Tiểu Bộ Kinh - Tập VII
Chuyện Tiền Thân Đức Phật (IV)
Giáo sư Trần Phương Lan dịch Việt
433. Chuyện Vị Khổ
Hạnh Ca- Diếp Nhiều Lông Tóc (Tiền thân Lomasa Kassapa)
Ðại vương sẽ giống hệt Ind-ra...,
Bậc Ðại Sư kể chuyện này trong lúc
trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo có tâm thế tục.
Bậc Ðạo Sư hỏi vị ấy có thật
ông đang mơ tưởng chuyện thế tục chăng, và khi ông công nhận làđúng như
vậy, bậc Ðạo Sư bảo:
- Này Tỷ-kheo, ngay cả
người đạt danh vọng tối cao đôi khi cũng phạm vào một việc ô danh. Những
tội lỗi như thế làm ô uế những vị thanh tịnh, huống nữa là một kẻ như ông.
Rồi Ngài một chuyện quá khứ.
*
Ngày xưa vương tử Brahmadatta, con
vua Brahmadatta ở Ba-la-nại, và con trai vị tế sư hoàng gia tên là Kassapa
là đôi bạn đồng học mọi nghệ thuật tại nhà một giáo sư. Dần dần khi vua
cha băng hà, thái tử lên trị vì quốc độ. Kassapa nghĩ: "Hiền hữu ta
đã lên làm vua và sẽ ban đại quyền lực cho ta. Song ta có cần gì quyền
lực? Ta muốn giã từ đức vua cùng song thân và trở thành vị khổ
hạnh".
Vì vậy ngài vào vùng Tuyết Sơn
sống đời tu hành, vào ngày thứ bảy ngài thành đạt các Thắng trí và
các Thiền chứng và tự kiếm sống bằng những thứ nhặt được giữa đồng
hoang. Quần chúng đặt cho ngài biệt danh nhà khổ hạnh Lomasa Kassapa (Ca-diếp
có nhiều lông tóc).
Vì hành hạ thân xác, và trở thành
vị khổ hạnh khắc nghiệt cao độ. Do công năng khổ hạnh này, cung của
Thiên chủ Sakka (Ðế Thích) rúng động. Sakka suy xét duyên cớ, quan sát
ngài và suy nghĩ: "Vị khổ hạnh này nhờ công năng toả nhiệt độ mãnh liệt
như thế, có thể khiến ta rớt khỏi ngai Ðế Thích. Ta sẽ phá huỷ khổ hạnh của
vị ấy sau khi bí mật hội kiến với vua Ba-la-nại".
Nhờ thần lực của một vị Thiên chủ,
Ðế Thích vào cung của vua Ba-la-nại lúc nửa đêm và chiếu sáng toàn thể
cung thất với hào quang trên thân, vừa đứng trên không trước mặt vua,
Thiên chủ vừa thức vua dậy và nói:
- Thưa Ðại vương, dậy đi.
Vua hỏi:
- Ngài là ai? Vua hỏi.
- Ta là Sakka. Thiên chủ đáp
- Ngài đến đây vì duyên cớ
gì?
- Thưa Ðại vương, Ðại vương có
muốn quyền ngự trị duy nhất toàn cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ) này chăng?
- Dĩ nhiên trẫm muốn.
Nghe thế thiên chủ bảo:
- Vậy hãy đưa Lomasa Kassapa
về đây và ra lệnh cho vị ấy làm lễ tế đàn bằng cách giết thú vật, rồi
Ðại vương sẽ trở thành vĩ đại như Thiên chủ Sakka (tức Indra), thoát
khỏi già chết, và cầm quyền khắp cõi Diêm- phù-đề.
Rồi ngài ngâm vần kệ đầu:
1.
Ðại vương sẽ giống hệt Ind-ra,
Sẽ chẳng chết đi, cũng chẳng già, Ví thử Kas-sa-pa nhận lệnh Tế đàn sinh vật tại cung vua.
Nghe lời ngài, vua sẵn sàng chấp
thuận. Sakka bảo:
- Thế thì đừng chậm trễ.
Rồi ngài biến mất.
Hôm sau, vua triệu vị quốc sư tên
Sayha đến bảo:
- Này Tôn giả, xin đến gặp
thân hữu Lomasa Kasaspa của trẫm và nhân danh trẫm nói với người như vầy:
"Nếu Ðại vương khuyến dụ được ngài làm lễ hiến tế sinh
vật, đại vương sẽ trở thành vị chúa độc nhất ở toàn cõi Diêm-phù-đề
và sau đó ban ngài nhiều vùng lãnh thổ như ý ngài muốn. Vậy xin ngài
cùng đi với tôi về làm lễ tế đàn".
Vị ấy đáp:
- Tâu Ðại vương, xin vâng.
Sau đó dùng trống lệnh truyền
tìm chỗ vị khổ hạnh cư trú, và khi có người kiểm lâm bảo: "Tiểu thần
biết", Sayha liền đi theo sự hướng dẫn của y cùng một đoàn tuỳ
tùng đông đảo, đến kính lễ vị hiền nhân và vừa cung kính ngồi một bên,
vừa trình thông điệp của vua. Vị hiền nhân liền bảo:
- Này Sayha, Tôn giả nói gì vậy?
Rồi Ngài ngâm bốn vần kệ từ chối
vị này:
2.
Không hải đảo nào giữa đại dương
Ðược người canh giữ thật an toàn Hòng mong lôi cuốn ta, Tôn giả, Vào việc bạo tàn đại bất lương. 3. Lòng tham lợi dưỡng với vinh danh, Tội ác từ đây vẫn phát sinh, Ðưa đến khổ ưu không gián đoạn Ác hành tai hại đáng chê khinh! 4. Thà làm kẻ khốn khó ly gia, Khất thực kiếm ăn khắp mọi nhà Hơn phải tạo nên điều tội lỗi Sẽ mang ô nhục trút đầu ta. 5. Thà cầm bình bát ở trong tay Ðể tránh thật xa tội lỗi này, Hơn chiếm được toàn quyền quốc độ Nhờ hành động ác độc như vầy.
Sau khi nghe ngài nói, vị quốc sư
ra về trình vua. Vua suy nghĩ: "Nếu vị ấy không chịu đến đây thì ta
làm gì được?", rồi ngồi im lặng. Nhưng nửa đêm, Thiên chủ Sakka
lại đến đứng trên không và bảo:
- Thưa Ðại vương, tại sao Ðại vương
không truyền gọi ẩn sĩ Lomasa Kassapa về và ra lệnh vị ấy làm lễ hiến tế súc
vật?
- Khi được lệnh truyền gọi,
vị ấy đã từ chối về đây.
- Thưa Ðại vương, hãy
trang điểm cho công chúa Candavatì (Nguyệt Nương), ái nữ của Ðại vương,
và nhờ chính tay Sayha đưa nàng đi và bảo vị ấy: "Nếu Tôn giả
muốn về dâng tế lễ, Chúa thượng sẽ ban thưởng công nương này làm vợ
ngài". Rõ ràng vị ấy sẽ sinh lòng say mê công chúa và về đây.
Vua sẵn sàng chấp thuận và hôm sau
nhờ chính tay Sayha đưa công chúa đi. Sayha đem công chúa đến đó, và sau
lời chào hỏi thông thường cùng ca ngợi vị hiền giả, vị quốc sư bảo đưa
đến trình diện với ngài nàng công chúa diễm lệ khả ái như tiên nữ cung
kính đứng xa xa.
Vị khổ hạnh mất ngay trí đức
khi nhìn thấy nàng và chỉ nhìn thế thôi, ngài đã tiêu tan hết Thiền lực.
Vị quốc sư thấy ngài đã đắm say luyến ái nàng, liền bảo:
- Thưa Tôn giả, nếu Tôn giả muốn
hiến tế, Chúa thượng sẽ ban công chúa này về làm vợ ngài.
Ngài rung động vì mãnh lực
của tham dục liền hỏi:
- Chắc chắn Chúa thượng sẽ ban nàng
cho ta chứ?
- Ðúng vậy, nếu ngài làm tế lễ,
Chúa thượng sẽ ban nàng cho ngài.
- Tốt lắm. Nếu ta được nàng,
ta sẽ làm lễ hiến tế.
Rồi đem nàng đi cùng
ngài ngay lúc ấy với các chòm tóc bện của một vị khổ hạnh và mọi thứ khác,
ngài leo lên chiếc vương xa lộng lẫy đi về Ba-la-nại. Còn vua, ngay khi
nghe tin đang chắc chắn đến đó, liền chuẩn bị lễ đàn ở hố hiến tế sinh
vật.
Khi thấy ngài đã đến,
vua bảo:
- Nếu Hiền hữu dâng lễ hiến tế,
trẫm sẽ sánh ngang với Thiên chủ Indra, và khi tế lễ hoàn tất, trẫm sẽ ban
công chúa cho Hiền hữu.
Vị khổ hạnh Kasapa sẵn sàng chấp
thuận.
Vì thế hôm sau vua cùng công chúa
Candavatì đi đến hố hiến tế sinh vật. Tại đó có đủ loại súc vật bốn chân
như voi, ngựa, bò đực và các loài khác đặt thành một dãy. Ẩn sĩ
Kasapa lãnh việc hiến tế bằng cách giết chết tất cả bọn chúng.
Lúc ấy thần dân tụ tập
quanh đó bảo:
- Hỡi Tôn giả Lomasa Kasapa, việc
này không thích hợp cũng không xứng đáng với ngài, tại sao ngài làm như
vậy?
Và vừa than vừa khóc, họ vừa ngâm
hai vần kệ:
6.
Nhật, nguyệt đều mang đại lực thân,
Thuỷ triều không nhượng lực phàm trần, La-môn, Ðạo sĩ đầy oai lực, Song vẫn kém xa lực nữ nhân. 7. Nguyệt Nương cũng vậy, đã làm cho Ca-diếp Hiền nhân mắc tội to, Thúc giục ngài theo lời Chúa thượng Tế đàn sinh vật tại cung vua.
Vào lúc này để bắt đầu tế lễ,
Kasapa nhấc bảo kiếm lên để đánh vào cổ vương tượng. Con voi thấy thanh
kiếm, kinh hoàng sợ chết, liền rống thật lớn. Khi nghe tiếng voi rống, các
súc vật kia, cả bầy voi ngựa, bò đực vì sợ chết, đồng rống lên thật
lớn và quần chúng cũng kêu thét lên.
Kasapa nghe các tiếng rống kia,
lòng xúc động và nghĩ lại các chòm tóc bện của mình. Lúc ấy ngài
nhờ đến các chòm tóc, râu và lông phủ khắp ngực và toàn thân. Ðầy hối
hận, ngài kêu lớn:
- Than ôi, ta đã phạm ác
nghiệp không xứng đáng với tính cách của ta.
Rồi ngài ngâm vần kệ thứ tám bày
tỏ xúc động của mình:
8.
Ác nghiệp này ta đã muốn làm,
Chính là kết quả của lòng tham, Cái mầm dục vọng đang tăng trưởng, Gốc rễ nó, ta quyết cắt ngang.
Sau đó vua phán:
- Này Hiền hữu, đừng sợ, hãy
dâng tế lễ và ngay bây giờ trẫm sẽ ban cho Hiền hữu công chúa Candavatì, cùng
với vương quốc của trẫm và cả một đống châu báu cao ngất nữa.
Nghe thế, ẩn sĩ Kassapa đáp:
-Tâu Ðại vương, ta không muốn tội
ác này tràn ngập tâm ta.
Rồi ngâm vần kệ kết thúc:
9.
Ðáng ghét bao tham dục thế thường
Thà theo khổ hạnh tốt lành hơn, Ta làm ẩn sĩ nguyền ly dục, Ngài giữ nước nhà với Nguyệt Nương.
Cùng với những lời này, ngài tập
trung vào một đối tượng Thiền quán. Khi phục hồi được định lực đã mất,
ngài ngồi bắt chéo chân trên không, thuyết Pháp cho vua, khuyên nhủ vua tinh
cần làm thiện sự và bảo vua huỷ bỏ tế đàn cùng ban lệnh ân xá cho quần
chúng. Rồi thể theo lời thỉnh cầu của vua, ngài bay lên không trở về nơi an
trú của mình. Trong thời gian ngài còn sống, ngài tu tập các Phạm trú Viên
mãn (Tứ Vô lượng tâm ) và được sinh lên Phạm thiên giới.
*
Sau Pháp thoại, bậc Ðạo Sư tuyên
thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo có tâm thế
tục đã đắc Thánh quả (A-la-hán).
Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:
- Thuở ấy vị đại quốc sư là
Sàriputta và vị khổ hạnh Lomassa Kasapa chính là Ta.
-ooOoo-
434. Chuyện Chim
Hồng Nga (Tiền thân Cakkavàka)
Ðôi chim lông óng ả, màu vàng...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc
trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo tham lam.
Người ta bảo vị ấy tham muốn các
vật dụng cần thiết trong đời sống xuất gia và bỏ quên mọi phận sự của
một sư trưởng và giáo thọ hướng dẫn đệ tử, thường vào thành Sàvatthi
thật sớm. Sau khi ăn cháo gạo tuyệt hảo với nhiều loại thực phẩm loại
cứng tại nhà nữ cư sĩ Visàkha, lại ăn thêm suốt ngày nhiều loại cao
lương mỹ vị với cơm thịt, và vẫn chưa thoả mãn, ông đi từ đó đến nhà ông
Tiểu Cấp Cô Ðộc, cung vua Kosala và nhiều nơi khác nữa. Vì thế một hôm có
cuộc thảo luận tại Chánh pháp đường liên hệ đến tính tham lam của
ông.
Khi bậc Ðạo Sư biết đề tài
Tăng chúng đang thảo luận, Ngài truyền đưa vị Tỷ-kheo đến và hỏi có thật
ông tham lam chăng. Và khi ông đáp:
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn,
Bậc Ðạo Sư hỏi:
- Này Tỷ-kheo, tại sao ông tham
lam? Ngày xưa cũng vì tham ăn, không thỏa mãn với những xác voi
chết, ông đã rời Ba-la-nại và lang thang quanh quẩn bờ sông Hằng, vào
tận vùng Tuyết Sơn.
Và sau đó ngài kể một chuyện
quá khứ.
*
Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị
vì tại Ba-la-nại, một con Quạ tham lam đi quanh quẩn ăn xác voi chết, và
không thoả mãn, nó nghĩ: "Ta muốn ăn mỡ cá trên bờ sông Hằng".
Rồi sau vài ngày ở tại đó ăn cá chết, nó vào vùng Tuyết Sơn sống bằng
các loại quả rừng.
Khi đến một hồ sen rộng nhiều
rùa cá, nó thấy hai con chim Thiên nga với bộ lông vàng óng ả sống bằng cây
rong Sevàla, nó nghĩ: "Ðôi chim này thật mỹ lệ, đầy hảo tướng. Thức
ăn của chúng chắc phải thích thú lắm. Ta muốn hỏi chúng đó là thức gì, rồi
cũng ăn như thế và ta sẽ có màu lông óng ả kia".
Vì vậy Quạ đến gần, sau lời
chào hỏi ân cần theo thông lệ với đôi chim khi chúng đang đậu trên ngọn
cây, quạ ngâm vần kệ ca ngợi chúng:
1.
Ðôi chim lông óng ả màu vàng
Quanh quẩn đó đây, lạc thú tràn Chim loại gì người yêu mến nhất Là điều ta mong muốn biết cho tường.
Nghe vậy, Hồng nga ngâm vần kệ thứ
hai:
2.
Này Quạ, vượt lên mọi dã cầm,
Hồng nga được hạnh phúc ban ân Mọi miền vang dậy tình thân ái Người lẫn chim đều vẫn tán dương Hãy biết Hồng nga là Ngỗng đỏ Bạo gan vùng vẫy nước sông Hằng
Nghe vầy, Quạ ngâm vần kệ thứ ba:
3.
Trái gì sung mãn ở trên sông
Tìm thấy "thịt" cho bạn Ngỗng hồng? Hãy nói món trời cho Ngỗng hưởng Ðể sinh sắc đẹp, lực tăng cường?
Hồng nga liền ngâm vần kệ thứ tư:
4.
Chẳng trái gì ăn ở giữa sông,
Và đâu có: "thịt" với chim Hồng Sè-và-la ấy đem chà vỏ Làm thức ăn không có lỗi lầm.
Sau đó Quạ ngâm hai vần kệ:
5.
Ta chẳng thích lời ấy, Ngỗng hồng,
Trước kia ta thưởng thức cần dùng Ðể nuôi ta sống, cần phù hợp Với dáng bề ngoài ta ước mong. 6. Nay ta nghi hoặc, bởi ta ăn Gạo, muối, dầu, bơ, thịt, quả ngon Như các anh hùng say yến tiệc Khi vừa trở lại khải hoàn môn Vậy ta thưởng thức đầy hương vị, Song dẫu ta đang sống thật là sang, Hình dáng bề ngoài ta vẫn thế Bên Hồng nga chẳng thể ngang bằng!
Sau đó Hồng nga bảo cho Quạ
biết lý do tại sao Quạ không đạt được dung sắc mỹ lệ trong khi chính Hồng Nga
đã đạt được qua các vần kệ còn lại:
7.
Không thoả vì hoa quả rớt rơi
Trong vùng nghĩa địa hoả thiêu người, Tham lam, Qua vẫn bay lơ lững Săn đuổi mồi ngon cám dỗ hoài. 8. Song những ai mong phạm ác hành, Chỉ vì dục lạc, giết sinh linh, Lương tâm giày xéo thân mòn mỏi, Vẻ đẹp, tráng cường huỷ hoại nhanh. 9. Vậy cái thiện nhân chẳng hại ai, Hình dung cường tráng, vẻ xinh tươi, Bởi vì mỹ sắc, ta cần biết, Chẳng phải thuộc vào thực phẩm thôi.
Như vậy Hồng nga dùng nhiều phương
tiện chỉ trích Quạ. Sau khi Quạ bị khiển trách như vậy, nó bảo:
- Ta chẳng muốn có sắc đẹp
cuả Thiên nga nữa.
Và nó bay đi xa với tiếng kêu
quác quác.
*
Sau Pháp thoại, bậc Ðạo Sư tuyên
thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo tham
lam đã đắc Nhị quả (Nhất Lai).
Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:
- Thời ấy, con Quạ là Tỷ-kheo tham
lam này, Hồng nga mái là mẫu thân Ràhula và Hồng nga trống chính là Ta.
-ooOoo-
435. Chuyện Ước Mơ
Chóng Phai Tàn (Tiền thân Halidaràga)
Trong chốn rừng hoang vắng một
mình...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc
trú tại Kỳ Viên về một chàng thanh niên bị một thiếu nữ thô tục cám dỗ. Phần
duyên khởi chuyện này sẽ xuất hiện trong Chương Mười ba, Tiền thân Cullàrada,
số 477, tập IV.
*
Bấy giờ theo cổ tích này, cô thiếu
nữ biết rằng nếu chàng thanh niên khổ hạnh phá huỷ giới đức, chàng sẽ
rơi vào uy lực của nàng. Rồi nghĩ cách dụ dỗ chàng và đưa chàng trở lại
cõi trần tục, nàng bảo:
- Giới đức được hộ phòng cẩn
mật ở rừng sâu, nơi các đặc tính của dục lạc như sắc đẹp, tiếng hay và
các thứ tương tự như thế không có mặt, nên giới đức ấy không mang lại
nhiều kết quả; song nó sẽ mang kết quả sung mãn trong cõi đời thế tục
khi đối diện trực tiếp với sắc đẹp, cùng các thứ kia. Vậy chàng hãy đi
cùng thiếp về hộ phòng giới đức tại đó.
Và nàng ngâm vần kệ đầu:
1.
Trong chốn rừng hoang vắng một mình
Con người có thể giữ tâm lành, Dễ dàng chịu đựng trò lôi cuốn, Song ở thôn quê hoặc thị thành Ðầy rẫy biết bao mùi cám dỗ Người vươn đến hạnh phúc tối cao minh.
Khi nghe vậy, chàng khổ hạnh trẻ
tuổi đáp:
- Cha ta đã vào rừng. Khi
người trở lại, ta sẽ xin phép người và đi theo nàng.
Nàng suy nghĩ: "Có lẽ chàng
còn thân phụ. Nếu vị ấy thấy ta ở đây, vị ấy sẽ lấy đầu mũi đòn gánhđánh
chết ta. Ta phải chạy trốn trước". Vì thế nàng bảo chàng trai:
- Thiếp sẽ ra đi lên đường
về trước chàng và để lại dấu chân sau đó, chàng cần phải đi theo
thiếp.
Khi nàng đã đi rồi,
chàng không đem củi về, cũng không lấy nước uống, mà chỉ ngồi thừ người
suy nghĩ miên man, đến khi cha về, chàng cũng không ra đón.
Vì thế cha chàng hiểu con ngài đã
rơi vào uy lực của nữ nhân, liền bảo:
- Này con, sao con chẳng tìm củi
hay mang nước về uống, cũng chẳng có gì ăn, sao con chẳng làm gì cả mà
chỉ ngồi người ra suy nghĩ?
Chàng trai khổ hạnh đáp:
- Thưa cha, người ta nói rằng
giới đức được hộ phòng trong rừng hoang không đem lại kết quả mấy,
nhưng nó sẽ phát sinh nhiều kết quả giữa của đời. Con muốn đi hộ phòng
giới đức tại đó. Bạn đồng hành của con đã đi trước và bảo con
theo sau. Vậy con muốn đi cùng bạn con. Nhưng khi sống tại đó, con
phải cư xử theo cách nào?
Vừa hỏi câu này, chàng vừa ngâm
vần kệ thứ hai:
2.
Thưa cha, xin giải toả nghi nan:
Ví lỡ con đi lạc bước đường, Từ chốn rừng này vào xóm nọ, Người nào giữ đức độ hiền lương, Hay là môn phái nào tu tập Con phải noi theo thật chánh chơn?
Sau đó thân phụ chàng ngâm
các vần kệ còn lại:
3-4.
Một kẻ nào con tín nhiệm luôn,
Và con tạo được mối yêu thương, Người này tin cậy lời con nói, Tỏ với con kiên nhẫn nhịn nhường, Người ấy chẳng bao giờ phạm lỗi Về lời nói, ý tưởng hay thân, Hãy đem người ấy vào lòng dạ Theo sát người kia tựa bạn vàng 5-6. Với hạng người thay đổi lạ lùng Như lời loài khỉ vượn nhảy lung tung, Tính tình bất định, thì con nhớ Ðừng hướng tâm giao kết bạn cùng, Dù số phần con quanh quẩn mãi Một mình trơ trọi ở trong rừng. 7. Hãy tránh xa đường hướng ác hành, Như con tránh rắn dữ cho nhanh, Hay như người lái xe xa lánh Một lối đi gai gốc gập ghềnh. 8-9. Các nỗi khổ đau vẫn ngập tràn Khi người hầu cận hạng si cuồng, Ðừng giao kết bọn người ngu xuẩn, Lời nói của cha phải phục tuân, Làm bạn với phường vô trí ấy Chỉ làm mồi khổ não đau buồn.
Khi được cha khuyến giáo như
vậy, chàng trai đáp:
- Nếu con đi đến chỗ người
đời, con không thể tìm được các bậc hiền trí như cha. Con sợ đến đó lắm
rồi. Con muốn ở lại đây hầu cận bên cha.
Sau đó phụ thân chàng lại
khuyến giáo nhiều hơn nữa và dạy chàng các nghi thức tu tập đưa đến
Thiền định vi diệu. Rồi chẳng bao lâu, chàng trai phát triển các Thắng Trí và
các Thiền chứng và về sau chàng cùng cha đều được sinh lên cõi Phạm
thiên.
*
Sau Pháp thoại, bậc Ðạo Sư tuyên
thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo mơ tưởng thế
tục đã đắc Sơ quả (Dự Lưu).
Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:
- Thời ấy vị khổ hạnh trẻ tuổi là
Tỷ-kheo có tâm hướng về thế tục này, cô gái thuở ấy là cô gái ngày nay và cha
chàng chính là Ta.
-ooOoo-
436. Chuyện Cái Hộp
(Tiền thân Samuggu)
Kìa đến từ đâu, các bạn
ta?...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc
trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo có tâm hướng đến thế tục.
Chuyện kể rằng bậc Ðạo Sư hỏi có
thật vị ấy đang tham đắm thế tục chăng, và khi ông thú nhậnđúng như vậy.
Ngài bảo:
- Này Tỷ-kheo, tại sao ông ham
muốn nữ nhân? Nữ nhân thật là độc ác, vô ơn. Ngày xưa các ác quỷ Asura
(A-tu-la) nuốt nữ nhân vào bụng và dù canh giữ nữ nhân trong bụng, chúng cũng
không thể làm cho nữ nhân trung thành với một nam nhân được. Vậy thì
bằng cách nào ông sẽ có khả năng làm chuyện ấy.
Rồi sau đó Ngài kể một
chuyện đời xưa.
*
Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị
vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát từ bỏ tham dục lạc thế gian, vào vùng Tuyết Sơn
theo đời tu tập, ngài ở đó sống bằng quả rừng và phát triển các
Thắng trí cùng các Thiền chứng.
Không xa thảo am của ngài, có một
ác quỷ Asura (A-tu-la). Thỉnh thoảng nó đến gần bậc Ðại Sĩ và nghe
Pháp, nhưng vẫn đứng trong rừng trên xa lộ, nơi có nhiều người tu tập,
nó bắt họ và ăn thịt.
Thời ấy có một nữ nhân quý tộc ở
quốc độ Kàsi, cực kỳ diễm lệ, sống ở một làng biên địa. Một hôm
nàng đi thăm cha mẹ và khi trở về, ác quỷ này thấy bọn người theo hộ
tống nàng liền hoá hình khủng khiếp nhảy vào họ. Bọn người này đánh rơi
khí giới cầm trong tay và chạy trốn. Ác quỷ thấy giai nhân ngồi trên xe
ngựa, đâm ra say mê nàng, liền đem nàng về làm vợ.
Từ đó ác quỷ đem cho nàng bơ
sữa, gạo, cá, thịt và các món ăn khác, cùng trái cây để ăn
và điểm trang nàng với đủ thứ y phục châu báu. Ðể canh giữ
nàng cho an toàn, nó đặt nàng vào một cái hộp, rồi nuốt vào bụng và giữ
nàng trong bụng.
Một hôm nó muốn tắm, liền đến
hồ nước kéo hộp ra và đem nàng ra ngoài, nó tắm rửa, xoa dầu thơm cho
nàng và khi đã mặc xiêm y cho nàng xong, nó bảo:
- Nàng hãy vui chơi giây lát ngoài
trời.
Rồi không nghi ngờ có sự nghi hại
nào, ác quỷ đi hơi xa để tắm.
Vừa lúc ấy chàng con trai của
Vàyu, một tà thuật sư, đeo kiếm bên lưng, đang du hành trên không.
Khi nàng thấy y, nàng đưa tay theo kiểu làm dấu hiệu cho y đến gần.
Tà thuật sư liền đáp xuống
đất. Sau đó nàng đặt y vào hộp rồi ngồi lên đó, đợi ác quỷ Asura
đến, trước khi nó bước lại gần chiếc hộp, nàng mở hộp ra và bước vào, nằm
trên vị tà thuật sư, lấy xiêm áo của nàng phủ lên người y. Ác quỷ Asura đến
nơi, không quan sát kỹ chiếc hộp cứ tưởng chỉ có cô nàng, nên lại nuốt hộp
vào bụng và trở về hang.
Trong khi đi đường, nó suy
nghĩ: "Ðã lâu lắm từ khi ta thăm vị ẩn sĩ khổ hạnh. Hôm nay ta muốn đi
đảnh lễ ngài". Còn ngài đã thấy nó từ đằng xa, biết rằng có
hai người trong bụng ác quỷ, nên ngài ngâm vần kệ đầu bảo nó:
1.
Kìa đến từ đâu, các bạn ta?
Chào mừng ba vị đến thăm nhà, Vui lòng ở với ta giây lát, Ta chắc các ngươi sống thuận hoà, Hạnh phúc, vì lâu ngày chẳng thấy Vị nào qua lại chốn đường xa.
Khi nghe vầy, ác quỷ Asura suy
nghĩ: "Ta đã đến đây một mình để thăm vị khổ hạnh này, và
ngài lại nói có ba người; ý ngài muốn ám chỉ gì vậy? Ngài nói vì biết rõ hiện
trạng mọi việc, hay ngài hoá điên và nói nhảm nhí?" Sau đó nó
đến gần ngài kính cẩn ngồi một bên và ngâm vần kệ thứ hai đàm đạo
với ngài:
2.
Tôi đến thăm ngài chỉ một thân
Chứ không người, vật khác đi cùng, Cớ sao ngài nói, thưa Tôn giả, "Kìa đến từ đâu, các bạn vàng, Tất cả ba người cùng đủ mặt Hôm nay quả thật đáng chào mừng!"
Vị khổ hạnh này đáp:
- Ngươi có thật sự muốn nghe lý do
chăng?
- Thưa vâng, bạch Thánh giả.
- Vậy hãy nghe đây.
Ngài đáp và ngâm vần kệ thứ
ba:
3.
Hãy biết rằng ngươi với vợ ngươi,
Nằm yên trong hộp ấy là hai Ðược canh phòng kỹ trong lòng kín, Chơi với Và-yu Tứ thật vui!
Khi nghe vầy, ác quỷ Asura suy
nghĩ: "Các tà thuật sư chắc chắn phải đầy các trò xảo quyệt, giả sử
hắn cầm kiếm trong tay và rạch bụng ta ra để trốn thoát thì sao?"
Và vô cùng hốt hoảng, ác quỷ nhả
chiếc hộp ra, đặt trước mặt nó.
Bậc Ðạo Sư muốn làm sáng tỏ
vấn đề với Trí tuệ tối thắng của ngài, liền ngâm vần kệ thứ tư:
4.
Ác quỷ vì gươm, thấy hãi kinh,
Nhả ra chiếc hộp tự trong mình, Ðặt ngay xuống đất nhìn cô vợ Trang điểm vòng hoa thật đẹp xinh Như thế cô dâu cùng chú rể Và- yu Tử nọ hưởng men tình!
Chiếc hộp vừa được mở ra thì
vị tà thuật sư niệm thần chú, vừa chụp thanh kiếm vừa vụt lên không. Khi thấy
vậy, ác quỷ Asura hài lòng vì bậc Ðại Sĩ đến độ nó ngâm các vần kệ được
gợi cảm hứng cốt để ca tụng ngài:
5.
Thánh giả nhãn quang thấy rõ ràng
Ðắm chìm hạ liệt bọn nam nhân, Làm thân nô lệ cho nhi nữ, Tôi giữ nó vào trong bụng luôn Như chính đời tôi song khốn nạn, Nó chơi trò mất nết hư thân. 6. Ngày đêm săn sóc nó, canh chừng Như ẩn sĩ chăm chút lửa rừng, Song nó vẫn sa vào tội lỗi Vượt ngoài vòng đạo lý công bằng. Dính vào nữ giới tất nhiên phải Gánh chịu bao ô nhục cuối cùng. 7. Tưởng dấu trong mình, chẳng thấy ai, Nó là sở hữu của riêng tôi, Song tên nó chính là "dâm phụ", Nó phạm tội kia trái đạo trời. Liên luỵ nữ nhân ắt phải chịu Nhận bao ô nhục đến tàn đời. 8. Bọn nam nhi thật chỉ hoài công Ðịch với ngàn mưu chước nữ nhân. Tin tưởng hộ phòng là chắc chắn Cứ như vực thẳm cứ xuôi dần Xuống miền địa ngục bao chàng ngốc Nó đã lôi vào chỗ liệt vong. 9. Người tránh lối đường của nữ nhi Sống đầy hạnh phúc thoát sầu bi, Thấy niềm cực lạc trong cô tịch, Xa lánh hồng nhan phản bội kia!
Cùng với những lời này, ác quỷ quì
xuống chân bậc Ðại Sĩ, vừa tán thán ngài, vừa nói:
- Bạch Thánh giả,
con đã được ngài cứu mạng. Vì nữ nhân độc ác kia, con suýt bị
tà thuật sư giết chết.
Sau đó Bồ Tát thuyết Pháp cho
nó và bảo:
- Ðừng làm hại nàng ấy. Hãy giữ
giới hạnh.
Rồi ngài an trú nó vào Ngũ giới.
Ác quỷ nói:
- Dù con đã giữ nó trong
bụng, con vẫn không thể giữ nó an toàn được. Vậy còn ai giữ được nó nữa?
Vì thế nó thả cho nàng đi,
rồi trở về hang cũ trong rừng.
*
Sau Pháp thoại, bậc Ðạo Sư tuyên
thuyết các Sự Thật. Lúc kết thúc các Sự Thật, vị Tỳ kheo có tâm thế
tục đã đắc Sơ quả (Dự Lưu).
Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:
- Thời ấy vị khổ hạnh có thần
thông chính là Ta.
-ooOoo-
437. Chuyện Chó Rừng
Pùtimunsa (Tiền thân Pùtimunsa)
Sao Pù -ti lại ngó trừng trừng...,
Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc
ngụ tại Kỳ Viên về việc chế ngự dục tham.
Có một thời nhiều tỳ kheo không hộ
phòng các căn môn. Bậc đạo sư báo trưởng lão Ànanda:
- Ta phải giáo huấn các tỳ kheo
này.
Và do tăng chúng thiếu sự điều
phục thân tâm, Ngài triệu tập các tỳ kheo lại rồi ngồi trên bảo toạđược trang
hoàng lộng lẫy, Ngài bảo các vị:
- Này các tỳ kheo, thật không
chính đáng khi một tỳ kheo chịu sự chi phối của sắc đẹp cá nhân (tịnh
tướng) khiến vị ấy sinh lòng luyến ái các đặc điểm thể chất hoặc tinh
thần của con người, vì giả sử vị ấy chết ngay lúc ấy, vị ấy sẽ bị tái sinh
vào địa ngục, ác thú, đoạ sứ; vậy các ông đừng sinh tâm luyến ái các đặc
điểm thể chất cùng các thứ tương tự như thế. Một tỳ kheo nên để tâm đến
các đặc điểm tinh thần hay thể chất. Những ai làm như vậy ngay trong
cảnh đời hiện tại nàyđều bị hoàn toàn huỷ hoại. Vì thế, này các tỳ kheo,
con mắt tham dục cần phải được tiếp xúc với cái đinh sắt nóng đỏ mới có
ích lợi.
Ðến đây Ngài nói thêm chi
tiết:
- Có lúc các ông cần quán sát tịnh
tướng, và có lúc các ông đừng quan tâm đến nó. Vào lúc quán sát tịnh
tướng, đừng quán sát nó dưới ảnh hưởng của vật khả ái, nhưng hãy quán
sát nó dưới ảnh hưởng của vật bất khả ái. Như vậy các ông sẽ không
bị đoạ lạc khỏi trú xứ chân chánh của mình. Và trú xứ này của các ông là
gì? Ðó chính là Bốn Thiền quán chân chánh, Thánh đạo Tám ngành và Chín
trú xứ siêu việt. Nếu các ông đi đúng trong lĩnh vực chân chánh này của
mình, Ác Ma sẽ không tìm được lối vào; song nếu các ông bị tham dục chi
phối và quán sát sự vật dưới ảnh hưởng của tịnh tướng cá nhân như con chó
rừng Pùtimansa, thì các ông sẽ bị đoạ lác khỏi trú xứ chân chánh của
mình.
Và cùng với các lời này, Ngài kể một
chuyện quá khứ.
*
Ngày xưa dưới triều đại
Brahmadatta, quốc vương ở Ba-la-nại, hàng trăm dê rừng trú trong một hang núi
tại vùng rừng rậm trên sườn dãy Tuyết Sơn.
Không xa chỗ ở của chúng, có con
chó rừng tên là Pùtimansa sống trong hang với vợ nó là Venì.
Một hôm nó quanh quẩn cùng vợ,
rình rập bầy dê và suy nghĩ: "Ta phải tìm cách ăn thịt mấy con dê
này". Rồi nhờ mưu mẹo nó giết được một con dê. Cả hai vợ chồng nó
nhờ ăn thịt dê trở thành lực lưỡng đẫy đà. Dần dần số dê giảm
xuống.
Trong số đó có con dê cái
khôn ngoan tên là Melamàtà. Dù nhiều mưu kế tài giỏi, chó rừng cũng không thể
giết dê được, nên lúc bàn luận với vợ, nó bảo:
- Nàng ơi tất cả bầy dê đã
chết hết. Chúng ta phải bày mưu ăn thịt dê cái này, giờ đây là kế
hoạch của ta. Nàng phải đi một mình, làm thân với dê cái, rồi khi niềm
tin tưởng đã phát sinh giữa nàng và nó, ta sẽ nằm xuống giả vờ chết.
Sau đó, nàng đến gần dê cái, bảo: "Bạn ơi, chồng tôi đã
chết, tôi đang khốn khổ, trừ bạn tôi không có ai cả. Vậy hãy đến
đây cùng tôi than khóc và chôn xác chồng tôi". Và cùng với những lời
này, nàng hãy đến đưa dê lại đây với nàng. Sau đó ta sẽ nhảy
lên cắn cổ nó giết đi.
Chó cái sẵn sàng đồng ý. Sau
cuộc kết giao bằng hữu với dê cái, khi lòng tin tưởng đã vững chắc, nó
nói với dê cái những lời do chồng nó đưa ra. Dê cái đáp:
- Bạn ơi, cả họ hàng nhà tôi bị
chồng nàng ăn thịt. Tôi sợ lắm. Tôi không dám đi.
- Ðừng sợ gì cả, chó chết rồi làm
sao hại bạn được nữa?
- Chồng chị có ác ý lắm nên tôi
sợ.
Nhưng sau khi bị nài nỉ van xin
mãi, dê cái suy nghĩ: "Chắc có lẽ nó chết thật rồi", nên đồng
ý đi với chó cái. Nhưng trên đường đi nó suy nghĩ: "Ai biết chuyện
gì sẽ xảy ra?", nên sinh lòng nghi ngờ, nó bảo chó cái đi trước
và đề phòng chó đực rất tinh tế.
Chó đực nghe tiếng chân của
chúng liền suy nghĩ: "Con dê đến rồi", nên ngẩng đầu lên
và đảo mắt nhìn quanh. Dê cái thấy nó làm vậy liền nói: "Con chó
khốn nạn độc ác này muốn dụ ta vàođể giết ta, nó nằm kia giả vờ
chết". Dê cái quay đi và chạy trốn.
Khi chó cái hỏi tại sao nó chạy
trốn, dê cái ngâm vần kệ đầu nêu lý do:
1.
Sao Pù-ti lại ngó trừng trừng
Vẻ chó nhìn dê thật ghét căm, Với bạn thế, ta cần thận trọng, Và nên chạy trốn thật nhanh chân.
Cùng với các lời này, dê
quay đi và chạy thẳng về chỗ ở của nó. Chó cái không thể ngăn
dê được, rất tức giận con dê và trở về bên chồng, ngồi than khóc. Lúc ấy
chó rừng trách mắng vợ qua vần kệ thứ hai:
2.
Ve-ni, vợ dại, kém thông minh
Lại khoe đã kết bạn thân tình, Bơ vơ trong bụi, ngồi than khóc, Vì bị Mê-la phỉnh gạt mình.
Nghe vậy, chó cái ngâm vần kệ thứ
ba:
3.
Chàng cũng chẳng khôn khéo tý nào!
Ngu si, chàng đã ngẩng đầu cao, Trừng trừng, chàng mở to hai mắt, Dù giả vờ nằm chết đó sao? 4. Người nào khôn khéo đúng thời cơ Biết nhắm mắt và mở mắt to, Ai mở mắt nhìn không đúng lúc Như Pù-ti nọ, phải buồn lo!
Ðây là vần kệ xuất phát từ Trí Tuệ
Tối thắng của đức Phật.
Nhưng chó cái lại an ủi Pùtimansa
và bảo:
- Chàng ơi, đừng bực mình
nữa, thiếp sẽ tìm cách mang dê lại đây, và khi nó đến chàng hãy
canh chừng và chụp lấy nó.
Sau đó nó đi tìm dê cái và
bảo:
- Bạn ơi, bạn đến thăm thật
ích lợi cho chúng tôi, vì ngay khi bạn vừa xuất hiện, chồng tôi đã hồi
tỉnh và nay đã sống lại rồi, xin hãy đến nơi nói chuyện thân tình
với chàng.
Nói xong nó ngâm vần kệ thứ năm:
5.
Tình bạn, trước đây hãy phục hồi,
Xin đem bát cháo đến nhà tôi, Chồng tôi tưởng chết nay hồi tỉnh, Hãy viếng chàng, thăm hỏi thật vui.
Dê suy nghĩ: "Con chó cái
khốn nạn độc ác này lại muốn dụ dỗ ta. Ta không nên hành động như
một kẻ thù lộ diện mà ta sẽ tìm cách đánh lừa nó". Dê liền ngâm vần
kệ thứ sáu:
6.
Tình bạn cũ, nay muốn phục hồi
Ta đem bát cháo, dạ mừng vui Với đoàn hộ tống ta đi đến Ăn tiệc tưng bừng, nhanh bước thôi.
Sau đó chó cái hỏi thăm đoàn
hộ tống của dê và ngâm vần kệ thứ bảy:
7.
Những ai hộ tống bạn bên mình
Ðể đãi bạn, tôi phải nhiệt tình, Danh tánh những ai thăm hỏi đó, Xin cho tôi biết thật chân thành.
Dê ngâm kệ thứ tám đáp lời:
8.
Chó săn nâu xám, bốn mắt lồi,
Hình quỷ Jam-buk, hộ tống tôi, Thôi hãy về nhà, mau sửa soạn Dồi dào yến tiệc để chào mời.
Nó còn nói thêm:
- Mỗi chó hình quỷ này được
năm trăm chó khác hộ tống, do vậy ta sẽ có một đoàn tuỳ tùng cả hai ngàn con
chó canh giữ. Nếu chúng không thấy thức ăn, chúng sẽ giết luôn bạn và
chồng bạnđể ăn thịt đấy.
Nghe vậy chó cái kinh sợ đến
độ suy nghĩ: "Ta đã chán ngán việc nó đến thăm nhà ta rồi. Ta sẽ
tìm cách ngăn nó đến". Rồi chó cái ngâm kệ:
9.
Ðừng rời nhà bạn, kẻo ta e
Ðồ đạc sẽ nhanh chóng mất đi. Ta sẽ đem lời dê nhắn gửi, Ðứng yên! Ðừng nói nữa, ta về!
Cùng với những lời này, chó cái ra
sức chạy vội vàng để tự cứu mạng và đem luôn cả chồng nó chạy theo.
Rồi từ đó chúng không bao giờ dám trở lại chỗ ấy nữa.
*
Bậc Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại và
nhận diện Tiền thân:
- Thời ấy Ta là vị Thần sống tại
rừng ấy trên một cây cổ thụ.
-ooOoo-
438. Chuyện Con Gà
Gô (Tiền thân Tittira)
Nó đã ăn tươi bọn trẻ
thơ ...,
Bậc đạo sư kể chuyện này
trong lúc trú ngụ tại núi Linh Thứu, về dự định của Devadatta mưu sát
Ngài.
Chính vào thời ấy Tăng chúng bắt
đầu thảo luận tại Chánh pháp đường:
- Này các Hiền giả, than ôi!
Devadatta thật là hạ liệt và vô liêm sỉ biết bao! Vị ấy kết hợp với Thái tử
Ajàtasattu lập mưu sát hại đức Phật Chánh Ðẳng Giác bằng cách mua
chuộc bọn xạ thủ, lăn đá xuống đồi, và thả lỏng con voi Nalàgiri.
Bậc Ðạo sư bước vào hỏi Tăng chúng
đang bàn luận việc gì lúc hội họp, và khi nghe kể đề tài câu chuyện,
Ngài bảo:
- Không phải chỉ bây giờ, mà xưa
kia nữa, Devadatta cũng mưu giết ta, song cũng không thể làm gì cho ta kinh
hãi được.
Rồi Ngài kể câu chuyện đời
xưa.
*
Ngày xưa khi vua Brahmadatta trị
vì ở Ba-la-nại, một giáo sư danh tiếng lừng lẫy thế giới tại Ba-la-nại dạy
các học thuật cho năm thanh niên Bà-la-môn.
Một hôm vị ấy suy nghĩ: "Bao
lâu ta còn ở đây, ta sẽ gặp trở ngại cho đời tu hành và các đồ đệ
ta cũng không hoàn thành việc học của họ. Ta muốn về ẩn dật trong thảo am
trên sườn núi Tuyết Sơn và dạy học ở đó."
Vị ấy báo tin cho các đồ đệ,
bảo họ đem mè, gạo xay, dầu, y phục đại loại như thế, rồi đi vào rừng
dựng thảo am ở cạnh xa lộ. Mỗi vị đệ tử đến tự xây một thảo am cho mình.
Thân quyến họ gửi gạo và các thứ kia, còn dân làng bảo nhau: "Người
ta đồn một vị danh sư đang sống nơi kia trong rừng và thuyết giảng kiến
thức học thuật", liền đem quà lúa gạo đến tặng, các người kiểm
lâm cũng tặng quà, lại có một người tặng bò cái và bê con để chư vị lấy
sữa.
Bấy giờ, có một con tắc kè cùng
hai con nó đến ở trong lều vị giáo sĩ, và một con Sư tử cùng một con cọp
hầu hạ vị ấy. Một con gà gô cũng thường xuyên ở tại đó và do nghe giáo
sư dạy thánh kinh cho đệ tử, con Gà dần dần hiểu ba tập Vệ-đà. Các
Bà-la-môn trở nên thân thiện với Gà gô. Về sau, trước khi các thanh niên
này đạt tinh thông các học thuật, thì vị giáo sư mất. Các đệ tử đem
thi hài thầy hỏa thiêu, dựng một mô cát lên chỗ để tro, vừa than khóc vừa
trang hoàng nơi ấyđầy đủ các loại hoa. Thấy vậy Gà gô hỏi tại sao họ khóc.
Họ đáp:
- Thầy chúng ta đã mất trong
khi việc học của chúng ta chưa hoàn mãn.
- Nếu chuyện là thế thì các
vị đừng lo buồn nữa. Tôi sẽ dạy các vị kiến thức ấy.
- Làm sao Gà biết được?
- Tôi thường nghe giáo sư của các
vị trong lúc giảng dạy các vị, nên đã học thuộc lòng ba tập Vệ-đà rồi.
- Thế Gà hãy truyền cho chúng tôi
những gì Gà đã học thuộc lòng nhé.
Gà đáp:
- Nào lắng nghe đây.
Rồi Gà thuyết giảng mọi điểm
khúc mắc cho họ, dễ dàng như người đưa nước suối từ núi cao xuống. Các
thanh niên Bà-la-môn vô cùng hân hoan và thu thập kiến thức từ con Gà gô
thông thái này. Con Gà gô đậu trên chỗ giáo sư danh tiếng ấy thường
ngồi, và thuyết giảng về tri kiến Vệ-đà. Các thanh niên làm cho Gà đủ
mật ong, hạt ngũ cốc rang trong chiếc đĩa vàng, lại còn tặng đủ thứ hoa
có màu sắc rực rỡ và tỏ vẻ vô cùng tôn kính Gà gô.
Tiếng đồn vang dậy khắp
Diêm-phù-dề (Ấn Ðộ) rằng một con Gà gô rừng đang dạy Thánh kinh cho năm
trăm thanh niên Bà-la-môn. Vào lúc ấy, dân chúng mở lễ hội lớn, tụ tập cùng
nhau trênđỉnh núi. Cha mẹ các thanh niên này gửi lời nhắn các con đến
xem lễ hội. Họ liền kể chuyện con Gà gô, rồi ủy thác Gà gô cùng thảo am của
họ cho Tắc kè chăm nom, và họ ra đi đến nhiều kinh thành.
Lúc ấy một vị khổ hạnh lõa
thể độc ác du hành đây đó bước tới chốn này. Khi thấy vị ấy, con
Tắc kè đến nói chuyện thân thiện và bảo:
- Ở chỗ này chỗ kia, ngài sẽ thấy
gạo, dầu và các món khác. Hãy nấu cơm và ăn uống no nê!
Nói xong nó ra đi kiếm mồi.
Sáng sớm kẻ ác kia nấu cơm và giết
luôn hai tắc kè con ăn thịt làm một món ngon lành. Ðến trưa, y giết
và ăn thịt luôn con gà gô thông thái, và con bê, đến chiều tối, y
vừa thấy con bò về nhà liền giết nó luôn để ăn thịt. Rồi y nằm ngủ ngáy
vang dưới gốc cây. Xế chiều tắc kè trở về thấy vắng hai con liền đi
quanh tìm chúng. Một vị thần cây quan sát Tắc kè đang run rẩy toàn thân
vì không tìm được các con thơ, liền dùng thần lực đứng trong bộng
cây và nói:
- Này Tắc kè, đừng run nữa,
các con nhỏ ấy cùng Gà gô, bê con và bò cái đều bị kẻ độc ác này ăn
thịt rồi. Hãy cắn vào cổ cho nó chết đi.
Vị thần vừa nói chuyện như vậy với
Tắc kè, vừa ngâm vần kệ đầu:
1.
Nó đã ăn tươi bọn trẻ thơ
Dù con cho nó thật nhiều quà Răng con hãy cắn sâu vào cổ Ðứng để ác nhân trốn thoát ra
Sau đó Tắc kè ngâm hai vần
kệ:
2.
Thâm tâm của nó tạo bùn nhơ
Chẳng khác áo người giữ trẻ thơ Tôi e toàn thể thân mình nó Chống đỡ răng tôi mạnh lắm mà!
3.
Lỗi lầm kẻ hạ liệt vong ân
Ðều thấy khắp nơi rõ ràng, Tâm nó chẳng bao giờ thỏa mãn Với bao tặng vật của trần gian
Tắc kè nói xong, suy nghĩ:
"Kẻ này sẽ thức dậy và ăn thịt ta". Nó liền trốn đi để
cứu mạng mình.
Bấy giờ Sư tử và Cọp rất thân
thiết với Gà gô, và đôi khi Gà gô cũng bay đi thuyết Pháp cho nó.
Hôm ấy, Sư tử bảo Cọp:
- Chúng ta đi thăm Gà
gô đã lâu rồi, chắc cũng đã bảy tám ngày. Vậy bạn hãy đi đen
tin tức của Gà về đây.
Con Cọp thỏa thuận và đi đến
nơi đúng lúc con Tắc kè đã chạy trốn, nó thấy kẻ gian ác ấy đang
ngủ. Trên các bện tóc của y thấy có vài cái lông gà, và gần đó lại có
đống xương bò cái và bê con. Cọp chúa trông thấy cảnh ấy, lại thiếu Gà gô
trong lồng vàng, liền suy nghĩ: "Các con vật này chắc đã bị kẻ ác
nhân này giết hết rồi". Nó đá mạnh thức y dậy. Khi thấy Cọp, y vô
cùng sợ hãi. Rồi con Cọp hỏi:
- Có phải ngươi giết và ăn
thịt các con vật này chăng?
- Tôi chẳng giết cũng
chẳng ăn thịt chúng.
- Kẻ khốn nạn ác độc kia, nếu
anh không giết chúng thì hãy nói cho ta biết ai khác giết? Nếu anh không nói,
anh phải chết đấy.
Sợ nguy đến tính mạng, y đáp:
- Vâng thưa ngài, tôi đã giết
và ăn thịt các con tắc kè con, bò cái và bê con, song tôi không giết con
Gà gô.
Mặc dù y cứ phản đối mãi. Cọp
cũng không tin y và bảo:
- Anh từ đâu đến đây?
- Tâu ngài, trước đây tôi bán
hàng rong để kiếm sống ở xứ Kàlinga và sau khi thử bán vài món xong thì
tôi đến đây.
Nhưng sau khi người ấy đã kể
hết mọi việc y làm, con Cọp bảo:
- Này ác nhân kia, nếu anh không
giết Gà gô, thì còn ai khác làm việc đó? Này, ta sẽ mang anhđến trước Sư
tử, chúa sơn lâm đấy.
Thế là Cọp ra đi dẫn theo kẻ
ấy trước mặt. Khi Sử tử thấy Cọp mang y đến, nó liền ngâm vần kệ thứ tư để
đặt câu hỏi:
4.
Ði đâu vội vã thế Su-bà,
Sao kéo chàng trai trẻ thế ư? Có việc gì cần, đây muốn biết, Nói mau thành thật chớ chần chừ?
Nghe vậy Cọp ngâm vần kệ thứ năm:
5.
Bạn quý Gà gô của chúng ta
Hôm nay, tôi đoán, hóa thành ma Chuyện xưa kẻ ấy làm tôi sợ Nghe được hung tin của bạn Gà.
Sau đó Sư tử ngâm vần kệ thứ
sáu:
6.
Chuyện xưa của kẻ ấy ra sao,
Tội lỗi gì y thú nhận mau Ðã khiến Cọp nghi ngờ đại họa Xảy ra cho bạn quý ta nào?
Ðể trả lời Sư tử, Cọp chúa ngâm
các vần kệ còn lại
7.
Trong nước Kà-ling nó bán rong
Ði đường lởm chởm, gậy tay cầm, Ở cùng bọn đánh đu nhào lộn, Ðánh bẫy bao súc vật buộc chùm, Nó cũng thường chơi trò súc sắc, Lưới giăng bắt sống lũ chim muông, Ðánh nhau từng đám dùng đao trượng, Nó kiếm lời nhờ việc đếm đong. 8. Phản bội lời thề, đánh nữa khuya, Bị thương, nó chảy máu dầm dề; Bàn tay nó cháy vì gan góc, Chụp lấy thức ăn nóng vụng về Nghe nó sống đời tồi tệ vậy, Ðó là tội ác chất đầu kia. 9. Vì ta đều biết con bò chết, Giữa tóc người kia mấy sợi lông Xuất hiện, nên tôi đầy khủng khiếp Lo Gà gô bạn ắt vong thân.
Sư tử chúa hỏi người kia:
- Thế anh đã giết Gà gô thông
thái rồi ư?
- Tâu chúa công, vâng, tôi đã
giết.
Chúa Sư tử nghe y nói thật, nên
muốn thả cho y ra đi, nhưng Cọp chúa bảo:
- Tên gian ác này đáng chết.
Và ngay tại chỗ, Cọp dùng răng xé
y tan xác. Rồi Cọp đào hố quẳng thây vào đó.
Khi các thanh niên Bà-la-môn trở
về, không thấy Gà gô, họ than khóc và bỏ nơi ấy ra đi.
*
Sau Pháp thoại, bậc Ðạo Sư bảo:
- Như vậy, này các Tỷ-kheo, ngày
xưa Devadatta cũng đã lập mưu giết Ta.
Rồi Ngài nhận diện Tiền thân:
- Thời ấy vị khổ hạnh là
Devadatta, con Tắc kè là Kisàgotamì, con Cọp là Moggallàna, Sư tử là
Sàriputta, vị giáo sư lừng danh thế giới là Kassapa và Gà gô thông thái chính
là Ta.
-ooOoo-
|
0 Komentar