chẳng ưa, này, hãy bảo ta.
Bồ-tát:
10. Hành động người ngu thật bạo tàn,
Buộc ràng gánh nặng chẳng ai mang,
Thực hành ác nghiệp: đích mong muốn,
Nổi giận khi nghe nói thật chân,
Nó chẳng biết gì là chánh hạnh,
Nên ta không muốn kẻ ngu gần.
Buộc ràng gánh nặng chẳng ai mang,
Thực hành ác nghiệp: đích mong muốn,
Nổi giận khi nghe nói thật chân,
Nó chẳng biết gì là chánh hạnh,
Nên ta không muốn kẻ ngu gần.
Thiên
chủ:
11. Kas-sa-pa, khéo diễn chân ngôn,
Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
Hãy chọn, giờ đây, điều ước nguyện,
Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.
12. Sak-ka, Thiên chủ của quần sinh,
Ban tặng cho ta một phước lành:
Ta ước nghe nhìn người có trí,
Ước mong vị ấy ở cùng mình.
Ta mong đàm luận cùng người trí,
Ðược kết giao cùng bậc trí minh.
13. Bậc trí làm gì, Kas-sa-pa,
Cho ngài, xin hãy nói ngay ra,
Sao ngài ao ước nơi ngài ở,
Người trí cùng chung sống một nhà?
14. Hành động tốt lành, bậc trí nhân
Chẳng ràng buộc gánh khổ vào thân,
Chuyên tâm, bậc trí làm ân phước,
Chẳng giận khi nghe nói thật chân,
Thông hiểu chánh hành, và bởi vậy,
Lành thay bậc trí sống chung cùng.
15. Kas-sa-pa, khéo diễn chân ngôn,
Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
Hãy chọn, giờ đây, điều ước nguyện,
Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.
Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
Hãy chọn, giờ đây, điều ước nguyện,
Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.
12. Sak-ka, Thiên chủ của quần sinh,
Ban tặng cho ta một phước lành:
Ta ước nghe nhìn người có trí,
Ước mong vị ấy ở cùng mình.
Ta mong đàm luận cùng người trí,
Ðược kết giao cùng bậc trí minh.
13. Bậc trí làm gì, Kas-sa-pa,
Cho ngài, xin hãy nói ngay ra,
Sao ngài ao ước nơi ngài ở,
Người trí cùng chung sống một nhà?
14. Hành động tốt lành, bậc trí nhân
Chẳng ràng buộc gánh khổ vào thân,
Chuyên tâm, bậc trí làm ân phước,
Chẳng giận khi nghe nói thật chân,
Thông hiểu chánh hành, và bởi vậy,
Lành thay bậc trí sống chung cùng.
15. Kas-sa-pa, khéo diễn chân ngôn,
Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
Hãy chọn, giờ đây, điều ước nguyện,
Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.
Bồ-tát:
16. Sak-ka, Thiên chủ của quần sinh,
Ban tặng cho ta một phước lành:
Mong giải thoát ngoài vòng ái dục,
Và khi vầng nhật chiếu bình minh,
Mong chư Thánh giả du hành đến,
Ðem thực phẩm thiên giới tặng mình.
17. Mong tặng nó không giảm sút dần,
Ta không hối tiếc việc ta làm,
Mong lòng hoan hỷ lúc phân phát,
Ta chọn ước kia để hưởng phần.
Ban tặng cho ta một phước lành:
Mong giải thoát ngoài vòng ái dục,
Và khi vầng nhật chiếu bình minh,
Mong chư Thánh giả du hành đến,
Ðem thực phẩm thiên giới tặng mình.
17. Mong tặng nó không giảm sút dần,
Ta không hối tiếc việc ta làm,
Mong lòng hoan hỷ lúc phân phát,
Ta chọn ước kia để hưởng phần.
Thiên
chủ:
18. Kas-sa-pa, khéo diễn chân ngôn,
Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
Hãy chọn, giờ đây, điều ước nguyện,
Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.
Ngài nói lên lời tối thượng tôn,
Hãy chọn, giờ đây, điều ước nguyện,
Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.
Bồ-tát:
19. Sak-ka, Thiên chủ của quần sinh,
Ngài đã ban ta một phước lành:
Thiên chủ, xin đừng thăm viếng nữa,
Ðiều này khao khát tự tim mình.
Ngài đã ban ta một phước lành:
Thiên chủ, xin đừng thăm viếng nữa,
Ðiều này khao khát tự tim mình.
Thiên
chủ:
20. Song các nam nhân, các nữ nhân,
Những người đang sống thật hiền lương,
Ðều ước ao cùng ta diện kiến,
Việc này có tác hại gì chăng?
Những người đang sống thật hiền lương,
Ðều ước ao cùng ta diện kiến,
Việc này có tác hại gì chăng?
Bồ-tát:
21. Dung mạo ngài muôn vẻ thiện toàn,
Vô cùng hoan hỷ, đại vinh quang,
Thấy ngài, xao lãng điều tâm nguyện,
Nguy hại là trông thấy Ngọc hoàng!
Vô cùng hoan hỷ, đại vinh quang,
Thấy ngài, xao lãng điều tâm nguyện,
Nguy hại là trông thấy Ngọc hoàng!
-
Thôi được rồi, thưa Tôn giả - Thiên chủ đáp - Ta quyết sẽ chẳng bao giờ viếng thăm ngài
nữa.
Và
vừa đảnh lễ ngài, vừa xin ngài thứ lỗi, Thiên chủ ra đi. Từ đó, bậc Ðại sĩ an trú tại nơi ấy suốtđời, tu tập Tứ Vô
lượng tâm (từ,bi,hỷ,xả) và được sinh lên cõi Phạm
thiên.
*
Sau khi
chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo sư nhận diện Tiền thân:
- Vào
thời ấy, Ànanda (A-nan) là Thiên chủ Sakka (Ðế Thích) và Ta chính là Hiền giả
Àkitti.
-ooOoo-
481.
Chuyện Hiền Giả Takkàriya (Tiền thân Takkàriya)
Ta nói điên cuồng tựa ễnh ương..,
Chuyện
này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về Tỷ-kheo Kokàlika.
Trong
một thời an cư về mùa mưa, hai vị Ðại đệ tử Sàriputta (Xá-lợi-phất) và Moggallàna
(Mục-kiền-liên) muốn rời hội chúng và sống độc cư, nên từ giã bậc Ðạo sư, đi vào vương quốc, nơi có
Tỷ-kheo Kokàlika trú ngụ. Các vị đến nhà Tỷ kheo Kokàlika và nói với ông như vầy:
- Này
Hiền hữu Kokàlika, vì chúng ta thích sống với Hiền hữu và Hiền hữu cũng thích
sống với chúng ta, nên chúng ta muốn ở lại đây ba tháng.
Vị kia
hỏi:
- Các
Tôn giả hoan hỷ khi an trú với tiểu đệ theo cách nào?
Hai vị đáp:
- Nếu
Hiền hữu không nói với ai rằng hai Ðại đệ tử đang ở đây, thì chúng ta
sẽ rất hoan hỷ, đó là niềm an lạc của chúng ta khi sống với Hiền hữu.
- Thế
còn tiểu đệ được hoan hỷ như thế nào khi sống chung với các Tôn giả?
- Chúng
ta sẽ thuyết Pháp cho Hiền hữu trong ba tháng tại nhà Hiền hữu, chúng ta sẽ
giảng giáo lý cho Hiền hữu và việc đó là niềm hoan lạc của Hiền hữu khi sống với
chúng ta.
- Xin
các Tôn giả hiền huynh hãy an trú tại đây bao lâu các Hiền huynh muốn.
Rồi ông
dành một nơi cư trú an lạc cho các ngài. Các ngài an trú tại đó trong quả vị của các Thiền
chứng và không ai biết về việc các ngài an trú tại nơi ấy.
Sau
khi hai vị đã trải qua mùa mưa như
vậy, hai vị bảo ông:
-
Này Hiền hữu, nay chúng ta đã ở với Hiền hữu xong,
chúng ta muốn trở lại với bậc Ðạo sư.
Và hai
vị từ giã lên đường. Ông chấp thuận, cùng với hai vị trên đường đi khất thực vào một
làngđối diện nơi đã ở. Sau buổi cơm, các vị Tỷ-kheo Trưởng lão rời làng ấy. Còn
Tỷ-kheo Kokàlika từ giã các vị xong, trở về nói với dân chúng:
- Này
các cư sĩ, các ông thật giống loài thú hoang sơ. Ðây là hai vị Ðại đệ tử của đức Phật đã an cư
suốt ba tháng trong một tinh xá đối diện nơi này, thế mà các ông không hay biết
gì cả, nay các ngài đã đi rồi.
- Thưa
Tôn giả, tại sao ngài không nói cho chúng tôi gì cả? Dân chúng hỏi.
Rồi họ đem bơ tươi, và thuốc men, y
phục đến gần các vị Trưởng lão, kính lễ các vị và nói:
- Bạch
các Tôn giả, xin các Tôn giả tha thứ cho chúng con. Chúng con không biết các
ngài là Ðạiđệ tử, chúng con chỉ mới biết điều ấy do lời của Tôn giả Tỷ-kheo
Kokàlika. Xin các ngài từ bi đối với chúng con và nhận các thuốc men, y phục
này.
Kokàlika
cùng dân chúng đi theo các Trưởng lão vì ông suy nghĩ: "Các Tôn giả này
sống rất đạm bạc và thiểu dục; các ngài sẽ không nhận các vật dụng này
và rồi sẽ đem chúng cho ta". Nhưng hai vị Trưởng lão không nhận
các vật dụng ấy cho phần mình, cũng không cho Tỷ-kheo Kokàlika, lý do là các
vật ấy được cúng dường theo lời xúi giục của một Tỷ-kheo.
Lúc ấy,
các cư sĩ liền nói:
- Bạch
các Tôn giả, nếu các ngài không nhận các món này, xin đến đây lần nữa để ban phước
cho chúng con.
Hai
Trưởng lão chấp thuận hứa lời xong, rồi đi về yết kiến bậc Ðạo sư.
Lúc bấy
giờ Tỷ-kheo Kokàlika tức giận vì hai Trưởng lão không nhận vật cúng dường cho
phần mình mà cũng không đem cho vị này. Còn hai vị Trưởng lão, sau khi ở lại một thời
gian ngắn với bậc Ðạo sư, liền chọn năm trăm Tỷ-kheo làm đoàn tùy tùng cho mỗi vị, rồi
cùng cả ngàn Tỷ-kheo này du hóa khất thực đến tận xứ sở của Tỷ-kheo
Kokàlika.
Các cư
sĩ ra đường đón Tăng chúng và dẫn họ đến tinh xá trước kia, cùng bày
tỏ lòng ngưỡng mộ hàng ngày đối với các vị.
Dân
chúng cúng dường Tăng chúng cả kho lớn y phục và thuốc men. Các Tỷ-kheo đi khất thực cùng hai vị Trưởng
lão phân phát y phục cho tất cả các Tỷ kheo đã đến đây, song không chia cho
Kokàlika cái nào cả, và hai vị Trưởng lão cũng không cho ông chút gì. Kokàlika
không nhận được y phục nên bắt đầu phỉ báng mạ lỵ hai vị Trưởng lão:
-
Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên thật tràn đầy ác dục, trước kia đã không nhận các lễ vật cúng dường, nhưng
nay lại nhận hết. Chẳng có gì làm thỏa mãn hai vị này cả. Các vị không thương
tưởng đến kẻ khác.
Nhưng
hai vị Trưởng lão nhận thấy ông đang nuôi ác tâm đối với mình nên các vị cùng đám đồ chúng ra đi, các vị cũng
không muốn trở lại dù dân chúng van nài các vị hãy ở lại thêm vài ngày nữa. Lúc
ấy, một vị Tỷ-kheo trẻ hỏi:
- Hai
vị Trưởng lão sẽ không ở lại đâu, này các cư sĩ. Vị Tỷ-kheo khó tính của các ông
không muốn các ngài ở lại đây.
Sau đó, dân chúng đi đến gặp
Tỷ-kheo Kokàlika và hỏi:
- Thưa
Tôn giả, chúng con được nghe nói Tôn giả không muốn hai vị Trưởng lão ở lại đây. Xin hãy đi ngay, hoặc là khuyên giải
các ngài và đưa các ngài trở lại đây hoặc là Tôn giả cũng đi tìm chỗ khác mà ở.
Vì sợ
dân chúng, vị này đi thỉnh cầu các Trưởng lão. Các vị đáp:
-
Này Hiền hữu, hãy đi về! Chúng ta không
trở lại đâu.
Thế là
ông không thể thuyết phục hai vị, phải trở về tinh xá. Sau đó, các cư sĩ hỏi ông các
Trưởng lão có trở lại nữa không. Ông đáp:
- Ta
không thể thuyết phục các ngài trở lại được.
- Tại
sao không, thưa Tôn giả?
Và họ
bắt đầu suy nghĩ chắc hẳn không có thiện Tỷ-kheo nào muốn ở đó nữa, vì người này sống theo
tà hạnh; và họ phải tống xuất ông đi. Họ liền bảo:
- Thưa
Tôn giả, xin đừng lại ở đây, chúng con chẳng cung cấp gì cho Tôn giả nữa đâu.
Bị hội
chúng làm ô nhục như vậy, vị ấy cầm bình bát, đắp y và đi đến Kỳ Viên. Sau khi đảnh lễ bậc Ðạo sư, ông nói:
- Bạch
Thế Tôn, các Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên tràn đầy ác dục, hai vị đang có ác
dục chế ngự.
Bậc Ðạo
sư đáp:
- Này
Kokàlika, đừng nói vậy; này Kokàlika, ông hãy có từ tâm đối với Xá-lợi-phất và
Mục-kiền-liên, phải biết rằng đó là các thiện Tỷ-kheo.
Kokàlika
nói:
-
Bạch Thế Tôn, Thế Tôn tin tưởng hai vị Ðại đệ tử của Thế Tôn, còn con thấy tận mắt hai vịđang có ác dục, hai
vị có những việc riêng tư trong lòng, hai vị ấy là các ác nhân.
Người
ấy nói như vậy ba lần (mặc dù bậc Ðạo sư đã ngăn cản), rồi đứng dậy ra
đi. Ngay khi đang đi trên đường, khắp thân thể ông mọc lên các mụt nhọt
bằng hạt cải, sau lớn dần bằng hạt cây vilva chín muồi, vỡ ra, máu chảy khắp
người. Ông rên rỉ ngã xuống bên cổng ở tinh xá Kỳ Viên, đau đớn điên cuồng. Bỗng có
tiếng kêu lớn vang dội đến cõi trời Phạm thiên:
- Kokàlika đã phỉ báng hai vị Ðại đệ tử.
Rồi một
vị Phạm thiên tên là Tudu, biết được chuyện này, xuất hiện với ý định hòa giải các Tỷ-kheo, liền
bảo trong lúc đứng vững trên không:
- Này
Kokàlika, ông đã làm một việc ác, vậy hãy đi giảng hòa với hai vị Ðại đệ tử.
Người
ấy hỏi:
- Hiền
hữu là ai thế?
- Ta là
Phạm thiên Tudu. Vị thần kia đáp.
Người
này lại bảo:
- Ngài đã chẳng được đức Thế Tôn tuyên bố ngài
là một vị Bất Lai đó sao? Chữ ấy có nghĩa là một vị không trở lại đời này nữa. Ngài sẽ trở thành
một con quỷ trên đống phân đấy.
Ông lại
mạ lỵ vị Ðại Phạm thiên như vậy. Vì không thể thuyết phục người ấy theo lời
khuyên của mình, vị Phạm thiên đáp:
- Ông
sẽ bị hành hạ theo khẩu nghiệp của ông.
Sau đó, vị Thiên thần ấy trở về cõi
an lạc của ngài. Còn Kokàlika chết đi liền tái sinh vào địa ngục Hoa sen. Việc người
này được tái sinh tại đó được vị Ðại Phạm thiên chủ đầy oai thần Sahampati (Ta-bà
chủ) trình đức Như Lai và bậc Ðạo sư kể lại cho các Tỷ-kheo. Trong Chánh
pháp đường, Tăng chúng bàn luận về ác tâm của các người ấy:
- Này
Hiền hữu, Kokàlika đã phỉ báng Tôn giả Xá-lợi-phất và Tôn giả Mục-kiền-liên và
vì lời nói phát xuất từ chính miệng kia mà vị ấy đã đọa xuống Ðịa ngục Liên Hoa.
Bậc Ðạo
sư bước vào và hỏi:
- Này
các Tỷ-kheo, các ông đang nói chuyện gì trong lúc ngồi đây?
Tăng
chúng trình Ngài. Ngài bảo:
- Này
các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Kokàlika bị hủy hoại
vì chính khẩu nghiệp và bởi chính do miệng mình nên phải đày đọa khổ sở, mà trước kia cũng
vậy.
Rồi
Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Một
thuở nọ khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, vị Tế sư của vua có màu da ngăm
ngăm đen và mất hết cả hàm răng. Bà vợ của ông thông
gian với một vị Bà-la-môn khác. Vị sau này cũng giống như vị trước. Nhiều lần
vị Tế sư cố tìm cách ngăn cản vợ mình, nhưng không thể được. Rồi ông suy nghĩ: "Ðấy là kẻ thù của
ta, ta không thể chính tay giết được, mà ta phải lập mưu
kế giết nó đi".
Thế
là ông đến yết kiến vua và tâu:
-
Tâu Ðại vương, kinh thành của Ðại vương là kinh thành trọng yếu nhất trong toàn
cõi Diêm-phù-đề, Ðại vương là vị vua cao
trọng bậc nhất, nhưng dù Ðại vương là vị vua thủ lãnh, hoàng môn phía nam của
Ðại vương lại có điềm xấu, nó được xây
theo kiểu xui xẻo.
-
Ðược rồi, này quốc sư, ta phải làm gì?
-
Xin Ðại vương đem may mắn cho nó và
chỉnh trang nó.
-
Vậy phải làm gì đây?
-
Ta phải hạ cổng cũ xuống, lấy loại gỗ mới có dấu hiệu may mắn, lập tế đàn cúng các vị thần canh giữ hoàng thành rồi
xây hoàng môn theo cách kết hợp tốt lành của các vì sao.
-
Thế khanh hãy làm như vậy.
Vào
thời ấy, Bồ-tát là một trang nam tử tên là Takkàriya đang học tập với Tế sư này.
Bấy
giờ, vị Tế sư ra lệnh hạ cổng thành cũ xuống làm cổng mới cho sẵn sàng, khi đã xong xuôi, ông vào tâu trình vua:
-
Tâu Chúa thượng, cổng thành đã xong, ngày mai lại có
sự kết hợp tốt lành của các tinh tú; vậy trước khi ngày mai trôi qua hết, ta
phải làm tế lễ và dựng cổng thành mới.
-
Ðược rồi, này quốc sư, phải cần tế lễ như thế nào?
-
Tâu Chúa thượng, đại hoàng môn đang được các đại thần linh chiếm cứ và bảo vệ.
Vậy phải giết một Bà-la-môn có da ngăm ngăm đen và không có răng, thuần chủng cả hai bên cha mẹ, lấy máu thịt
vị đó đem ra tế lễ, thân thể đặt phía dưới, và cổng
dựng lên trên đó. Vị ấy sẽ đem lại vận
may cho Chúa thượng cùng cả kinh thành này.
-
Ðược lắm, này quốc sư, hãy tìm một Bà-la-môn như vậy mà giết đi rồi dựng hoàng môn lên trênđó.
Vị
Tế sư rất hoan hỷ. Ông bảo:
-
Ngày mai ta sẽ trừ khử được kẻ thù của ta rồi!
Lòng đầy hăng hái, ông trở về nhà, nhưng không thể
giữ yên cái lưỡi được, liền nói ngay với
vợ:
-
Này mụ già xấu xí kia, rồi mụ sẽ còn ai để hú hí nữa chứ? Ngày mai ta sẽ giết tình lang của mụ và đem tế lễ đấy!
-
Tại sao ông muốn giết người vô tội?
-
Ðức vua ra lệnh cho ta giết một người Bà-la-môn ngăm ngăm đen và dựng cổng thành lên ngườiđó. Còn tình
lang của mụ cũng ngăm ngăm đen nên ta định giết nó để tế lễ.
Bà
vợ liền gởi cho tình quân một lá thư nhắn nhủ: "Chúng bảo đức vua muốn giết một Bà-la-môn da ngăm ngăm đen để tế lễ; vậy nếu chàng muốn cứu lấy mạng
mình xin hãy lo đào tẩu kịp thời,đem
theo cả những người nào giống như chàng nữa".
Người
kia làm theo như vậy, tin đó lan khắp kinh thành,
và mọi người nào có màu da đen đều tẩu thoát cả.
Vị
tế sư không hề biết gì về việc kẻ thù đã chạy trốn, sáng hôm sau vào yết kiến vua thật sớm và tâu:
-
Tâu Chúa thượng, trong chỗ kia có một Bà-la-môn da ngăm ngăm đen, xin cho bắt nó lại.
Vua
bảo vài người đến tìm kẻ đó, nhưng họ chẳng thấy ai cả, liền trở về thông
báo cho vua rằng kẻ ấy đã trốn thoát rồi, vua phán:
-
Vậy hãy tìm nơi khác.
Họ
lục soát khắp kinh thành nhưng chẳng tìm được ai. Vua phán:
-
Phải kiếm thật nhanh lên.
Họ đáp:
-
Tâu Chúa thượng, ngoại trừ vị quốc sư, chẳng còn ai khác nữa.
Vua
phán:
-
Tế sư không thể đem ra giết được.
-
Tâu Chúa thượng, Chúa thượng đã phán bảo điều gì vậy? Theo lời tế sư này, nếu cổng thành không được dựng hôm nay, thì kinh thành sẽ gặp nguy
hiểm. Khi vị tế sư giải thích việc này, ông ta để ngày này trôi qua, thì giờ tốt không trở lại
nữa cho đến cuối năm. Kinh thành
này không có cổng suốt một năm ròng là cơ hội ngàn vàng để cho kẻ thù chúng ta. Chúng ta phải giết một
người nào đó, và làm tế lễ nhờ sự
trợ lực của một vị Bà-la-môn hiền trí rồi dựng cổng thành.
-
Nhưng có vị Bà-la-môn nào đủ tài trí như sư phụ ta
chăng?
-
Tâu Chúa thượng, có đồ đệ của vị ấy, một nam
tử tên là Takkàriya, xin hãy phong vị ấy làm tế sư và cử hành lễ cát tường này.
Vua
liền triệu vị nam tử ấy vào, ban cho chàng vinh hiển và phong chàng làm tế sư,
rồi ra lệnh làm mọi sự như đã nói.
Vị
nam tử ấy đi đến hoàng môn với một đám đông theo sau. Nhân danh hoàng đế, họ trói vị tế sư cũ và đem đến. Bậc Ðại sĩ bảo đào một cái hố, tại nơi
hoàng môn sắp được dựng lên, che một
cái lều trên đó, cùng với sư phụ bước
vào lều. Vị tế sư ấy nhìn cái hố, thấy không lối nào thoát, liền bảo bậc Ðại
sĩ:
-
Mục đích của ta đã thành đạt, ta thật là một kẻ ngu si, ta đã không biết giữ mồm giữ miệng cho yên, mà lại
hấp tấp nói với mụ đàn bà độc ác kia. Ta đã tự sát bằng chính binh khí của
ta.
Rồi
ông ngâm vần kệ đầu:
1. Ta nói điên cuồng tựa ễnh ương
Trong rừng gọi rắn: ngã nhào luôn
Vào trong hố, thật, Tak-ka hỡi,
Lời nói phi thời phải tiếc thương!
Trong rừng gọi rắn: ngã nhào luôn
Vào trong hố, thật, Tak-ka hỡi,
Lời nói phi thời phải tiếc thương!
Sau đó vị nam tử đáp lời ông và ngâm vần kệ này:
2. Người nói phi thời phải diệt vong
Như vầy, than khóc với đau buồn,
Xin thầy tự trách mình nay phải
Nhận lỗ đào này, ấy hố chôn.
Như vầy, than khóc với đau buồn,
Xin thầy tự trách mình nay phải
Nhận lỗ đào này, ấy hố chôn.
Cùng
với lời ấy, ngài nói thêm:
-
Thưa sư phụ, không phải chỉ mình sư phụ, mà nhiều người khác nữa, đã phải chịu khổ đau vì không biết phải giữ lời nói cho kỹ.
Nói
vậy xong, ngài kể một chuyện quá khứ để minh chứng điều đó.
*
Chuyện kỹ nữ Kàli
Chuyện
kể rằng ngày xưa tại Ba-la-nại, có một cô kỹ nữ sang trọng tên là Kàli, nàng có
một người anh tên là Tundila. Trong một ngày, Kàli có thể kiếm cả ngàn đồng tiền. Bấy giờ Tundila là một gã trác táng,
nghiện rượu, mê cờ bạc, hễ nàng cho gã tiền và gã có được bao nhiêu tiền đều phung phí hết. Nàng cố sức ngăn cản gã nhưng
không thể được.
Một
hôm gã thua bài súc sắc, phải mất ngay cả áo quần đang mặc trong mình. Gã vừa mang quanh mình một
tấm khố rách vừa đi đến nhà em gái. Nhưng
nàng đã ra lệnh cho các tỳ nữ rằng nếu Tundila có đến thì bọn họ không được cho gã cái gì cả mà phải lôi cổ gã quẳng ra
ngoài. Vì thế, họ đã làm đúng như vậy. Gã liền đứng lại bên thềm và kêu than.
Bấy
giờ, có con trai một phú thương nọ, thường vẫn cho Kàli cả ngàn đồng tiền, hôm ấy tình cờ gặp gã, liền hỏi:
-
Tại sao lại khóc lóc vậy, Tundila?
Gã đáp:
-
Thưa công tử, tôi đã thua bài súc sắc, đến cầu xin em tôi, bọn nữ tỳ lại nắm lấy cổ tôi
lôi ra ngoài.
-
Ðược rồi, cứ ở lại đây, ta sẽ nói chuyện
với em gái cậu.
Chàng
vào nhà bảo:
-
Anh của nàng đang đứng đợi kia, chỉ
mặc khố rách che thân, tại sao nàng không cho anh áo quần mặc?
Nàng đáp:
-
Ðúng vậy, thiếp chẳng muốn cho gì cả, nếu chàng thích anh ta thì chàng cho đi.
Bấy
giờ, trong ngôi nhà mang tai tiếng xấu xa kia, có tục lệ như vầy: "Cứ mỗi
một ngàn đồng tiền nhận được, thì
năm trăm đồng được dùng cho bọn nữ nhân, năm trăm đồng để mua sắm xiêm y, dầu
thơm và vòng hoa. Bọn khách làng chơi đến đây nhận áo quần mặc vào, ở lại đêm tại đó, rồi ngày hôm sau cởi áo quần ấy ra trả, mặc quần áo của mình
và ra đi. Trong dịp ấy, con trai vị phú thương mặc áo
quần mà bọn họ đưa cho chàng, và đem áo quần của chàng cho Tundila. Gã ấy mặc áo
quần vào, vừa la hét vừa chạy đến tửu quán.
Nhưng
nàng Kàli ra lệnh cho bọn nữ tỳ rằng khi chàng trai ra về ngày hôm sau, họ phải
lấy lại áo quần. Vì vậy, khi chàng bước ra, bọn họ chạy đến từ khắp nơi như bọn cướp, lột hết áo quần
trên thân của chàng đến trần như nhộng, rồi
bảo:
-
Này công tử, ra về đi!
Họ
tống khứ chàng ta như vậy. Chàng ra đi trần truồng, bị mọi người chế diễu. Chàng ta hổ thẹn than khóc:
-
Ðây chính là việc ta gây ra vì ta không giữ được mồm miệng!
Ðể
làm sáng tỏ vấn đề này, bậc Ðại sĩ ngâm
kệ thứ ba:
3. Tại sao lại hỏi chuyện Kà-li
Cư xử thế nào với Tuấn-di?
Gặp phải tay em chàng, hãy ngắm,
Áo quần ta đã biến bay đi,
Ta đành trần trụi, như tai vạ
Xảy với thầy, sao thật quái kỳ!
Cư xử thế nào với Tuấn-di?
Gặp phải tay em chàng, hãy ngắm,
Áo quần ta đã biến bay đi,
Ta đành trần trụi, như tai vạ
Xảy với thầy, sao thật quái kỳ!
*
Chuyện chim đuôi chĩa
Một
người khác lại kể chuyện này: Do sự bất cẩn của người chăn dê, hai con dê đực đánh nhau trên đồng cỏ ở Ba-la-nại. Trong lúc đang hăng máu, có
một chim đuôi chĩa nghĩ thầm: "Chúng sẽ vỡ đầu ra mà chết mất, ta phải
ngăn cản chúng mới được!" Thế là nó cố gắng ngăn cản bằng cách kêu la:
-
Chú ơi, đừng đánh nhau nữa!
Nó
chẳng nghe chúng nói gì đáp lại. Ngay giữa trận
đánh, nó nhảy lên lưng trước, rồi sau nhảy lên đầu, van xin chúng dừng lại nhưng chẳng được gì.
Cuối cùng, nó kêu to:
-
Thế thì cứ đánh nhau đi, nhưng giết
tôi trước đã!
Và
nó đứng chen vào giữa hai cái đầu dê. Chúng vẫn tiếp tục húc nhau văng ra xa.
Con chim bị nghiền nát như thể bởi cái chày, và chịu hủy hoại do chính hành động của nó.
Ðể
giải thích việc này, bậc Ðại Sĩ ngâm vần kệ thứ tư:
4. Chim đuôi chĩa vội đến bên sườn
Hai chú dê rừng lúc đả thương,
Dù chẳng dự phần trong trận đấu,
Hai đầu dê nghiến nát như tương
Ngay liền tại chỗ, như thầy vậy,
Số phận chim kỳ quái lạ thường!
Hai chú dê rừng lúc đả thương,
Dù chẳng dự phần trong trận đấu,
Hai đầu dê nghiến nát như tương
Ngay liền tại chỗ, như thầy vậy,
Số phận chim kỳ quái lạ thường!
*
Chuyện cây cọ dừa
Một
chuyện khác nữa: Gần một cây cọ dừa kia, bọn chăn bò cất giấu nhiều của cải.
Dân chúng Ba-la-nại thấy cây đó liền cho một người
leo lên cây hái quả. Trong lúc gã đang ném quả xuống thì một con rắn hổ đen bò ra từ một tổ kiến, bắt đầu leo lên cây, bọn người đứng phía dưới cố xua đuổi nó bằng gậy, đá..v.v.
nhưng không được, kêu la lớn gọi người kia:
-
Con rắn đang bò lên cây!
Gã
ấy kinh hoảng hét lớn. Những người đứng dưới lấy tấm vải thô cầm bốn góc, bảo gã kia ngã vào tấm vải.
Gã gieo mình xuống, rơi vào chính lòng tấm vải giữa bốn người kia nhanh như
gió, khiến bọn người ấy không giữ gã được phải đập đầu vào nhau mà chết.
Ðể
giải thích việc này, bậc Ðại sĩ ngâm vần kệ thứ năm:
5. Bốn người muốn cứu mạng anh chàng,
Bốn góc cầm chung một tấm màn,
Bọn chúng vỡ đầu ra chết tiệt,
Như thầy, thật quái lạ kinh hoàng!
Bốn góc cầm chung một tấm màn,
Bọn chúng vỡ đầu ra chết tiệt,
Như thầy, thật quái lạ kinh hoàng!
*
Chuyện con Dê cái
Ðám
người khác lại kể chuyện này: Một bọn ăn trộm dê sống ở Ba-la-nại, một đêm kia bắt được một con dê cái, định làm một bữa chè chén trong rừng. Ðể dê khỏi kêu, chúng bịt
mõm mó và cột nó vào một bụi tre. Hôm sau, khi chúng đến giết con dê, chúng quên mất con dao phay.
Chúng
bảo nhau:
-
Này, ta hãy giết dê rồi nấu. Hãy đem con dao phay ra đây!
Nhưng
chẳng ai có dao.
-
Nếu không có dao thì ta không thể nào ăn thịt nó được, dù ta có giết chết nó. Thôi thả nó ra. Việc này
cũng do phước phần nào đó của con dê đây!
Vì
thế, chúng thả dê ra. Bấy giờ, tình cờ có người thợ tre đến trước đó lấy một bó tre, gã để quên một con dao của người đan rổ, giấu dưới đám lá, định khi trở về sẽ lấy
dùng. Nhưng con dê tưởng mình đã thoát thân, nên bắt đầu vui chơi nhảy nhót dưới bụi tre, lấy chân
sau đánh đá làm sao mà con dao rớt ra! Ðám ăn trộm nghe tiếng dao rớt, chạy đến nơi thấy việc như vậy, vô
cùng mừng rỡ, thế rồi chúng giết dê ăn thịt.
Như
vậy để giải thích việc con dê đã tự giết mình bằng chính hành động của nó như thế nào, bậc Ðại sĩ ngâm vần kệ
thứ sáu:
6. Dê cái cột trong bụi trúc dày
Nhảy quanh, tìm thấy một dao phay,
Cổ dê, chúng cắt bằng dao ấy,
Kỳ quái, dê kia giống hệt thầy!
Nhảy quanh, tìm thấy một dao phay,
Cổ dê, chúng cắt bằng dao ấy,
Kỳ quái, dê kia giống hệt thầy!
Sau
khi kể chuyện này, ngài giải thích:
-
Song còn những kẻ dè dặt trong lời nói, biết giữ gìn ngôn ngữ, thường thoát
khỏi số phận chết chóc đau thương.
Rồi
ngài kể một chuyện thần tiên của loài Kinnara (Khẩn-na-la: các ca thần của
Sakka Thiên chủ).
*
Chuyện Ðôi Ca thần
Chuyện
kể rằng, một thợ săn sống ở Ba-la-nại, một bữa nọ vào vùng Tuyết Sơn bằng cách
nào đó đã bắt được một cặp tiên núi, gồm một tiên nữ và lang quân của nàng, rồi đem về dâng vua. Vua chưa bao giờ thấy loài hữu
tình này cả. Vua hỏi:
-
Này thợ săn, chúng là loài gì?
-
Tâu Chúa thượng, chúng có thể hát êm tai và nhảy múa rất đẹp mắt, không có con người nào có thể ca múa
hay bằng chúng được.
Vua
ban thưởng gã thợ săn ấy rất hậu hỉ, rồi ra lệnh cho đôi tiên ca múa. Song hai
vị nghĩ: "Nếu chúng ta không diễn tả đầy đủ ý nghĩa bài ca, thì bài ca sẽ thất bại, hội chúng sẽ mạ lỵ
và làm thương tổn chúng ta; và hơn nữa, người nào nói nhiều thường hay nói
dối". Vì thế, sợ phải dối trá này kia, hai vị không múa hát dù vua nài nỉ
thế nào cũng mặc. Cuối cùng, vua nổi cơn thịnh nộ và bảo: - Hãy giết bọn này đem nấu và dâng cho ta dùng.
Vua
ban lệnh này qua vần kệ thứ bảy:
7. Bọn này đây chẳng phải là tiên,
Cũng chẳng nhạc thần của cõi Thiên,
Là thú do người kia dẫn đến
Vì mong kiếm một túi đầy tiền
Vậy bây hãy nấu, ta dùng tối
Một đứa, rồi mai một đứa liền!
Cũng chẳng nhạc thần của cõi Thiên,
Là thú do người kia dẫn đến
Vì mong kiếm một túi đầy tiền
Vậy bây hãy nấu, ta dùng tối
Một đứa, rồi mai một đứa liền!
Lúc
ấy tiên nữ nghĩ thầm: "Bây giờ vua nổi giận, chắc chắn ngài sẽ giết chúng
ta. Vậy đây là lúc nên
nói", và lập tức nàng ngâm vần kệ:
8. Mười vạn khúc ca biểu diễn lầm
Chẳng bằng một mảy khúc kỳ âm,
Hát tồi có tội, nên tiên chúng
Chẳng dám làm, không bởi hận tâm.
Chẳng bằng một mảy khúc kỳ âm,
Hát tồi có tội, nên tiên chúng
Chẳng dám làm, không bởi hận tâm.
Vua
rất hoan hỷ vì tiên nữ, lập tức đáp vần kệ:
9. Hãy để nàng đi,
bởi nói rồi,
Cho nàng thấy lại Tuyết Sơn thôi,
Song bây hãy bắt chàng kia giết,
Bảo nấu, ta dùng bữa sáng mai!
Cho nàng thấy lại Tuyết Sơn thôi,
Song bây hãy bắt chàng kia giết,
Bảo nấu, ta dùng bữa sáng mai!
Trong
lúc vị tiên kia suy nghĩ: "Nếu ta giữ yên mồm, chắc chắn vua sẽ giết ta,
vậy đây là lúc phải nói". Và chàng ngâm vần kệ
nữa:
10. Trâu bò trông cậy đám mây trời,
Trông cậy bò trâu, ấy mọi người,
Còn phận tôi nương nhờ Chúa thượng,
Hiền thê này lại dựa vào tôi,
Xin ngài đoán số phần chàng nọ
Trước lúc chàng quay lại núi đồi!
Trông cậy bò trâu, ấy mọi người,
Còn phận tôi nương nhờ Chúa thượng,
Hiền thê này lại dựa vào tôi,
Xin ngài đoán số phần chàng nọ
Trước lúc chàng quay lại núi đồi!
Khi
chàng đã nói lời này xong, chàng ngâm hai vần kệ nữa, để nói rõ cho vua rằng hai vị yên lặng không
phải vì không muốn tuân lệnh vua, song vì hai vị nghĩ rằng nói là sai lầm:
11. Khác người, khác cách, tấu Minh quân,
Tránh lỗi cho mình thật khó khăn,
Ðiều được kẻ này khen tốt đẹp,
Kẻ kia lại thấy đó sai lầm.
12. Có người cho tất cả điên cuồng
Tưởng tượng mỗi người vẫn khác luôn,
Thật khác, nhiều người nên lắm ý,
Ý người chẳng có luật thông thường.
Tránh lỗi cho mình thật khó khăn,
Ðiều được kẻ này khen tốt đẹp,
Kẻ kia lại thấy đó sai lầm.
12. Có người cho tất cả điên cuồng
Tưởng tượng mỗi người vẫn khác luôn,
Thật khác, nhiều người nên lắm ý,
Ý người chẳng có luật thông thường.
Vua
phán:
-
Chàng ta nói đúng sự thật, đó quả là
một vị tiên khôn ngoan.
Vì
thế vua rất hoan hỷ, ngâm vần kệ cuối cùng:
13. Ðôi vợ chồng tiên giữ lặng thinh,
Nay chàng cất tiếng bởi hồn kinh,
Bình an, hạnh phúc, tha chàng bước,
Nay chàng cất tiếng bởi hồn kinh,
Bình an, hạnh phúc, tha chàng bước,
Vẫn
biết lời hay tạo phước lành.
Sau đó, vua đặt đôi tiên núi vào chiếc lồng vàng,
truyền đưa người thợ săn vào,
bảo gã thả hai vị ra ở nơi trước kia gã đã bắt.
Bậc
Ðại sĩ nói thêm:
-
Này sư phụ, đôi tiên núi biết phòng
hộ lời nói như trên, và nhờ nói đúng thời nên được thả tự do vì nói năng khéo léo; còn thầy do
nói năng sai lạc mà phải chịu đại họa.
Rồi
sau khi so sánh cho vị tế sư thấy rõ như thế, ngài an ủi ông:
-
Xin sư phụ đừng sợ, con sẽ cứu mạng
sư phụ.
-
Còn có cách nào chăng? - Vị kia hỏi: - Làm thế nào con cứu ta được nữa?
Ngài đáp:
-
Vì chưa đến đúng lúc các hành
tinh gặp gỡ.
Ngài để cho ngày ấy trôi qua, vào canh giữa đêm (canh ba), liền đem đến đó một con dê đã chết và nói:
-
Xin thầy muốn đi đâu thì đi mà sinh sống.
Rồi
ngài thả cho ông đi ngay, chẳng hề có ai
hay biết gì cả. Còn ngài làm tế lễ với thịt dê ấy, xong dựng cổng thành trên đó.
*
Khi
bậc Ðại sư đã chấm dứt Pháp thoại,
Ngài bảo:
- Này
các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Kokàlika bị hủy hoại
vì chính lời nói của mình, mà ngày xưa cũng thế nữa.
Sau đó, Ngài nhận diện Tiền thân:
- Vào
thời ấy Kokàlika là người tế sư da ngăm ngăm đen, còn Ta là hiền giả
Takkàriya.
-ooOoo-
482.
Chuyện lộc vương (Tiền thân Ruru)
Thần
tâu Hoàng thượng biết tin nai..,
Chuyện
này bậc Ðạo sư kể trong lúc trú tại Trúc Lâm về Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa).
Có
người bảo vị ấy:
- Bậc
Ðạo sư đem lại thật nhiều lợi ích cho hiền hữu, này hiền hữu
Ðề-bà-đạt-đa. Hiền hữu đã thọ Ðại giới từ đức Như Lai, Hiền hữu đã học
với ngài Tam Tạng Kinh điển, Hiền hữu đã nhậnđược nhiều lợi dưỡng và danh vọng.
Khi
những điều như vậy được nói, người ta thường nghe thuật lại một
cách đáng tin cậy là vị ấy sẽ trả lời:
- Không đâu hiền hữu, bậc Ðạo sư chẳng làm gì lợi lạc cho
ta dù chỉ bằng một cọng cỏ. Ta đã thọ Ðại giới của chính ta, ta tự học Tam Tạng
kinh điển, ta nhận được lợi dưỡng và danh vọng do từ bản thân ta
chứ không nhờ ai cả.
Trong
Chánh pháp đường, Tăng chúng nói về việc này:
-
Ðề-bà-đạt-đa thật là vong ân bội nghĩa, này Hiền hữu, và lại quên cả thân tình.
Bậc
Ðạo sư bước vào và muốn biết Tăng chúng đang bàn luận gì khi ngồi đó. Các vị trình với Ngài. Ngài bảo:
- Này
các Tỷ-kheo, nay không phải là lần đầu Ðề-bà-đạt-đa vong ân bội nghĩa, mà trước kia kẻ
ấy đã vô ơn. Thuở xưa, nó đã được Ta cứu mạng, nhưng nó
không biết công đức to lớn của Ta.
Nói vậy
xong, Ngài kể một câu chuyện quá khứ.
*
Một
thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, một vị đại phú thương có tài sản tám trăm triệu, chỉ
sinh được một con trai, đặt tên là Mahà-dhanaka hay Ðại phú ông.
Nhưng
ông không dạy cho con việc gì cả, ông bảo:
-
Con trai ta sẽ thấy việc học làm mệt mỏi tấm thân mà thôi.
Ngoài
việc múa ca, ăn uống, tiệc tùng cậu
trai chẳng biết việc gì cả. Khi cậu khôn lớn, cha mẹ cậu cưới cho cậu một cô
gái xứng đôi với cậu, rồi cả hai
vị qua đời. Sau khi song thân mất đi, cậu bị đám người chơi bời, phóng đãng,
rượu chè, cờ bạc vây quanh nên đã tiêu hết tài sản một
cách hoang phí. Lúc đó cậu phải vay tiền rồi
không trả lại nổi, bị chủ nợ thúc đòi. Cuối cùng cậu nghĩ: "Ðời ta còn
nghĩa lý gì với ta nữa? Ta đang bị biến đổi thành
một con người khác rồi, thà chết sướng hơn". Sau đó cậu bảo đám chủ nợ.
-
Hãy đem các giấy nợ đến đây, ta có cả một gia bảo
chôn ở bờ sông Hằng, các ông sẽ được phần đó.
Họ
cùng đi với cậu. Cậu làm như thể chỉ chỗ đây đó là nơi chôn gia sản (song lúc đó cậu có ý định nhảy xuống sông trầm mình) và
cuối cùng cậu ta nhảy xuống sông Hằng. Trong lúc nước cuốn xoáy cậu đi ra, cậu kêu to lên đầy kinh hoảng.
Lúc
bấy giờ, bậc Ðại sĩ sinh làm một con Nai chúa và sau khi rời đàn, hiện đang trú ẩn tại một khúc sông, chỉ riêng mình Nai trong khóm cây
Sà-la chen lẫn đám xoài trổ hoa rất đẹp. Lớp da trên mình Nai có màu vàng óng ả láng
mượt, bàn chân trước và bàn chân sau đỏ như thể nhuộm son, cái đuôi giống như cái đuôi bò rừng, cặp
sừng như hình xoắn ốc bằng bạc, đôi mắt Nai tựa hồ đôi
hạt minh châu lóng lánh, khi Nai quay mồm về hướng nào thì trông chẳng khác quả
cầu bằng vải đỏ. Vào khoảng nửa đêm, Nai nghe tiếng kêu thê thảm ấy, liền nghĩ
thầm: "Ta nghe tiếng người kêu. Trong lúc ta đang sống đây, nó chẳng phải chết! Ta sẽ cứu
mạng nó".
Vừa
rời khỏi chỗ ẩn nấp trong bụi cây, ngài bước xuống bờ sông và gọi to bằng giọng
nói an ủi:
-
Này người kia, đừng sợ, ta sẽ cứu anh
sống.
Rồi
Nai rẽ dòng nước, mang cậu lên bờ đến tận nơi nai trú ẩn. Suốt hai ba ngày liền, Nai săn sóc và cho
cậu ăn trái cây rừng. Sau đó, Nai bảo cậu:
-
Này người kia, ta sẽ mang anh ra khỏi rừng và đặt anh trên đường cái đến Ba-la-nại, anh sẽ về bình an. Song ta yêu cầu anh đừng bị lòng tham tiền bạc lôi kéo mà báo cho
vua, hay một người quyền thế nào đó biết là trong chỗ kia một con Nai vàng óng cần phải bắt đấy.
Người
kia hứa giữ lời và bậc Ðại sĩ, sau khi được hứa rồi, liền để cậu trên lưng và đưa ra đường cái hướng về thành Ba-la-nại rồi
trở về đường cũ.
Vào
ngày cậu ta đi về thành Ba-la-nại,
bà hoàng hậu mệnh danh Khemà (Thái Hòa) nằm mộng về sáng thấy một con Nai màu
hoàng kim thuyết pháp cho bà, nên bà suy nghĩ: "Nếu không có một Nai thần
như thế này thì chắc hẳn ta đã không nằm mộng thấy
ngài. Hẳn nhiên phải có một vị như vậy, nên ta muốn thông báo việc này với đức vua".
Sau đó, bà đến yết kiến vua và thưa:
-
Tâu Ðại vương, thần thiếp đang mong mỏi được nghe
bài thuyết Pháp của một con Nai hoàng kim. Nếu làm được việc ấy, thiếp mới sống, nếu không, thiếp
chẳng thiết sống nữa.
Vua
an ủi bà và bảo:
-
Nếu có một con vật như thế sống trong cõi trần gian này thì ái khanh sẽ toại
nguyện.
Rồi
vua triệu các Bà-la-môn vào và hỏi:
-
Có loài vật nào như loài Nai hoàng kim chăng?
-
Tâu Chúa thượng, có.
Vua
liền đặt một túi tiền mười ngàn đồng đựng bên trong một cái hộp bằng vàng lên
lưng một con voi đã được trang điểm thật lộng lẫy: "Bất kỳ ai
được tin về một con Nai hoàng kim thì vua sẽ chấp thuận trao cho người đó túi tiền mười ngàn đồng tiền vàng này cùng chiếc hộp bằng vàng và
cả con voi ấy nữa hoặc một con khác tốt đẹp hơn". Vua ra lệnh khắc một vần kệ trên một phiến vàng,
giao cho một viên quan trong triều và bảo vị ấy nhân danh vua hát vần kệ ấy lên
giữa dân chúng toàn thành. Sau đó, vua ngâm vần kệ đầu
trong chuyện Tiền thân này:
1. Ai mang tin báo trẫm về Nai,
Tối thượng Lộc vương của cả loài?
Ai được trẫm ban phần thưởng quý:
Ngôi làng tuyệt hảo, gái xinh tươi?
Tối thượng Lộc vương của cả loài?
Ai được trẫm ban phần thưởng quý:
Ngôi làng tuyệt hảo, gái xinh tươi?
Viên
triều thần mang phiến vàng ấy đi, công bố khắp kinh
thành. Vừa lúc ấy, con trai của vị phú thương đi vào Ba-la-nại, khi nghe lời công bố ấy, cậu đến gần viên quan và nói:
-
Tiểu sinh có thể đưa tin về một con nai
như vậy, các ngài hãy dẫn tiểu sinh vào yết kiến đức vua.
Viên
quan liền xuống voi, dẫn cậu vào yết kiến vua và tâu:
-
Tâu Chúa thượng, người này có thể đưa tin tức trình Chúa thượng về con Nai kia.
Vua
phán:
-
Có đúng như vậy chăng, người kia?
Cậu đáp:
-
Tâu Ðại vương, quả đúng như vậy, xin Ðại vương cho tiểu thần vinh dự đó.
Và
cậu ngâm vần kệ thứ hai:
2. Thần tâu Hoàng thượng biết tin Nai,
Tối thượng Lộc vương của cả loài,
Xin Ðại vương ban phần thưởng quí:
Ngôi làng tuyệt hảo, gái xinh tươi!
Tối thượng Lộc vương của cả loài,
Xin Ðại vương ban phần thưởng quí:
Ngôi làng tuyệt hảo, gái xinh tươi!
Vua
rất hoan hỷ khi nghe những lời này của tên phản bạn:
-
Này mau lên! - Vua phán: - Phải tìm con Nai này ở đâu thế?
Gã đáp:
-
Tâu Chúa thượng, ở chỗ như vầy.
Và
gã chỉ rõ đường đi. Cùng một đoàn tùy tùng đông đảo, vua ra lệnh tên phản bội dẫn ngài đến nơi ấy, rồi gã bảo:
-
Xin ra lệnh cho đoàn quân sĩ dừng lại.
Khi
quân sĩ đã được lệnh dừng, gã chỉ tay nói tiếp:
-
Nơi có con Nai vàng ánh ở chốn đằng xa xa kia kìa.
Và
gã ngâm vần kệ thứ ba:
3. Bụi cây xoài ở phía đàng xa,
Cùng đám Sà-la nở rộ hoa,
Ðất tựa yên chi màu đỏ thắm,
Nai này có thể được tìm ra.
Cùng đám Sà-la nở rộ hoa,
Ðất tựa yên chi màu đỏ thắm,
Nai này có thể được tìm ra.
Khi
vua nghe những lời này, ngài bảo các cận thần:
-
Ðừng để Nai chạy thoát, mà phải lập tức bủa vây quanh
bụi cây này, còn binh sĩ cầm binh khí trong tay.
Họ
làm theo lệnh ấy và đồng thanh la lớn. Vua
cùng một số người khác đứng riêng ra, song gã đó cũng không đứng xa mấy. Bậc Ðại sĩ nghe tiếng kêu ấy, nghĩ thầm: "Ðây
là tiếng thét của mộtđoàn người đông đảo, vậy ta phải đề
phòng họ mới được".
Ngài đứng lên và khi nhìn cả một đoàn người, ngài nhận thấy nơi vua đứng. "Nơi nào vua đứng", ngài nghĩ thầm, "ta sẽ được bình an, vậy ta phải đến đó". Rồi ngài chạy về phía vua. Khi vua
thấy ngài chạy đến, liền bảo:
-
Một con vật mạnh như voi có thể quật mọi thứ trên đường đi của nó. Ta muốn giương cung lên dọa con
nai này. Nếu nó chạy, ta sẽ bắn cho nó yếu đi rồi ta mới bắt nó được.
Sau đó vua giương cung lên ngay trước mặt Bồ-tát.
Ðể
giải thích việc này, bậc Ðạo sư ngâm đôi vần kệ:
4. Nai tiến lên: cung đã được giương,
Mũi tên nằm ở sợi dây trương
Ðằng xa, vì vậy Nai kêu lớn
Ngay lúc Nai nhìn thấy Ðại vương:
5. Ðại vương, Chúa tể của vương xa,
Xin đứng yên và chớ bắn ta,
Ai đã mang tin Hoàng thượng biết
Nơi này, Nai sẽ được tìm ra?
Mũi tên nằm ở sợi dây trương
Ðằng xa, vì vậy Nai kêu lớn
Ngay lúc Nai nhìn thấy Ðại vương:
5. Ðại vương, Chúa tể của vương xa,
Xin đứng yên và chớ bắn ta,
Ai đã mang tin Hoàng thượng biết
Nơi này, Nai sẽ được tìm ra?
Vua
say mê giọng ngọt như mật của ngài, liền thả cung đứng yên chiêm ngưỡng ngài. Lúc ấy bậc Ðại sĩ
bước lên chỗ vua, vừa nói chuyện vui vẻ với vua và đứng một bên. Cả đám tùy tùng cũng hạ binh khí xuống, bước lên vây
quanh vua. Vào lúc ấy, bậc Ðại sĩ hỏi vua với giọng êm ái như tiếng chuông vàng
rung nhè nhẹ:
-
Ai đem tin đến cho ngài rằng nơi đây sẽ tìm được Nai vàng?
Vừa
lúc ấy, con người gian ác kia bước lại gần và đứng nghe lỏm. Vua chỉ gã và nói:
-
Ðó là người báo tin cho trẫm.
Rồi
vua ngâm vần kệ thứ sáu:
6. Kẻ ác kia, bằng hữu của ta,
Con người đang đứng ở đằng xa,
Mang tin, nó đã cho ta biết
Rằng ở đây Nai được thấy mà.
Con người đang đứng ở đằng xa,
Mang tin, nó đã cho ta biết
Rằng ở đây Nai được thấy mà.
Nghe
vậy, bậc Ðại sĩ trách mắng người bạn phản bội kia, và ngâm vần kệ thứ bảy nói
với vua:
- 7. Nhiều người ở cõi thế gian này,
Tục ngữ thường hay nói đúng thay:
"Thà vớt gỗ trôi sông còn tốt,
Hơn là cứu một kẻ như mầy!".
Tục ngữ thường hay nói đúng thay:
"Thà vớt gỗ trôi sông còn tốt,
Hơn là cứu một kẻ như mầy!".
Khi
vua nghe lời kệ này, liền ngâm vần kệ khác:
8. Muốn trách người có thể hỏi Nai?
Là chim, là thú hoặc là ai?
Lòng ta đầy nỗi lo vô hạn
Khi tiếng Nai nghe giống tiếng người!
Là chim, là thú hoặc là ai?
Lòng ta đầy nỗi lo vô hạn
Khi tiếng Nai nghe giống tiếng người!
Ðến đây, bậc Ðại sĩ đáp lại:
-
Tâu Ðại vương, ta không trách một thú vật hay chim chóc nào cả, mà ta trách một
người.
Ðể
giải thích việc này, ngài ngâm vần kệ thứ chín:
9. Ta cứu gã kia, đã một lần
Khi gần như gã phải chìm dần
Trên dòng chảy xiết dìm thân gã,
Vì đó, nay đành phải khổ thân;
Ngài cứ đi cùng phường độc ác,
Ngày sau chắc chắn sẽ ăn năn.
Khi gần như gã phải chìm dần
Trên dòng chảy xiết dìm thân gã,
Vì đó, nay đành phải khổ thân;
Ngài cứ đi cùng phường độc ác,
Ngày sau chắc chắn sẽ ăn năn.
Khi
vua nghe vậy liền nổi giận lôi đình với gã kia. Vua
phán:
-
Sao? Ngươi không nhìn nhận công đức của ngài sau một
việc cứu vớt đầy nhân từ như vậy ư?
Ta muốn bắn chết gã kia ngay.
Vua
liền ngâm vần kệ thứ mười:
10. Ta sẽ đâm tên bốn cánh này
Xuyên vào tim nó, bỏ thân ngay!
Ác nhân này đã đầy tâm phản
Chẳng đội ơn sâu cứu giúp vầy!
Xuyên vào tim nó, bỏ thân ngay!
Ác nhân này đã đầy tâm phản
Chẳng đội ơn sâu cứu giúp vầy!
Lúc
ấy, bậc Ðại sĩ suy nghĩ: "Ta không muốn nó chết vì ta", nên ngài ngâm
vần kệ thứ mười một:
11. Người ngu đáng thẹn, tấu Minh quân,
Song việc giết người, bậc thiện nhân,
Chẳng tán thành, xin tha kẻ khốn,
Và ban cho gã thưởng toàn phần
Những gì ngài hứa, còn ta sẽ
Phục vụ Quân vương những lúc cần.
Song việc giết người, bậc thiện nhân,
Chẳng tán thành, xin tha kẻ khốn,
Và ban cho gã thưởng toàn phần
Những gì ngài hứa, còn ta sẽ
Phục vụ Quân vương những lúc cần.
Vua
hoan hỷ khi nghe lời này nên ngâm vần kệ tiếp để tán thán ngài:
12. Nai này quả thật có lòng nhân,
Không trả hận sân với hận sân,
Tống gã hèn ngay! Ta thưởng nó
Làm tròn lời hứa đã từng ban
Còn Nai đi đến nơi tùy ý,
Xin chúc ngài luôn được vạn an!
Không trả hận sân với hận sân,
Tống gã hèn ngay! Ta thưởng nó
Làm tròn lời hứa đã từng ban
Còn Nai đi đến nơi tùy ý,
Xin chúc ngài luôn được vạn an!
Nghe
lời này, bậc Ðại sĩ đáp:
-
Tâu Ðại vương, người ta có thể miệng nói một đường mà làm một nẻo.
Và
ngài ngâm hai vần kệ để giải thích điều đó:
13. Tiếng loài sơn cẩu, tiếng chim muông,
Thường cũng dễ dàng được cảm thông,
Còn tiếng người đời, tuy rõ thế,
Vô cùng khó hiểu, tấu Quân vương!
14. Con người thường nghĩ: "Bạn thân mình,
Quyến thuộc là đây, bạn chí tình".
Tuy thế, tình thân thường biến mất,
Oán thù, căm hận lại dần sinh.
Thường cũng dễ dàng được cảm thông,
Còn tiếng người đời, tuy rõ thế,
Vô cùng khó hiểu, tấu Quân vương!
14. Con người thường nghĩ: "Bạn thân mình,
Quyến thuộc là đây, bạn chí tình".
Tuy thế, tình thân thường biến mất,
Oán thù, căm hận lại dần sinh.
Khi
vua nghe lời này, ngài đáp:
-
Này Lộc vương! xin đừng nghĩ rằng ta thuộc
loại người như vậy. Vì ta quyết sẽ không chối từđặc ân mà ta đã ban cho ngài, dù ta có mất cả quốc độ vì chuyện đó. Hãy tin tưởng vào ta.
Rồi
vua cho ngài chọn điều ước.
Bậc
Ðại sĩ nhận đặc ân này và ước mong
rằng tất cả các loài vật từ chính ngài trở đi đều được bình an thoát khỏi mọi tai họa. Vua thuận cho ngài điều ước ấy, rồi đem ngài về thành Ba-la-nại và
sau khi trang hoàng cả kinh thành lộng lẫy, lại tô điểm luôn cả bậc Ðại sĩ nữa, vua mời ngài thuyết Pháp cho bà
chánh hậu, sau đó là vua và triều đình nghe bằng thứ tiếng của loài người ngọt
ngào như mật. Ngài khuyến giáo vua hành trì Thập vương pháp (mười đức tính của vị minh quân) và khích lệ hội chúng đông đảo ấy xong, liền trở về chốn núi rừng, nơi
ngài sống chung với bầy nai.
Vua
ra lệnh đánh trống khắp kinh
thành cùng lời loan báo:
-
Hoàng thượng bảo vệ mọi loài thú vật.
Từ đó về sau, không ai dám giơ tay giết hại thú vật
hay chim muông cả.
Nhưng
nhiều đàn nai phá hoại mùa màng của người và không ai đủ sức xua đuổi chúng đi. Một đám đông tụ tập
trước sân chầu, kêu than với vua.
Ðể
làm sáng tỏ việc này, bậc Ðạo sư ngâm vần kệ sau:
15. Dân thành thị theo với tiện dân,
Ðều đi thẳng đến tấu vương quân:
"Ðàn nai ăn hết mùa màng cả,
Chúa thượng, việc này phải cản ngăn".
Ðều đi thẳng đến tấu vương quân:
"Ðàn nai ăn hết mùa màng cả,
Chúa thượng, việc này phải cản ngăn".
Nghe
vậy, vua ngâm đôi vần kệ:
16. Dân chúng dù mong muốn hoặc không,
Ví dù đất nước trẫm tiêu vong,
Trẫm không thể hại đàn nai được,
Trẫm hứa cho nai sống vẹn toàn.
17. Thần dân có thể bỏ rơi ta,
Hủy bỏ vương quyền của thế gia,
Lời ước ta đà ban Lộc chúa
Ta không hề chối bỏ đâu mà.
Ví dù đất nước trẫm tiêu vong,
Trẫm không thể hại đàn nai được,
Trẫm hứa cho nai sống vẹn toàn.
17. Thần dân có thể bỏ rơi ta,
Hủy bỏ vương quyền của thế gia,
Lời ước ta đà ban Lộc chúa
Ta không hề chối bỏ đâu mà.
Dân
chúng nghe lời vua phán bảo, thấy mình không thể nói gì được nữa, đành ra về. Lời vua phán lan ra khắp
nơi, bậc Ðại sĩ nghe được tin ấy, liền tập
hợp cả đàn nai lại, và ra lệnh cho chúng:
-
Từ nay về sau, các con không được phá hoại mùa màng
của loài người nữa.
Ngài đã gởi thông báo cho dân chúng hay rằng mỗi
người phải dựng một tấm bảng hiệu lên vùngđất của mình.
Dân
chúng làm theo, và nhờ dấu hiệu ấy, cho đến nay, loài nai không phá hoại mùa màng nữa.
*
Khi bậc
Ðạo sư đã chấm dứt Pháp thoại này, Ngài bảo:
- Này
các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Ðề-bạt-đạt-đa vong ân
bội nghĩa.
Rồi
Ngài nhận diện Tiền thân:
- Vào
thời ấy, Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) là con trai nhà phú thương, Ànanda (A-nan) là
vua, và Ta chính là Nai chúa.
-ooOoo-
483.
Chuyện Chúa Nai Sarabha (Tiền thân Sarabha-Miga)
Cứ hy
vọng, người ơi, là bậc trí..,
Chuyện
này bậc Ðạo sư kể trong khi trú tại Kỳ Viên để giải thích đầy đủ một câu
hỏi do Ngài nêu ra một cách tổng quát cho vị Tướng quân Chánh pháp (Sàriputta).
Vào
thời ấy, bậc Ðạo sư nêu vắn tắt câu hỏi với Trưởng lão ấy. Ðây là câu chuyện đầy đủ chi tiết về nguồn gốc của một số chư
Thiên. Khi Tôn giả Pindola-Bhàradvàja dùng thần thông để lấy được cái bình bát bằng gỗ Chiên-đàn trước
sự hiện diện của vị Ðại phú thương ở thành Ràjagaha (Vương Xá), bậc Ðạo sư cấm
các Tỷ-kheo sử dụng thần thông lực.
Lúc ấy,
các Tỷ-kheo ly khai Giáo hội suy nghĩ: "Sa-môn Gotama đã cấm sử dụng thần thông lực.
Nay chính vị ấy cũng sẽ không sử dụng thần thông lực nữa". Ðám đệ tử của các vị ly khai Giáo
hội lo lắng, nói với họ:
- Tại
sao các Tôn giả không dùng thần thông lực lấy cái bát kia?
Họ đáp:
- Này
Hiền hữu, việc này không khó gì đối với chúng ta. Song chúng ta nghĩ: Ai lại muốn
thị hiện thần thông cao quý vi diệu của mình trước người thế tục chỉ vì cái
bình bát bằng gỗ nhỏ mọn kia chứ? Do thế, chúng ta không lấy nó xuống. Các
Sa-môn dòng họ Thích-ca đã lấy nó xuống và thị hiện thần thông chỉ vì tham lam ngu
xuẩn mà thôi. Ðừng tưởng biến hóa thần thông là việc khó khăn gì với chúng ta đâu: giả sử ta đừng kể đến các
đệ tử của Sa-môn Gotama, nếu chúng ta muốn, chúng ta sẽ biến hóa thần thông với
chính Sa-môn Gotama nữa kia. Nếu Sa-môn Gotama thị hiện một phép thần thông,
thì chúng ta sẽ thị hiện một phép khác kỳ diệu gấp hai lần.
Tăng
chúng nghe chuyện này liền thưa với đức Thế Tôn:
- Bạch
Thế Tôn, các Tỷ-kheo ly khai Giáo hội nói họ muốn thị hiện thần thông lực.
Bậc Ðạo
sư bảo:
- Cứ để họ làm đi, Ta cũng sẽ làm việc ấy.
Vua
Bimbisàra (Tần-bà-sa-la) nghe vậy, đi đến hỏi đức Thế Tôn:
- Bạch Thế
Tôn, Ngài định thị hiện thần thông lực chăng?
- Thưa
Ðại vương, phải.
- Bạch
Thế Tôn, chẳng phải là có lệnh cấm về vấn đề này rồi sao?
- Thưa
Ðại vương, lệnh ấy dành cho các đệ tử của ta, chớ không có lệnh nào có thể ngăn
cản chư Phật cả. Cũng như hoa quả trong vườn ngự uyển là của cấm đối với kẻ khác chứ không hề áp
dụng luật này đối với Ðại vương.
- Bạch
Thế Tôn, vậy Ngài sẽ thị hiện phép thần thông ở nơi đâu?
- Tại
Xá-vệ, dưới một cây xoài có "cục u".
- Vậy
trẫm sẽ làm gì lúc đó?
- Thưa
Ðại vương, chẳng cần làm gì cả.
Ngày kế đó, sau khi điểm tâm xong, bậc Ðại sư đi khất thực.
- Bậc
Ðạo sư đi đâu thế? Dân chúng hỏi.
Các
Tỷ-kheo đáp lại:
- Ở
cổng thành Xá-vệ, dưới một gốc cây xoài có cục u, Ngài sẽ thị hiện một phép
Thần thông Song hành (Yamaka Patihariya: các tia sáng xanh và đỏ phát ra từ thân Ngài) để đánh bại những kẻ ly khai
Giáo hội.
Ðám
người ấy nói:
- Phép
thần thông này sẽ là tuyệt tác, nên chúng ta muốn đi xem.
Sau khi
rời nhà, dân chúng đi theo bậc Ðạo sư, và vài kẻ ly khai Giáo hội cũng đi theo Ngài cùng với đám đệ tử của họ.
Họ nói:
- Chúng
ta sẽ thị hiện một phép thần thông ở nơi mà Sa-môn Gotama sắp thị hiện phép
thần thông của mình.
Dần
dần, bậc Ðạo sư đi đến Xá-vệ. Vua hỏi Ngài:
- Bạch
Thế Tôn, có đúng là Ngài sắp thị hiện thần thông lực như chúng đồn chăng?
- Quả đúng vậy. Ngài đáp.
- Khi
nào? Vua hỏi.
- Ngày
thứ bảy kể từ đây, vào đúng rằm tháng sáu trăng tròn.
- Bạch
Thế Tôn, thế trẫm có cần dựng lên một ngôi đình chăng?
- Thưa
Ðại vương, cứ an tâm, ở ngay nơi mà Ta sắp thị hiện thần thông. Sakka (Ðế
Thích) Thiên chủ sẽ dựng lên một ngôi đình bằng châu ngọc có chu vi mười hai dặm.
- Bạch
Thế Tôn, trẫm có cần loan báo việc này khắp kinh thành chăng?
- Ðại
vương cứ loan báo.
Vua
liền đặt người thông tin Chánh pháp này trên một con voi được trang hoàng thật lộng lẫy, đi công bố như sau:
- Hãy
nghe tin này! Bậc Ðạo sư sắp thị hiện bằng thần thông để đánh bại những kẻ ly khai
Giáo hội, trước cổng thành Xá-vệ, dưới gốc cây xoài-có-cục-u trong bảy ngày nữa
kể từ ngày hôm nay!
Cứ mỗi
ngày họ lại báo tin này. Khi đám người ly khai nghe tin rằng phép lạ sẽ được
thị hiện dưới một gốc cây xoài-có-cục-u, họ liền ra lệnh chặt hết mọi cây xoài
gần thành Xá-vệ, rồi đền tiền bạc cho các chủ vườn xoài.
Vào đêm trăng tròn, người thông tin
Chánh pháp ấy công bố:
- Hôm
nay vào buổi sáng, phép thần kỳ sẽ xuất hiện.
Nhờ oai
lực của chư Thiên, người người khắp cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ), dường như đều ra đứng ở cửa và nghe tin
loan báo ấy. Bất cứ người nào trong lòng có ý muốn đi xem, đều thấy mình đến tại Xá-vệ ấy: dân chúng
chiếm khoảng mười hai dặm.
Từ sáng
sớm, bậc Ðạo sư đi khất thực. Viên quan giữ vườn ngự uyển, tên Ganda hay
"Cục U", sắp đem đi dâng vua một trái xoài chín trông thật đẹp, lớn bằng cái giạ đựng lúa,
vừa độ chín muồi, thì ông thấy bậc Ðạo sư tại cổng thành, liền bảo:
- Trái
xoài này thật xứng đáng với bậc Ðạo sư.
Rồi ông
dâng xoài lên Ngài. Bậc Ðạo sư cầm lấy ngồi xuống một bên cổng, dùng trái xoài.
Khi đã thọ thực xong, Ngài bảo:
- Này
Ànanda, đưa cho người giữ vườn hột xoài này để trồng ngay chỗ này, nó sẽ
thành cây xoài có cục u.
Tôn giả
tuân lệnh. Người giữ vườn đào một lỗ dưới đất, trồng hột xoài ấy. Trong
chốc lát, hạt xoài nứt ra, rễ đâm ra và nhú lên một mầm đỏ cao bằng cái chày, ngay khi đám đông đang trố mắt nhìn, nó
lớn dần thành một cây xoài cao cả trăm cubit (1 cubit = 45cm) với thân cây cao
năm mươi cubit, các cành lá cũng cao năm mươi cubit, cùng lúc hoa nở rộ, trái
chín dần, cây vẫnđứng choáng rợp cả bầu trời có đàn ong vây quanh cành sai nặng
trĩu quả vàng óng. Khi có làn gió thổi, trái ngọt rơi xuống, các Tỷ-kheo đến lượm lấy xoài, ăn xong ra về. Vào buổi chiều,
Thiên chủ Sakka (Ðế Thích) suy xét, nhận thấy mình có bổn phận dựng lên một
ngôi đình gồm bảy báu vật, chu vi rộng mười hai dặm che kín mọi
nơi bằng hoa sen xanh. Như vậy, chư Thiên của mười ngàn thế giới tụ tập lại đây.
Sau khi đã thị hiện phép thần thông vô
cùng kỳ diệu trước các đệ tử của Ngài để đánh bại đám người ly khai Giáo hội, bậc Ðạo sư làm phát khởi lòng tin
trong các hội chúng xong, Ngài đứng lên, ngự trên bảo tọa dành cho đức Phật và thuyết Pháp. Hàng
trăm triệu chúng sinh uống được nguồn nước trường sinh; sau đó Ngài nhận định để biết rõ chư Phật quá
khứ đi về đâu sau khi đã thực hiện một phép thần thông, và nhận
thấy chính là về cõi trời Ba mươi ba, Ngài liền rời khỏi bảo tọa, chân phải
Ngài đặt lên đỉnh Yugandhara, chân trái Ngài bước qua đỉnh Sineru (Tu-di), Ngài bắt đầu an cư vào mùa mưa dưới cây
Ðại San hô, an tọa trên chiếc ngai hoàng thạch, và suốt thời gian ba tháng,
Ngài thuyết Thắng pháp (Abhidhamma) siêu phàm cho chư Thiên.
Dân
chúng không biết bậc Ðạo sư đi đâu, họ nhìn nhau bảo:
- Thôi
ta về nhà và an trú tại nơi đó, suốt mùa mưa.
Khi mùa
an cư trai giới gần chấm dứt, ngày đại lễ Tự Tứ cận kề, Ðại Trưởng lão Moggallàna
(Mục-kiền-liên) đi thông báo với đức Thế Tôn.
Ngài
hỏi:
-
Sàriputta (Xá-lợi-phất) nay ở đâu?
- Bạch
Thế Tôn, sau khi phép thần thông làm cho Tôn giả hoan hỷ, vị ấy đã ở lại cùng năm trăm vị
Tỷ-kheo trong kinh thành Samkassa, và vẫn còn an trú tại đó.
- Này
Moggallàna, vào ngày thứ bảy kể từ hôm nay, ta sẽ xuống hạ giới bằng cổng thành
Samkassa. Vậy kẻ nào muốn chiêm ngưỡng Như Lai hãy tụ tập tại thành Samkassa.
Trưởng
lão này đồng ý đi báo cho dân chúng hay: Tôn giả mang toàn thể hội
chúng từ Xá-vệ đến Samkassa cách xa nhau cả ba mươi dặm chỉ trong chớp mắt.
Khi mùa
an cư trai giới qua rồi, đại lễ Tự tứ đã được cử hành xong, bậc Ðạo sư bảo Sakka Thiên chủ
rằng Ngài sắp trở về cõi nhân thế. Sau đó, Thiên chủ cho triệu Thần
xây dựng Vissakamma vào và bảo:
- Hãy
làm một cầu thang để đấng Thập Lực bước xuống cõi trần.
Vị
này đặt cầu thang trên đỉnh Sineru, chân nằm trên cổng thành Samkassa;
ở giữa, vị ấy làm ba bậc thang liền nhau, một bậc bằng ngọc, một bậc bằng bạc,
và một bậc bằng vàng, còn lan can và mái làm bằng bảy báu vật.
Sau khi
bậc Ðạo sư thị hiện thần thông để cứu độ cõi thế gian, Ngài bước xuống bậc thang
chính giữa làm bằng ngọc. Thiên chủ Sakka cầm chiếc bình bát và chiếc y, Suỳama
cầm cái quạt bằngđuôi trâu rừng (Yak), Phạm thiên chủ mang chiếc lọng và chư
Thiên trong mười ngàn thế giớiđồng chiêm bái Ngài với các vòng hoa trời và các
hương liệu.
Khi bậc
Ðạo sư đã đứng ở chân cầu thang, vị đệ nhất trưởng lão Sàriputta đảnh lễ Ngài, sau đó là toàn thể hội chúng. Ở
giữa hội chúng này, bậc Ðạo sư suy nghĩ: "Moggallàna đã chứng tỏ đầy đủ thần thông lực, Upàli là
người tinh thông Giới luật của bậc Thánh, song đặc tính đại trí tuệ của
Sàriputta lại chưa được dịp tỏ bày. Trừ một mình ta, chẳng ai đạt trí tuệ đầy đủ trọn vẹn như
vậy, nên ta muốn tỏ bày năng lực trí tuệ của vị này cho hội chúng biết
rõ".
Trước
tiên Ngài đặt câu hỏi thông thường cho đám người phàm phu không biết gì
cả. Cùng cách ấy, Ngài lần lượt đặt câu hỏi vừa tầm hiểu biết của những vị Nhất
Lai, Bất Lai và các vị A-la-hán, các Thánh đệ tử, trong từng trường hợp;
những vị nào dưới cấp bậc ấy lần lượt không trả lờiđược, chỉ những vị ở trên
cấp bậc ấy mới có thể trả lời. Sau đó, Ngài đặt câu hỏi trong khả năng hiểu
biết của Tôn giả Sàriputta thì chỉ Trưởng lão này trả lời được, còn các vị khác không
thể. Dân chúng hỏi nhau:
- Vị
Trưởng lão trả lời bậc Ðạo sư là ai thế?
Họ được bảo đó là vị Tướng quân
Chánh pháp tên gọi Sàriputta.
- Ôi!
Trí tuệ của ngài thật cao cả thay! Họ bảo nhau.
Từ đó về sau, đặc tính đại trí tuệ
của Trưởng lão này vang dội khắp loài người và chư Thiên.
Lúc ấy
bậc Ðạo sư nói với vị này:
Người này thử thách phải đi qua,
Kẻ khác đạt rồi mục đích xa,
Tư cách khác nhau đều hiển lộ,
Vì ông biết rõ hết kia mà.
Kẻ khác đạt rồi mục đích xa,
Tư cách khác nhau đều hiển lộ,
Vì ông biết rõ hết kia mà.
Như
vậy, sau khi hỏi một câu thuộc phạm vi hiểu biết của một vị Phật, Ngài thêm:
-
Ðây là vấn đề được đặt ra tổng quát
sơ lược, còn đâu là ý nghĩa của vấn đề trong mọi phương diện?
Vị
Trưởng lão xem xét vấn đề. Vị ấy suy nghĩ: "Bậc Ðạo sư hỏi về đường lối tu tập thích hợp cho
Tăng chúng tinh tấn tăng trưởng, cả những người mới đạt được những quả vị thấp,
lẫn những bậc Thánh A-la-hán đó chăng?" Về vấn đề tổng quát, Tôn giả này
không có điều gì nghi hoặc. Nhưng rồi Tôn giả suy xét: "Ðường lối
tu tập thích hợp có thể được diễn tả bằng nhiều cách nói theo ngũ uẩn trong mỗi vị
hữu tình, khởi đầu là như vậy, song bây giờ làm sao ta có đáp đúng ý nghĩa của bậc Ðạo sư?". Tôn giả hoài
nghi về ý nghĩa ấy.
Bậc Ðạo
sư nghĩ thầm: "Sàriputta không hoài nghi gì về vấn đề tổng quát, song còn nghi
hoặc về khía cạnh đặc biệt gì của vấn đề mà Ta đang xem xét. Nếu Ta không đưa
ra lời gợi ý hướng dẫn thì ông ấy không thể nào giải đáp được. Vậy ta phải gợi ý cho
ông ấy". Rồi Ngài đưa lời gợi ý bằng cách hỏi:
-
Này Sàriputta, ông có chấp nhận điều này là đúng chăng (Ngài nói một vấn đề nào đó).
Tôn giả
Sàriputta chấp nhận vấn đề ấy.
Gợi ý
như vậy xong, Ngài biết Tôn giả Sàriputta đã nắm vững ý nghĩa của Ngài,
và sẽ giải đáp đầy đủ bắt đầu từ ngũ uẩn trong mỗi vị hữu tình. Sau đó, vấn đề hiện ra rõ ràng
trước mắt vị Trưởng lão như có cả trăm ngàn lời gợi ý, ồ không, cả ngàn lời nữa,
và theo lời hướng dẫn củađức Phật, Tôn giả giải đáp vấn đề kia thuộc về tri
kiến Phật.
Bậc
Ðạo sư thuyết Pháp cho cả hội chúng khắp cả mười hai dặm: ba trăm triệu vị hữu
tình uốngđược nguồn nước trường sinh.
Khi hội
chúng ra về, bậc Ðạo sư lại du hành khất thực, dần dần đến Xá-vệ. Ngày hôm sau, khi đã khất thực tại Xá-vệ xong,
Ngài trở về và dạy bảo các Tỷ-kheo giữ phận sự của mình rồi bước vào Hương
phòng. Về buổi tối, các Tỷ-kheo bàn luận đến đức tính cao cả của Trưởng
lão Sàriputta, trong lúc Tăng chúng ngồi tại Chánh pháp đường:
- Này
các Hiền giả, Tôn giả Sàriputta thật là bậc đại trí tuệ, Tôn giả có trí tuệ
quảng bác, trí tuệ mẫn tiệp, trí tuệ tinh xảo, trí tuệ linh lợi. Bậc Ðạo sư đặt câu hỏi tổng quát, Tôn giả
đã trả lời thậtđầy đủ sâu rộng.
Bậc Ðạo
sư bước vào hỏi Tăng chúng đang bàn luận gì trong lúc ngồi đó, các vị trình với Ngài, Ngài
bảo:
- Này
các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu vị ấy trả lời rộng rãi một
vấn đề được nêu tổng quát, mà ngày xưa cũng đã làm như vậy.
Và Ngài
kể câu chuyện quá khứ.
*
Một
thời, khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm một con Nai sống trong rừng. Bấy
giờ, vua thích săn bắn, và vua lại là một người đầy uy lực, ngài cho rằng không có ai xứng danh
con người cả.
Một
ngày kia, lúc ngài đi săn, ngài bảo đám cận thần:
-
Hễ ai để thoát một con nai vì mình thì sẽ bị trừng
phạt như vầy như vầy..
Bọn
họ suy nghĩ: "Người ta có thể đứng trong nhà mà không tìm thấy vựa lúa. Khi một con nai bị vây
bắt bằng cái móc hay gậy cong, ta phải lùa nó đến nơi đức vua đứng".
Bọn
họ liền giao ước với nhau để thực hiện điều này,
và sắp đặt vua đứng ở cuối
đường. Sau đó, họ vây quanh một hang lớn và bắt đầu lấy dùi cui gậy gộc đập lên mặt đất. Con vật đầu tiên bị vây bắt chính là Nai vàng. Ba lần Nai
nhìn quanh bụi cây tìm cơ hội trốn thoát. Khắp nơi, Nai thấy người ta đứng chật ních chen tay, cung kề cung, chỉ có
nơi vua đứng là Nai thấy may ra còn có dịp. Với đôi mắt chiếu sáng lòa, Nai vụt đến phía vua làm chói mắt vua như thể tung cát
bụi vàođôi mắt ấy. Lập tức vua thấy Nai, bắn tên ngay và hụt mất.
Ta
phải biết rằng loài nai rất thông minh tránh được các mũi tên. Khi các mũi tên vụt thẳng vào chúng, chúng đứng yên để tên bay đi, nếu tên vụt tới phía
sau, nai sẽ vụt chạy nhanh hơn; nếu tên bay xuống từ phía trên chúng cong lưng
lại, nếu từ phía suờn, nai nghiêng mình một tí; nếu tên nhắm vào bụng, nai lăn
một vòng; khi tên đã lướt qua rồi thì Nai
vụt nhanh như bay gió cuốn. Vì vậy, khi vua thấy Nai lăn qua, tưởng Nai đã bị
thương, liền kêu lên một tiếng "ô này!".
Nai
vùng đứng dậy, vụt nhanh như gió, phá được vòng vây
của đám người kia. Các triều thần ở cả hai phía nhìn
thấy con nai chạy thoát, liền tụ tập lại với nhau và hỏi:
-
Nai tiến về chỗ của ai thế?
-
Chỗ của Chúa thượng.
-
Song Chúa thượng đã la lớn: Ta bắn được nai rồi kia mà! Vậy Chúa thượng bắn được cái gì? Tôi dám chắc với quí vị, Chúa
thượng bắn hụt rồi! Chúa thượng bắn mặt đất đấy!
Như
vậy, hội chúng chế nhạo vua không ngớt. Vua nghĩ thầm: "Bọn này đang chế nhạo ta, chúng không biết tay ta".
Rồi khi nai nịt thắt lưng, vua đi bộ, cầm kiếm trong tay, vừa đi thật nhanh vừa
la to:
-
Ta sẽ đi bắt Nai!
Vua
nhìn sát theo Nai và đuổi Nai chừng ba dặm.
Nai tiến sâu vào rừng, vua cũng tiến theo. Lúc bấy giờ trên đường Nai đi, có một cái hố thật lớn với một cây
đã mục nát, sâu chừng sáu mươi cubit, đám cỏ dại mọc che phía trên. Nai ngửi được mùi nước, thấy đó là cái hố, nên nghiêng mình qua một bên tránh đường. Song vua cứ đi thẳng lên nên ngã vào hố.
Nai không còn nghe tiếng chân vua nữa, liền quay lại. Thấy không có ai, Nai
biết là vua hẳn đã rơi xuống hố. Vì thế,
Nai đến nhìn vào, thấy vua trong tình cảnh nguy
khốn, vùng vẫy trong nước sâu. Song Nai khôngđể lòng oán hận đối với việc ác mà vua đã làm, còn thương hại nghĩ thầm: "Không được để vua này chết trước mắt ta, ta sẽ cứu vua
qua khỏi cơn hoạn nạn này".
Vừa đứng trên miệng hố, Nai vừa kêu lớn:
-
Này Ðại vương đừng sợ, vì ta sẽ cứu
thoát ngài khỏi cảnh hiểm nghèo này.
Rồi
dùng hết sức lực, sốt sắng thiết tha như thể cứu lấy đứa con yêu quý của mình, Nai đỡ vua lên dốc đá, chính vua kia đã đuổi theo Nai để giết hại đó, Nai kéo vua ra
khỏi hố sâu sáu mươi cubit, và nói lời an ủi vua rồi đặt vua lên chính lưng mình, mang vua ra khỏi
rừng, để vua xuống không xa đám quân sĩ mấy. Sau đó,
Nai thuyết giáo cho vua và an trú vua vào Ngũ giới. Tuy nhiên, vua không thể
rời bậc Ðại sĩ được, mà bảo:
-
Tâu Lộc vương Chúa thượng, xin hãy cùng ta đến Ba-la-nại, vì ta muốn nhường ngôi cho ngài tại Ba-la-nại, một
kinh thành trải rộng kháp mười hai dặm để ngài ngự trị toàn quốc độ ấy.
Song
ngài đáp:
-
Thưa Ðại vương, ta là thú vật, ta không muốn chiếm vương quốc nào cả. Nếu ngài
có lòng thương mến ta, xin hãy giữ Ngũ giới mà ta đã dạy ngài, rồi ngài dạy cho đám quần thần của ngài cũng giữ giới nữa.
Cùng
với lời khuyên này, ngài trở về rừng. Còn vua đến gặp lại quân sĩ, và trong khi hồi tưởng
những đức tính cao thượng của Nai kia, mắt vua đẫm lệ.
Vừa được đám binh sĩ hộ tống, vua ngự khắp kinh thành trong hồi trống ban lệnh
vua vang rền, truyền rao lời bố cáo này:
-
Từ nay về sau, dân chúng toàn thành hãy giữ Ngũ giới.
Song
vua không nói với ai về lòng nhân từ mà bậc Ðại sĩ đã ban cho ngài. Sau khi dùng xong các món cao
lương mỹ vị về buổi chiều tối, vua an nghỉ trên vương sàn lộng lẫy và sáng sớm
hôm sau, vua nhớ lại những đức tính cao thượng của
bậc Ðại sĩ, ngài liền trở dậy và ngồi chéo chân trên
vương tọa, tâm tràn đầy hân hoan, ngài cất
tiếng ca lên nguyện vọng của ngài qua sáu vần kệ:
1. Cứ hy vọng, người ơi, là bậc trí,
Xin hãy đừng nản chí hoặc sờn lòng,
Chính ta nay thành đạt đích hằng mong.
2. Ta thấy rõ, người ơi, là bậc trí,
Cứ hy vọng, dù buồn, đừng nản chí,
Chính ta đây chiến đấu tiến vào bờ.
3. Vượt trùng dương, ta thấy rõ, bây giờ,
Cố gắng mãi, người ơi, là bậc trí,
Xin hãy chớ nản lòng hay nhụt chí,
Chính ta nay thành đạt đích ước nguyền.
4. Ta thấy nay, người hỡi, gắng sức lên,
Nếu người trí, dù buồn phiền đau khổ,
Ðừng chán nản, chính ta đây nhìn rõ,
Ta đã từng chiến đấu vượt trùng dương.
5. Bậc trí nhân dù tràn ngập đau thương,
Niềm hy vọng an vui không hề tắt,
Nhiều tình cảm, khổ đau cùng an lạc:
Các ngài không nghĩ đến chúng làm chi,
Song lên đường cho đến lúc chết đi.
6. Việc xảy ra, ta đều không ngờ tới,
Việc ta tính lại thường hay thất bại,
Vì chỉ riêng phần ý tưởng mà thôi
Chẳng lợi cho niềm hạnh phúc người đời.
Xin hãy đừng nản chí hoặc sờn lòng,
Chính ta nay thành đạt đích hằng mong.
2. Ta thấy rõ, người ơi, là bậc trí,
Cứ hy vọng, dù buồn, đừng nản chí,
Chính ta đây chiến đấu tiến vào bờ.
3. Vượt trùng dương, ta thấy rõ, bây giờ,
Cố gắng mãi, người ơi, là bậc trí,
Xin hãy chớ nản lòng hay nhụt chí,
Chính ta nay thành đạt đích ước nguyền.
4. Ta thấy nay, người hỡi, gắng sức lên,
Nếu người trí, dù buồn phiền đau khổ,
Ðừng chán nản, chính ta đây nhìn rõ,
Ta đã từng chiến đấu vượt trùng dương.
5. Bậc trí nhân dù tràn ngập đau thương,
Niềm hy vọng an vui không hề tắt,
Nhiều tình cảm, khổ đau cùng an lạc:
Các ngài không nghĩ đến chúng làm chi,
Song lên đường cho đến lúc chết đi.
6. Việc xảy ra, ta đều không ngờ tới,
Việc ta tính lại thường hay thất bại,
Vì chỉ riêng phần ý tưởng mà thôi
Chẳng lợi cho niềm hạnh phúc người đời.
Trong
lúc vua đang ca khúc hát này,
mặt trời cũng vừa lên. Còn vị tế sư của ngài cũng dậy sớm vào vấn an sức khỏe
của ngài. Lúc đang đứng ở cửa, vị này
nghe tiếng ca ấy, nghĩ thầm: "Hôm qua đức vua đi săn. Chắc ngài đã hụt mất con Nai và khi bị quần thần chế nhạo, ngài phán rằng
ngài sẽ đích thân đuổi bắt con
mồi và giết đi. Sau đó, hẳn ngài săn
đuổi theo Nai, vì bị lòng kiêu mạn của một chiến sĩ thúc đẩy, nên bị rơi vào cái hố sâu sáu mươi cubit.
Rồi Nai có từ tâm chắc hẳn đã kéo ngài lên mà không
hề có chút ý nghĩ gì đến tội ác của đức vua
đối với mình. Chắc vì thế nên đức vua hát lên khúc
tụng ca này đây".
Như
vậy, vị Bà-la-môn này nghe hết mọi lời ca của khúc hát kia, và những việc gì đã xảy ra giữa vua với Nai đều rõ ràng như một khuôn mặt phản chiếu trong
chiếc gương được lau chùi thật kỹ.
Ông lấy đầu ngón tay gõ nhẹ lên
cửa. Vua hỏi:
-
Ai đó?
-
Tâu Chúa thượng, chính hạ thần là tế sư đây.
-
Này Sư trưởng, cứ vào đi.
Vua
bảo rồi mở cửa. Vị ấy bước vào, tung hô vạn tuế đức vua, và đứng sang một bên. Sau đó, ông thưa:
-
Tâu Ðại vương, hạ thần biết những việc đã xảy ra với Ðại vương ở trong rừng. Trong lúc đuổi theo con Nai, Ðại vương rớt vào hố và con Nai dựa vào sườn đá bên hố mà kéo Ðại vương lên. Vì vậy, Ðại
vương nhớ lại đặc tính cao cả của Nai
và hát một bài tụng ca.
Rồi
ông ngâm hai vần kệ:
7. Bên sườn non nọ có con Nai,
Trước đó là con thịt của ngài,
Dũng cảm Nai ban ngài cuộc sống,
Vì ly tham hận hết trong đời.
8. Khỏi hố đáng kinh, vuốt tử thần,
Dựa vào tảng đá bạn-khi-cần,
Chúa Nai cứu mạng nên ngài bảo:
Trí tuệ Nai vàng vượt hận sân.
Trước đó là con thịt của ngài,
Dũng cảm Nai ban ngài cuộc sống,
Vì ly tham hận hết trong đời.
8. Khỏi hố đáng kinh, vuốt tử thần,
Dựa vào tảng đá bạn-khi-cần,
Chúa Nai cứu mạng nên ngài bảo:
Trí tuệ Nai vàng vượt hận sân.
"Ô
kìa!" Vua suy nghĩ khi nghe lời trên: "Người này không cùng đi săn với ta, tuy thế, lại biết hết mọi sự. Làm
sao lại biết được thế? Ta muốn hỏi vị
ấy". Và vua ngâm vần kệ thứ chín:
9. Ðạo sĩ, hôm kia có mặt chăng?
Hoặc nghe từ một kẻ bàng nhân?
Tấm màn tham dục ngài đã vén,
Trí tuệ ngài làm trẫm hãi hùng!
Hoặc nghe từ một kẻ bàng nhân?
Tấm màn tham dục ngài đã vén,
Trí tuệ ngài làm trẫm hãi hùng!
Song
vị Bà-la-môn đáp:
-
Hạ thần không phải là một vị Phật toàn tri đâu, hạ thần chỉ nghe lóm khúc tụng ca của Ðại vương vừa hát đó thôi, mà không bỏ sót ý nghĩa, nên mọi việc
trở nên rõ ràng trước mắt hạ thần.
Ðể
giải thích điều này, ông ngâm vần
kệ thứ mười:
10. Tâu Chúa công! Việc ấy, thần chẳng nghe,
Không vào rừng để chứng kiến ngày kia,
Song từ khúc kệ ngài ca êm dịu,
Việc ra sao, trí nhân đà thấu hiểu.
Không vào rừng để chứng kiến ngày kia,
Song từ khúc kệ ngài ca êm dịu,
Việc ra sao, trí nhân đà thấu hiểu.
Vua
rất hoan hỷ nên ban thưởng ông một tặng phẩm quí giá.
Từ đó về sau, vua chuyên tâm bố thí và làm các
thiện sự, dân chúng cũng đem hết lòng làm thiện
sự, nên khi mạng chung được sinh lên cùng Thiên
chúng thật đông đảo.
Lúc
bấy giờ, vua đi vào thượng uyển cùng
với vị tế sư để bắn bia. Thời ấy
Sakka (Ðế Thích) Thiên chủ đang suy gẫm xem cả đám
tiên đồng ngọc nữ kia mới từ đâu đến mà ngài thấy
thậtđông đảo chung quanh ngài như thế. Khi xét kỹ, ngài chợt hiểu toàn câu
chuyện: Vua đã được Nai cứu thoát khỏi cái hố như thế nào, vua đã được an trú vào giới đức, và nhờ uy lực của vua ra sao mà dân chúng đã làm nhiều thiện sự nên Thiên giới trở thành đông đúc như thế, và nay vua lại vào ngự uyển để bắn một cái bia.
Vì
thế, Thiên chủ cũng đến nơi đó, với giọng sư
tử hống, ngài tuyên thuyết tính cao thượng của Nai, và bảo cho biết chính ngài
là Sakka Thiên chủ, rồi đứng vững trên không mà
thuyết Pháp nêu rõ công đức của lòng từ bi và
Ngũ giới, xong ngài trở về. Bấy giờ, vua dự định bắn bia, giương chiếc cung và lắp mũi tên vào dây. Ngay lúc
ấy, Sakka Thiên chủ dùng thần lực hóa hiện ra con Nai đứng giữa vua và tấm bia, vua thấy vậy không bắn
tên nữa. Lúc ấy, Thiên chủ nhập vào thân của vị tế sư ngâm kệ này cho vua nghe:
11. Tên ngài giết lắm vật oai hùng,
Sao lại cầm tên lặng giữa cung?
Hãy bắn tên bay vào lộc ấy,
Ðó là ngự thiện, tấu Minh vương!
Sao lại cầm tên lặng giữa cung?
Hãy bắn tên bay vào lộc ấy,
Ðó là ngự thiện, tấu Minh vương!
Vua đáp lại qua vần kệ:
12. Tế sư, trẫm thấu suốt hơn ngài:
Trẫm biết dâng vua chính thịt nai,
Song trẫm nhớ ơn đà cứu giúp,
Trẫm dừng tay chẳng hại đời ai.
Trẫm biết dâng vua chính thịt nai,
Song trẫm nhớ ơn đà cứu giúp,
Trẫm dừng tay chẳng hại đời ai.
Sau đó, Sakka Thiên chủ ngâm đôi vần kệ:
13. Chẳng phải là Nai, tấu Ðại vương,
Mà đây là một Tu-la-thần,
Ngài là chúa tể nơi trần thế,
Giết nó, ngài lên đấng Ngọc hoàng!
14. Nếu ngài do dự, tấu Anh quân,
Khi giết Nai vì chính bạn thân,
Sẽ vào sông lạnh Diêm vương phủ,
Cùng vợ con ngài xuống cõi âm.
Mà đây là một Tu-la-thần,
Ngài là chúa tể nơi trần thế,
Giết nó, ngài lên đấng Ngọc hoàng!
14. Nếu ngài do dự, tấu Anh quân,
Khi giết Nai vì chính bạn thân,
Sẽ vào sông lạnh Diêm vương phủ,
Cùng vợ con ngài xuống cõi âm.
Nghe
thế vua liền ngâm hai vần kệ:
15. Cứ vậy Diêm vương với tử hà,
Ðưa ta đến đủ cả toàn gia,
Cùng thân bằng nữa, ta không thể
Tự giết Nai bằng tay của ta.
16. Ðầy rẫy rừng sâu nỗi hãi hùng,
Chính Nai đã cứu khỏi tai ương,
Sao ta muốn vị ban ân chết,
Sau việc thi ân ấy đã mang?
Ðưa ta đến đủ cả toàn gia,
Cùng thân bằng nữa, ta không thể
Tự giết Nai bằng tay của ta.
16. Ðầy rẫy rừng sâu nỗi hãi hùng,
Chính Nai đã cứu khỏi tai ương,
Sao ta muốn vị ban ân chết,
Sau việc thi ân ấy đã mang?
Lúc
ấy, Thiên chủ Sakka xuất ra khỏi thân của vị tế sư, mang lấy đúng hình dáng của ngài và hiệnđứng vững trên
không, ngâm hai vần kệ nêu rõ đức tính cao thượng của
vua:
17. Thiện hữu muôn năm ở cõi trần!
Dạy đời lương thiện, lý toàn chân,
Rồi Thiên nữ sẽ theo hầu hạ
Ngài chính In-dra giữa các thần.
18. Thoát dục, tâm mình mãi trú an,
Khi nhiều người lạ đến kêu van,
Hãy cho chúng những gì cần thiết,
Vì Ðại vương đầy đủ khả năng,
Hãy sống phân minh không phạm lỗi,
Ngày sau Thiên giới sẽ dành phần.
Dạy đời lương thiện, lý toàn chân,
Rồi Thiên nữ sẽ theo hầu hạ
Ngài chính In-dra giữa các thần.
18. Thoát dục, tâm mình mãi trú an,
Khi nhiều người lạ đến kêu van,
Hãy cho chúng những gì cần thiết,
Vì Ðại vương đầy đủ khả năng,
Hãy sống phân minh không phạm lỗi,
Ngày sau Thiên giới sẽ dành phần.
Nói
vậy xong, Thiên chủ tiếp tục như sau:
-
Ta đến đây để thử ngài, này Ðại vương, và ngài đã không đồng ý với ta. Ta xin ngài hãy gắng tinh cần mãi.
Cùng
với lời khuyên này, ngài trở về cõi của mình.
*
Khi bậc
Ðạo sư đã chấm dứt Pháp thoại, Ngài bảo:
- Này
các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu tiên Sàriputta hiểu đầy đủ những điều được nói tổng
quát, mà ngày xưa cũng vậy.
Rồi
Ngài nhận diện Tiền thân:
- Vào
thời ấy Ànanda (A-nan) là vua, Sàriputta (Xá-lợi-phất) là vị tế sư và Ta chính
là Nai chúa.
-ooOoo-
0 Komentar