Chương XI
Phẩm Mười Một Bài Kệ
Phẩm Mười Một Bài Kệ
455.
Chuyện Voi Hiếu Dưỡng Mẹ (Tiền thân Màti-Posaka)
Cho dù
voi chúa phải đi xa...,
Chuyện
này Bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỳ kheo còn mẹ phải cấp
dưỡng.
Hoàn
cảnh chuyện này cũng giống như chuyện Sàma (số 540 tập VI). Trong dịp này Bậc
Ðạo Sư nói chuyện với chúng Tăng, Ngài bảo:
- Này
các Tỷ kheo, chớ giận Tỳ kheo này. Ngày xưa, bậc hiền nhân, ngay cả lúc sinh ra
từ bụng của loài vật, và cách xa mẹ mình cũng không chịu ăn uống gì trong bảy ngày, cứ
gầy héo mỏi mòn. Dù được cung cấp đồ ăn vương giả, họ cũng chỉ đáp: "Không
có mẹ ta thì ta không muốnăn". Tuy thế, lúc gặp lại mẹ, họ mới chịu ăn như
trước.
Nói vậy
xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Một
thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát được sinh làm Ðại tượng vương ở vùng Tuyết Sơn.
Toàn thân Voi màu trắng rất hùng vĩ, là chúa đàn gồm tám mươi ngàn con voi vây quanh ngài, song mẹ ngài bị mù.
Ngài thường đưa cho bầy voi những
quả rừng thật ngon để đem về dâng mẹ, tuy thế, chúng chẳng đem gì về dâng voi
mẹ, mà chúng ăn hết. Khi ngài hỏi
thăm và biết được việc ấy, ngài bảo:
-
Ta muốn rời đàn để nuôi mẹ ta.
Thế
là một đêm thuận lợi, bầy voi
không hay biết ngài đưa mẹ đi đến đỉnh núi
Candorana (Chiên-đồ-gia), tại đó ngài để mẹ ở trong một hang dưới đồi, gần một hồ nước và nuôi nấng mẹ
rất chuđáo.
Bấy
giờ, một người thợ rừng ở Ba-la-nại đi lạc đường và không thể nào tìm lối ra được nên bắtđầu than khóc ầm ĩ. Nghe tiếng này
Bồ-tát thầm nghĩ: "Ðó là một người đang cơn hoạn nạn, khi ta đang ở đây mà gã gặp tai họa thật chẳng
phải lẽ". Vì vậy ngài đến gần gã, nhưng gã bỏ
chạy vì quá sợ hãi; thấy thế, chúa Voi bảo gã:
-
Này người kia, anh không cần phải sợ ta, đừng chạy trốn, hãy nói tại sao anh vừa đi vừa khóc thế?
-
Tâu chúa tể, kẻ hèn này bị lạc đường đã bảy ngày qua.
Chúa
Voi đáp:
-
Anh đừng sợ nữa, và ta sẽ đưa anh ra đường đi của dân chúng.
Sau đó ngài bảo người ấy leo lên ngồi trên lưng ngài
và đưa gã ra khỏi rừng, xong ngài quay về.
Còn
con người độc ác kia quyết vào
thành phố báo tin cho vua biết. Vì thế gã đánh dấu các cây cối, các ngọn đồi, rồi tiến về Ba-la-nại. Lúc ấy
vương tượng của hoàng đế vừa từ trần. Ngài cho
truyền lệnh bằng một hồi trống:
-
Nếu kẻ nào thấy ở đâu có con voi xứng đáng
để hoàng thượng ngự du thì hãy báo ngay.
Sau đó gã kia đến triều kiến vua và tâu:
-
Tâu Chúa thượng, tiểu thần đã thấy một con Voi
tuyệt mỹ, toàn thân màu trắng, một vật tối thắng xứng đáng để Chúa thượng ngự lên. Tiểu thần xin chỉ đường. Nhưng xin đưa các người quản tượng đi
theo để bắt Voi.
Vua
chấp thuận, bảo một người thợ rừng cùng đi với gã ấy và một đoàn tùy tùng lên đường.
Người
thợ cùng đi với gã và trông thấy
Bồ-tát đang ăn uống trong một
hồ nước. Khi Bồ tát thấy gã thợ rừng, ngài nghĩ: "Hiểm họa này chắc chắn
không phát xuất từ ai khác, ngoài kẻ kia. Nhưng Ta rất mạnh, ta có thể đánh tan tành cả ngàn con voi trong lúc thịnh
nộ, ta lại đủ sức tiêu diệt cảđàn
voi ra trận của một vương quốc. Tuy nhiên nếu ta bị lòng phẫn nộ chi phối thì
công đức của ta sẽ bị tổn hại. Vì vậy hôm nay ta sẽ
không nổi giận, cho dù có bị gươm giáo đâm vào da thịt". Với quyết đinh này, ngài cúi đầu đứng bất động.
Người
thợ rừng bước xuống hồ sen, khi thấy vẻ tuyệt mỹ của các chóp ngà voi, gã bảo:
-
Này con, hãy đến đây.
Rối
nắm lấy cái vòi giống như sợi dây thừng bằng bạc, gã dẫn voi về thành Ba-la-nại
trong vòng bảy ngày.
Khi
mẹ Bồ Tát thấy con mình không trở về, bà đoán chắc hẳn ngài bị quan quân nhà vua bắt rồi, và bà than khóc:
-
Giờ đây cây cối vẫn mọc, nhưng con ta đã đi xa rồi.
Và
bà đã ngâm hai vần kệ sau:
1. Dù cho Voi chúa phải đi xa,
Dược thảo, nhũ hương vẫn mọc ra,
Lúa cỏ, trúc đào, cùng súng trắng,
Kén xanh chỗ khuất vẫn đơm hoa.
2. Tượng vương hẳn đến tận phương nao
Sung túc nhờ bao kẻ tước cao,
Trang điểm ngọc vàng, vua chúa cỡi,
Oai hùng thắng địch thủ mang bào.
Dược thảo, nhũ hương vẫn mọc ra,
Lúa cỏ, trúc đào, cùng súng trắng,
Kén xanh chỗ khuất vẫn đơm hoa.
2. Tượng vương hẳn đến tận phương nao
Sung túc nhờ bao kẻ tước cao,
Trang điểm ngọc vàng, vua chúa cỡi,
Oai hùng thắng địch thủ mang bào.
Bây
giờ người luyện voi kia, đang lúc còn đang đi đường đã gửi về triều một tờ sớ dâng
vua. Nhà vua liền ra lệnh cả kinh thành trang hoàng thật lộng lẫy. Người luyện
voi dẫn Bồ tát vào một cái chuồng được tô điểm bằng các dây tua, tràng hoa và vây quanh mỗi bức màn đủ màu rực rỡ, xongđến trình vua. Vua mang các
món cao lương mỹ vị ra bảo đưa cho Bồ Tát, nhưng
ngài không ăn chút gì cả:
-
Nếu không có mẹ ta, ta không muốn ăn gì đâu.
Vua
van nài ngài ăn, và ngâm vần kệ thứ
ba:
3. Nào ăn đi một miếng, Voi này,
Ðừng có buồn chi, chớ héo gầy,
Ðể phụng sự vua, còn lắm việc
Mà Voi sẽ đảm trách sau này.
Ðừng có buồn chi, chớ héo gầy,
Ðể phụng sự vua, còn lắm việc
Mà Voi sẽ đảm trách sau này.
Nghe
vậy Bồ Tát ngâm vần kệ thứ tư:
4. Không, trên đỉnh núi Chiên-đồ-gia,
Khốn khổ bà kia, mắt lại lòa,
Dậm một chân vào gốc cổ thụ
Vì không Voi chúa, ấy con bà.
Khốn khổ bà kia, mắt lại lòa,
Dậm một chân vào gốc cổ thụ
Vì không Voi chúa, ấy con bà.
Vua
ngâm vần kệ thứ năm để hỏi ý nghĩa lời ngài:
5. Ai ở trên đồi Chiên-đồ-gia,
Nào ai khốn khổ, lại mù lòa?
Dậm chân vào một gốc cây nọ,
Vì chẳng chúa Voi, con của bà?
Nào ai khốn khổ, lại mù lòa?
Dậm chân vào một gốc cây nọ,
Vì chẳng chúa Voi, con của bà?
Voi đáp lời qua vần kệ thứ sáu:
6. Mẹ ta ở trên núi Chiên-đồ gia,
Khốn khổ mù lòa thật xót xa,
Dậm một chân vào gốc cổ thụ,
Bởi vì Voi chúa ấy là ta.
Khốn khổ mù lòa thật xót xa,
Dậm một chân vào gốc cổ thụ,
Bởi vì Voi chúa ấy là ta.
Khi
nghe nói vậy, vua liền cho ngài được tự do, và ngâm vần
kệ thứ bảy:
7. Voi hùng phụng dưỡng mẫu thân mình,
Nên thả tự do, cứ mặc tình,
Thôi để Voi đi về với mẹ
Và cùng sum họp với gia đình.
Nên thả tự do, cứ mặc tình,
Thôi để Voi đi về với mẹ
Và cùng sum họp với gia đình.
Vần
kệ thứ tám và thứ chín xuất phát từ Trí tuệ Tối thắng của đức Phật.
8. Khỏi cảnh giam cầm được thoát thân,
Hết dây ràng buộc, chúa Voi rừng,
Vài lời khuyên nhủ cùng vua ấy,
Voi lại trở về chốn núi ngàn.
9. Rồi xuống hồ kia mát lạnh trong,
Nơi này Voi vẫn tới bao lần,
Dùng vòi hút nước từ hồ ấy
Tung vẫy khắp mình của mẫu thân.
Hết dây ràng buộc, chúa Voi rừng,
Vài lời khuyên nhủ cùng vua ấy,
Voi lại trở về chốn núi ngàn.
9. Rồi xuống hồ kia mát lạnh trong,
Nơi này Voi vẫn tới bao lần,
Dùng vòi hút nước từ hồ ấy
Tung vẫy khắp mình của mẫu thân.
Nhưng
mẹ của Bồ Tát tưởng là trời bắt đầu mưa, nên ngâm vần kệ
thứ mười để trách cơn mưa:
10. Ai đó đem mưa thật trái thời,
Thần nào độc ác quá, trời ơi!
Vì nay con trẻ đà đi vắng,
Con trẻ xưa thường phụng dưỡng tôi.
Thần nào độc ác quá, trời ơi!
Vì nay con trẻ đà đi vắng,
Con trẻ xưa thường phụng dưỡng tôi.
Lúc
ấy Bồ tát ngâm vần kệ thứ mười một để trấn an mẹ:
11. Sao mãi nằm kia vậy, mẹ ơi!
Này đây con mẹ đã về rồi,
Ca-thi Ðại đế, ngài Thông tuệ,
Cho trẻ bình an được tái hồi.
Này đây con mẹ đã về rồi,
Ca-thi Ðại đế, ngài Thông tuệ,
Cho trẻ bình an được tái hồi.
Bà
mẹ liền đáp lời, cảm tạ vua qua
vần kệ cuối cùng:
12. Vạn tuế trường tồn, đấng Ðại vương!
Cầu ngài đem lại nước hùng cường,
Tự do ngài trả cho con đó,
Với mẹ, con tròn vẹn kính thương!
Cầu ngài đem lại nước hùng cường,
Tự do ngài trả cho con đó,
Với mẹ, con tròn vẹn kính thương!
Vua
rất hoan hỷ vì đức độ của Bồ tát nên ra
lệnh xây một thị trấn không xa hồ ấy và vua thườngđến phụng sự Bồ Tát cùng mẹ
ngài. Sau đó, khi mẹ ngài từ trần,
ngài đi thật xa đến một tinh xá tên là Karandaka. Tại đây có năm trăm bậc trí giả an trú và vua thường đến cúng dường các ngài. Vua lại truyền tạc một
tượng bằng đá có hình Bồ tát và
thường đến chiêm bái để tỏ lòng ngưỡng mộ ngài. Dần dần dân chúng
khắp cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ) tụ tập lại đó cùng nhau cử hành ngày hội gọi là hội Voi.
*
Khi Bậc
Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại, Ngài tuyên thuyết các Sự thật. Bấy giờ lúc kết thúc
các Sự thật, Tỳ kheo phụng dưỡng mẹ đã được an trú vào Sơ quả Dự lưu.
Rồi
Ngài nhận diện tiền thân:
- Vào
thời ấy Ànanda là nhà vua, mẫu hậu Mahàmàyà là mẹ Voi và chính Ta là chúa Voi đã nuôi dưỡng mẹ mình.
-ooOoo-
456.
Chuyện Vương Tử Nguyệt Quang (Tiền thân Junha)
Tâu Ðại
vương nghe lão nói điều này...,
Chuyện
này Bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ viên, về các đặc ân mà Tôn Giả Ànanda
nhậnđược.
Suốt
trong hai mươi năm đầu Ngài chứng đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, các thị
giả đức Thế Tôn không phải chỉ là một người: Khi thì Tôn giả Nàgasamàla, khi
thì Tôn giả Nàgita, Upavàna, Sunakkhatta, Cunda, Sàgala, khi thì Meghiya hầu hạ
đức Thế Tôn. Một ngày kia, đức Thế Tôn bảo các Tỳ kheo:
- Này
các Tỳ kheo, nay Ta đã già, và khi Ta bảo chúng ta hãy đi đường này, vài người trong
Tăng chúng lại đi đường khác, có người làm rơi bình bát và y của ta xuống đường. Vậy hãy chọn một Tỳ kheo
luôn luôn hầu cận ta.
Sau đó, Tăng chúng đồng đứng lên,
bắt đầu với Tôn giả Sàriputta (Xá-lợi-phất), và chấp hai tay lên đầu nói lớn:
- Bách
Thế Tôn, con xin hầu hạ Thế Tôn, con muốn hầu hạ Thế Tôn.
Nhưng
ngài từ chối trả lời:
- Lời
thỉnh cầu của các ông đã được ta biết trước, thôi đủ rồi.
Sau đó Tăng chúng nói với Tôn giả Ànanda:
- Này
Hiền giả, Hiền giả hãy xin giữ chức vụ thị giả.
Tôn giả đáp:
- Nếu đức Thế Tôn sẽ không ban cho ta
chiếc y mà chính Ngài đã nhận, nếu Ngài sẽ không ban cho ta đồ ăn khất thực của Ngài, nếu
Ngài sẽ không cho phép ta ở cùng trong Hương phòng, nếu Ngài sẽ không muốn cho
ta cùng Ngài đi đến nơi Ngài được mời. Nhưng nếu đức Thế Tôn sẽ đi với ta đến
nơi mà ta được mời, nếu ta sẽ được phép giới thiệu hội chúng vào lúc
hội chúng từ các vùng xa xôi hay các nước ngoài đến yết kiến đức Thế Tôn, nếu
ta sẽ được gặp đức Thế Tôn khi có nghi vấn khởi lên, hoặc nếu bất cứ khi nào đức Thế Tôn thuyết Pháp mà ta
vắng mặt thì ngài sẽ thuyết Pháp lại cho ta ngay lúc trở về: Thế thì ta sẽ hầu
hạ đức Thế Tôn.
Tôn giả
cầu xin tám đặc ân này, bốn điều "không" và bốn điều "có" và đức Thế Tôn ban tất cả cho Tôn
giả. Sau đó Tôn giả thường xuyên hầu hạ Bậc Ðạo Sư trong hai mươi lăm năm liền.
Vì vậy sau khi đã đạt được năm đức tính xuất sắc và sau khi thành tựu bảy phúc
lạc " Phúc lạc về Ðạo pháp, phúc lạc về sự giáo hóa, phúc lạc về sự tuệ
tri các nhân duyên, phúc lạc về sự quán sát công đức của mình, phúc lạc vì được ở trong một Thánh chúng,
phúc lạc về nhiệt tâm tinh cần được khai sáng, phúc lạc về khả năng đạt giác
ngộ. Vào hầu cận đức Phật, Tôn giả nhận được tám đặc ân và trở nên danh tiếng
trong Giáo pháp của đức Phật, Tôn giả sáng chói chẳng khác nào mặt trăng trên bầu
trời.
Một
ngày kia Tăng chúng bắt đầu nói đến chuyện ấy trong Chánh pháp đường:
- Này
hiền hữu, đức Như Lai đã làm thỏa nguyện Tôn giả Ànanda bằng cách ban
các điều ước của Tôn giả.
Bậc Ðạo
Sư đi vào và hỏi:
- Này
các Tỳ kheo, các ông đang nói chuyện gì trong khi ngồi ở đây?
Tăng
chúng thưa với Ngài. Sau đó Ngài bảo:
- Không
phải đây là lần đầu tiên, này các Tỳ kheo, mà thuở xưa cũng như
bây giờ Ta đã làm thỏa nguyện Ànanda với một đặc ân; ngày xưa cũng như bây
giờ, bất cứ điều gì ông muốn xin, Ta đều ban cho cả.
Nói vậy
xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Một
thuở nọ khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, một vương tử của ngài là Junha
hay Nguyệt Quang Vương tử đang theo học tại
Takkasilà.
Một đêm kia, sau khi lắng nghe kỹ lưỡng lời dạy bảo của
vị giáo sư, chàng từ giã nhà của thầy trong đêm tối và lên đường về nhà. Một
Bà-la-môn đã đi khất thực, và đang trên đường về nhà, còn vương tử vì không thấy vị này, nên chạy đến đụng vào Bà-la-môn ngã xuống và kêu lên.
Chàng động lòng thương liền quay lại, cầm lấy hai tay
vị kia và đỡ dậy. Vị Bà-la-môn
nói:
-
Này con, con đã làm vỡ bình bát của
ta, vậy hãy cho ta tiền mua một bữa ăn.
Vương
tử đáp:
-
Thưa Tôn giả Bà-la-môn, bây giờ tiểu sinh không thể cho ngài tiền bữa ăn được; nhưng tiểu sinh là vương tử Junha, con
vua xứ Kàsi, khi tiểu sinh về vương quốc, ngài có thể gặp tiểu sinh và xin số
tiền ấy.
Khi
chàng trai hoàn tất việc học tập, chàng tạ từ thầy dạy và trở về Ba-la-nại,
trình vua cha việc học tập của chàng.
-
Trẫm đã thấy được con trước khi từ trần - vua phán - và muốn thấy con trẫm lên
ngôi.
Sau đó ngài làm lễ quán đảnh cho con và phong chàng lên ngôi vua. Với
danh hiệu Ðại vương Junha, vương tử cai trị rất chân chánh.
Khi
vị Bà-la-môn hay tin ấy, ông nghĩ rằng giờ đây mình có thể lấy lại tiền bữa ăn rồi. Thế là ôngđến Ba-la-nại, thấy toàn thể
kinh thành được trang hoàng rực rỡ
và vua đang ngự du trong đám
rước rất uy nghi hướng về phía hữu, diễu quanh kinh thành. Ðứng trên một chỗ
cao, vị Bà-la-môn giơ tay kêu lớn:
-
Ðại vương toàn thắng!
Vua đi qua mà không nhìn thấy ông. Khi vị Bà-la-môn
thấy mình không được chú ý, liền ngâm
một vần kệ để xin ngài giải thích:
1. Tâu Ðại vương, nghe lão nói điều này
Chẳng phải là vô cớ lão về đây,
Ðời thường bảo: Mình không nên vượt quá
Người du sĩ đứng ngay trên đường sá.
Chẳng phải là vô cớ lão về đây,
Ðời thường bảo: Mình không nên vượt quá
Người du sĩ đứng ngay trên đường sá.
Khi
nghe những lời này, vua thúc vương tượng quay lại với cái gậy nạm ngọc của ngài
và ngâm vần kệ thứ hai:
2. Ta đứng nghe, này Ðạo sĩ nói ngay,
Cớ sao ngài cất bước đến nơi đây?
Ngài ao ước một đặc ân nào đó,
Mà phải tìm, xin nói cho ta rõ.
Cớ sao ngài cất bước đến nơi đây?
Ngài ao ước một đặc ân nào đó,
Mà phải tìm, xin nói cho ta rõ.
Và
câu chuyện của vua và vị Bà-la-môn hỏi đáp lẫn nhau được kể lại trong các vần kệ sau đây:
Bà-la-môn:
3. Xin cho lão năm ngôi làng thượng hạng,
Bảy trăm bò, tỳ nữ một trăm nàng,
Hơn một ngàn đồ trang sức bằng vàng,
Hai người vợ với ta cùng dòng dõi.
Bảy trăm bò, tỳ nữ một trăm nàng,
Hơn một ngàn đồ trang sức bằng vàng,
Hai người vợ với ta cùng dòng dõi.
Quốc
vương:
4. Ðạo sĩ ơi, ngài có điều sám hối
Thật hãi hùng khi phải thổ lộ ra,
Ngài có nhiều thần chú hoặc đạo bùa,
Hay ma quỷ sẵn sàng tuân mệnh lệnh?
Hoặc thỉnh cầu vì hầu ta chân chính?
Thật hãi hùng khi phải thổ lộ ra,
Ngài có nhiều thần chú hoặc đạo bùa,
Hay ma quỷ sẵn sàng tuân mệnh lệnh?
Hoặc thỉnh cầu vì hầu ta chân chính?
Bà-la-môn:
5. Không ăn năn, chẳng thần chú, đạo bùa,
Không quỷ ma nào tuân lệnh của ta,
Không đòi thưởng vì công lao giúp đỡ,
Song trước kia chúng ta đà gặp gỡ,
Ðây chính là sự thật phải trình ra.
Không quỷ ma nào tuân lệnh của ta,
Không đòi thưởng vì công lao giúp đỡ,
Song trước kia chúng ta đà gặp gỡ,
Ðây chính là sự thật phải trình ra.
Quốc
vương:
6. Trẫm không sao nhớ nổi, thời gian qua,
Rằng trẫm đã tương phùng ngài thuở nọ,
Trẫm van ngài nói điều này cho rõ
Khi gặp nhau, nơi chốn, thuở xưa xa?
Rằng trẫm đã tương phùng ngài thuở nọ,
Trẫm van ngài nói điều này cho rõ
Khi gặp nhau, nơi chốn, thuở xưa xa?
Bà-la-môn:
7. Trong thành đô mỹ lệ chúa Gan-dhà,
Tâu Chúa thượng, Tak-ka là chốn ở,
Ðêm tối đen như mực kia, tại đó
Lão và ngài cùng vụt tới chạm vai,
8. Khi chúng ta đang đứng đó, thưa ngài,
Cuộc trò chuyện bắt đầu đầy thân thiện,
Chỉ lần đó chúng ta cùng diện kiến,
Trước chẳng hề và sau đó cũng không.
Tâu Chúa thượng, Tak-ka là chốn ở,
Ðêm tối đen như mực kia, tại đó
Lão và ngài cùng vụt tới chạm vai,
8. Khi chúng ta đang đứng đó, thưa ngài,
Cuộc trò chuyện bắt đầu đầy thân thiện,
Chỉ lần đó chúng ta cùng diện kiến,
Trước chẳng hề và sau đó cũng không.
Quốc
vương:
9. Khi trí nhân đã gặp, hỡi La-môn,
Thiện nhân giữa đời không nên để mặc
Tình bạn xưa nay cố nhân đi khuất,
Chẳng vì đâu, làm việc cũ chẳng quên!
10. Chính kẻ ngu chối bỏ việc xưa liền.
Và bỏ mặc tình người xưa chẳng nhớ
Những người ấy chúng có lần gặp gỡ;
Người ngu làm nhiều việc chẳng ra gì,
Chúng vong ân và chúng cứ quên đi.
11. Song chánh nhân chẳng hề quên quá khứ,
Tình bằng hữu, người quen, luôn gắn bó,
Việc nhỏ nhoi do bằng hữu làm nên
Cũng chẳng hề bị từ chối, lãng quên,
Chánh nhân tận cuối đời ghi ơn bạn.
12. Trẫm ban cố nhân năm làng thượng hạng,
Bảy trăm bò, nữ tỳ một trăm nàng,
Hơn một ngàn đồ trang sức bằng vàng,
Hai người vợ, với ngài cùng đẳng cấp.
Thiện nhân giữa đời không nên để mặc
Tình bạn xưa nay cố nhân đi khuất,
Chẳng vì đâu, làm việc cũ chẳng quên!
10. Chính kẻ ngu chối bỏ việc xưa liền.
Và bỏ mặc tình người xưa chẳng nhớ
Những người ấy chúng có lần gặp gỡ;
Người ngu làm nhiều việc chẳng ra gì,
Chúng vong ân và chúng cứ quên đi.
11. Song chánh nhân chẳng hề quên quá khứ,
Tình bằng hữu, người quen, luôn gắn bó,
Việc nhỏ nhoi do bằng hữu làm nên
Cũng chẳng hề bị từ chối, lãng quên,
Chánh nhân tận cuối đời ghi ơn bạn.
12. Trẫm ban cố nhân năm làng thượng hạng,
Bảy trăm bò, nữ tỳ một trăm nàng,
Hơn một ngàn đồ trang sức bằng vàng,
Hai người vợ, với ngài cùng đẳng cấp.
Bà-la-môn:
13. Ðại vương ôi, khi thiện nhân hòa hợp,
Như trăng rằm ta thấy giữa sao trời,
Như ta đây cũng vậy, Chúa công ôi,
Vì ngài đã giữ lời xưa giao ước.
Như trăng rằm ta thấy giữa sao trời,
Như ta đây cũng vậy, Chúa công ôi,
Vì ngài đã giữ lời xưa giao ước.
Bồ
tát liền tỏ thêm niềm quý trọng đối với đạo sĩ kia.
*
Khi Bậc
Ðạo Sư đã chấm dứt Pháp thoại này. Ngài bảo:
- Này
các Tỳ kheo, đây không phải là lần đầu Ta làm Ànanda thỏa nguyện
với các đặc ân, mà Tađã làm như vậy ngày xưa nữa.
Cùng
các lời này, Ngài nhận diện tiền thân:
- Vào
thời ấy Ànanda là vị Bà-la-môn, và Ta chính là vua.
-ooOoo-
457.
Chuyện Thiên Tử Chánh Pháp (Tiền thân Dhamma)
Ta hành
chánh hạnh giữa trần gian...,
Chuyện
này Bậc Ðạo Sư kể trong khi trú tại Kỳ Viên về việc Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) bị
nuốt vào lòng đất như thế nào.
Tăng
chúng tụ tập trong Chánh pháp đường đàm luận:
- Này
Hiền hữu, Ðề-bà-đạt-đa sinh lòng thù nghịch với đức Như Lai và đã bị nuốt vào lòng đất.
Bậc Ðạo
Sư đi vào hỏi Tăng chúng đang nói chuyện gì lúc ngồi ở đó. Tăng chúng trình với Ngài.
Ngài đáp:
- Này
các Tỳ kheo, nay kẻ ấy bị nuốt vào lòng đất vì đã giáng một đòn chống lại quyền lực vinh
quang của Ta, song ngày xưa kẻ ấy đã chống lại uy quyền của lẽ phải, nên đã bị nuốt vào lòng đất và đọa vào địa ngục.
Nói vậy
xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Một
thời nọ, khi vua Brahmadatta lên ngôi tại Ba-la-nại, Bồ tát được sinh vào cõi dục giới thiên làm một Thiên
tử, có tên là Dhamma hay Chánh pháp, đồng thời Ðề-bà-đạt-đa lại có tên
là Adhamma hay Tà pháp.
Vào
ngày trai giới trăng tròn, về buổi chiều khi cơm nước xong xuôi, dân chúng ngồi
vui vẻ trước sân nhà mình trong làng, ngoài phố hay kinh thành, Dhamma xuất
hiện trước mặt quần chúng,đứng vững trên không gian, cỡi chiếc thiên xa của
ngài và phục sức thiên y rực rỡ giữa hội chúng Thiên nữ, ngài dạy bảo như sau:
-
Ðừng đoạt mạng sống của mọi loài hữu tình và tránh
mười ác đạo, hãy làm tròn phận
sự phụng dưỡng cha mẹ, cùng tam nghiệp chân chánh (Chánh thân nghiệp, chánh
khẩu nghiệp, chánh ý nghiệp), nhờ thế các người sẽ được tái sinh lên thiên giới và hưởng mọi vinh
quang tuyệt diệu.
Như
vậy ngài khuyến cáo dân chúng hành trì Mười thiện đạo, và ngài diễu quanh cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ) một vòng thật uy nghiêm hướng về phía hữu.
Nhưng Adhamma lại dạy dân chúng:
-
Hãy sát sinh các loài hữu tình.
Và
như thế vị này đã xúi giục dân chúng
theo Mười ác đức và diễu quanh cõi
Diêm-phù-đề hướng về phía tả.
Lúc
bấy giờ thiên xa của hai vị đối diện nhau trên không
gian, và đám tùy tùng của hai vị
hỏi nhau:
-Các
ông là tùy tùng của ai? Và chúng đáp:
-
Chúng ta là tùy tùng của Dhamma.
-
Còn chúng ta là tùy tùng của Adhamma. Rồi chúng chiếm chỗ, làm cho lối đi được chia hai ra. Nhưng Dhamma bảo Adhamma:
-Này
Hiền giả, ngài là Adhamma và ta là Dhamma, ta đi về hướng phải, vậy hãy quay xe qua một bên
nhường lối cho ta.
Rồi
ngài ngâm vần kệ đầu:
1. Ta hành chánh hạnh ở trần gian,
Danh tiếng người đời được tặng ban,
Ðạo sĩ, hiền nhân, khen ngợi mãi,
Phần ta, đường Chánh, được tôn sùng,
Ðường ta là đó, ta chân chánh,
Tà pháp, vậy ngài hãy tránh đường.
Danh tiếng người đời được tặng ban,
Ðạo sĩ, hiền nhân, khen ngợi mãi,
Phần ta, đường Chánh, được tôn sùng,
Ðường ta là đó, ta chân chánh,
Tà pháp, vậy ngài hãy tránh đường.
Ðây
là các vần kệ tiếp theo:
Tà:
2-Trong chiếc hùng xa của pháp Tà,
Ngự trên ngôi báu ấy là ta,
Ðại hùng không kẻ làm kinh hãi,
Vì vậy ta không tự trước giờ
Nhường chỗ, sao nay đành nhượng bộ
Ðể cho Chánh pháp vượt xe qua?
Ngự trên ngôi báu ấy là ta,
Ðại hùng không kẻ làm kinh hãi,
Vì vậy ta không tự trước giờ
Nhường chỗ, sao nay đành nhượng bộ
Ðể cho Chánh pháp vượt xe qua?
Chánh:
3. Chánh pháp đã bày tỏ trước tiên,
Là Thần ưu thắng, bậc cao niên,
Tà pháp trẻ hơn vì đẻ muộn,
Hậu sinh nhường bước, lệnh bề trên!
Là Thần ưu thắng, bậc cao niên,
Tà pháp trẻ hơn vì đẻ muộn,
Hậu sinh nhường bước, lệnh bề trên!
Tà:
4. Dù ngài đức độ hoặc cầu xin,
Hoặc nếu công bình lẽ tự nhiên,
Ta quyết cũng không hề nhượng bộ,
Hôm nay ta dự đấu tranh liền,
Bất kỳ ai hễ giành ưu thắng,
Vị ấy được nhường chỗ trước tiên.
Hoặc nếu công bình lẽ tự nhiên,
Ta quyết cũng không hề nhượng bộ,
Hôm nay ta dự đấu tranh liền,
Bất kỳ ai hễ giành ưu thắng,
Vị ấy được nhường chỗ trước tiên.
Chánh:
5. Khắp cõi gần xa, ta nổi danh
Anh hùng vô địch, đại quang vinh,
Trong ta, hình thái này mang đủ
Tất cả công năng kết hợp thành,
Tà pháp này, ta là Chánh pháp,
Làm sao ngài chiến thắng phần mình?
Anh hùng vô địch, đại quang vinh,
Trong ta, hình thái này mang đủ
Tất cả công năng kết hợp thành,
Tà pháp này, ta là Chánh pháp,
Làm sao ngài chiến thắng phần mình?
Tà:
6. Nhờ sắt, mà vàng được đập ra,
Lấy vàng đập sắt, thấy bao giờ?
Nếu Tà đánh Chánh mà Tà thắng,
Sắt đẹp như vàng chẳng kém thua.
Lấy vàng đập sắt, thấy bao giờ?
Nếu Tà đánh Chánh mà Tà thắng,
Sắt đẹp như vàng chẳng kém thua.
Chánh:
7. Nếu ngài chiến đấu thật hùng cường,
Lời nói ngài dẫu chẳng thiện chơn,
Ta sẽ thứ tha lời ác ấy,
Và dù không muốn, phải nhường đường.
Lời nói ngài dẫu chẳng thiện chơn,
Ta sẽ thứ tha lời ác ấy,
Và dù không muốn, phải nhường đường.
Hai
vị ngâm sáu vần kệ trên để đối đáp lẫn nhau.
Nhưng vừa lúc Bồ tát ngâm vần kệ này, Adhamma không thể nào đứng trên xe được nữa, mà nhào đầu xuống đất đang há
miệng để nuốt vị ấy liền, và vị ấy tái sinh vào địa ngục.
*
Ðức
Thế Tôn vừa nhận thấy việc này xảy ra, Ngài liền ngâm các vần kệ cuối cùng phát
xuất từ Trí tuệ Tối thắng của Ngài:
8. Lời ấy vừa nghe tự cõi cao,
Pháp Tà kia đã ngã lăn nhào,
Kinh hoàng số phận cho Tà pháp,
Dù muốn, ta không đánh trận nào.
9. Vậy pháp Tà khiêu chiến bạo hung,
Bại vì Ðại sĩ lượng khoan dung,
Chết vì bị nuốt vào lòng đất,
Bậc Chánh chân an lạc, đại hùng,
Bảo vệ cho mình bằng chánh lý,
Ngự lên xa giá vội đằng vân.
10. Ở nhà ai chẳng kính song thân,
Giáo sĩ, hiền nhân, lúc mạng chung,
Thân hoại, bật tung dây trói buộc,
Từ đây kẻ ở chốn phàm trần
Thẳng vào địa ngục ngay, nào khác
Tà pháp kia nhào xuống ngã lăn.
11. Ở nhà ai kính trọng song thân,
Giáo sĩ, hiền nhân, lúc mạng chung,
Thân hoại, bật tung dây trói buộc,
Cõi Thiên thẳng tiến tự phàm trần,
Như ngài Chánh pháp trên xa giá
Ði đến cung trời của thiện nhân.
Pháp Tà kia đã ngã lăn nhào,
Kinh hoàng số phận cho Tà pháp,
Dù muốn, ta không đánh trận nào.
9. Vậy pháp Tà khiêu chiến bạo hung,
Bại vì Ðại sĩ lượng khoan dung,
Chết vì bị nuốt vào lòng đất,
Bậc Chánh chân an lạc, đại hùng,
Bảo vệ cho mình bằng chánh lý,
Ngự lên xa giá vội đằng vân.
10. Ở nhà ai chẳng kính song thân,
Giáo sĩ, hiền nhân, lúc mạng chung,
Thân hoại, bật tung dây trói buộc,
Từ đây kẻ ở chốn phàm trần
Thẳng vào địa ngục ngay, nào khác
Tà pháp kia nhào xuống ngã lăn.
11. Ở nhà ai kính trọng song thân,
Giáo sĩ, hiền nhân, lúc mạng chung,
Thân hoại, bật tung dây trói buộc,
Cõi Thiên thẳng tiến tự phàm trần,
Như ngài Chánh pháp trên xa giá
Ði đến cung trời của thiện nhân.
*
Khi Bậc
Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại, Ngài bảo:
- Này
các Tỳ kheo, không phải chỉ bây giờ, mà cả ngày xưa nữa, Ðề-bà-đạt-đa đã tấn
công Ta vàđã bị nuốt vào lòng đất.
Rồi
Ngài nhận diện tiền thân:
- Vào
thời ấy, Ðề-bà-đạt-đa là Adhamma (Tà pháp), đám tùy tùng của Tà pháp này là
tùy tùng của Ðề-bà-đạt-đa, còn ta là Dhamma (Chánh pháp) và các đệ tử của đức Phật là đám tùy tùng của Dhamma vậy.
-ooOoo-
458.
Chuyện Vua Thiện Lai (Tiền thân Udaya)
Dung
sắc nàng trong sáng, vẹn toàn...,
Chuyện
này Bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỳ kheo thối thất.
Trường
hợp này sẽ được giải thích trong Tiền Thân Kusa (số 531 tập VI). Bậc Ðạo Sư hỏi người này:
- Này
Tỳ kheo, có đúng là ông thối thất như Tăng chúng bảo chăng?
Người
ấy đáp:
- Thưa
vâng, bạch Thế Tôn.
Ngài
nói:
- Này Tỳ
kheo, tại sao ông lại thối thất trong Giáo pháp như Giáo pháp của Ta đưa đến giải thoát, mà tất cả
chỉ vì tham dục?
Các bậc
trí nhân ngày xưa, từng làm vua tại Surundha, một kinh thành phồn thịnh rộng
mười hai dặm mỗi bề, dù suốt cả bảy trăm năm sống cùng phòng với một nữ nhân
diễm lệ như Thiên nữ, cũng không hề bị lôi cuốn vào dục vọng, thậm chí cũng
chẳng bao giờ đưa mắt nhìn nàng với lòng ham muốn cả.
Nói vậy
xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Một
thuở nọ, khi vua Kàsi đang trị vì quốc độ Kàsi, ỏ kinh thành Surundha, ngài không có
con cái gì cả. Vì thế ngài ra lệnh cho các vương phi cầu tự. Bấy giờ Bồ tát từ
cõi Phạm thiên xuống nhập vào mẫu thai của chánh hậu. Và do ngài sinh ra đời làm vui lòng đại chúng nên được đặt tên là Udayabhadda, tức Thiện Lai. Vào lúc vương nhi biết đi chập chững, thì một người khác xuất hiện ở đời này từ cõi Phạm thiên xuống nhập mẫu thai
làm công chúa của một bà vương phi khác và nàng cũng được đặt cùng tên ấy Udayabhaddà.
Khi
thái tử đến tuổi trưởng thành,
chàng tinh thông mọi ngành học thuật, và hơn nữa, chàng trong sáng đến độ chàng không biết gì về các hành động xác thịt, ngay cả trong các giấc mơ, tâm
chàng cũng không hướng đến ác dục. Vua cha ước
mong chàng cũng không lên ngôi báu với lễ quánđảnh phong vương huy hoàng, và
muốn diễn kịch để chàng giải trí, nên
ngài ra lệnh ngay. Nhưng Bồ tát đáp:
-
Con không thiết ngai vàng, lòng con không hướng về ác dục.
Chàng
cứ bị nài ép mãi, nhưng chàng đáp lại bằng cách bảo
tạc một tượng nữ nhân bằng vàng ròng, rồi trình lên song thân với lời tâu:
-
Khi nào hoàng nhi tìm được một nữ nhân như
vậy, hoàng nhi sẽ nhận ngôi báu.
Quần
thần đem bức tượng vàng đi khắp cõi Diêm-phù-đề, nhưng họ không tìm ra
nữ nhân nào giống như vậy cả, cuối cùng họ trang điểm cho nàng Udayabhadà thật lộng lẫy rồi đưa nàng ra so với bức tượng, dung sắc nàng còn
vượt xa khi nàng đứng cạnh nó. Thế là
quần thần đem gả nàng cho Bồ tát làm vương phi, dù cả hai vị đều không muốn, vì nàng chính là công chúa
Udayabhaddà, em ruột cùng cha khác mẹ với ngài, rồi quần thần lại làm lễ quán đảnh phong vương cho ngài.
Cả
hai vị cùng nhau sống một cuộc đời thanh tịnh, không
vướng dục tình. Theo thời gian, khi song thân qua đời, Bồ-tát trị vì vương quốc. Hai vị ở chung
phòng, nhưng từ bỏ dục vọng, đến độ không bao giờ
nhìn nhau với vẻ ham muốn. Không những thế, hai vị còn ước nguyền rằng, nếu một
trong hai vị từ trần trước, thì sẽ trở lại gặp vị kia từ cõi mới tái sinh, để báo tin: "Ta đã tái sinh ở nơi
kia".
Thời
bấy giờ lúc làm lễ quán đảnh, Bồ-tát sống bảy
trăm năm rồi từ trần. Vì không có vua nào nối ngôi, nên có lệnh của tiên đế Udayabhadda ban bố rằng triều đình phải lo
trị nước. Bồ-tát đã trở thành Sakka (Ðế
Thích) Thiên chủ trên cõi Trời ba mươi ba, và do cảnh vinh quang này quá huy
hoàng, nên ngài không nhớ đến đời trước trong vòng
bảy ngày. Thế là sau bảy trăm năm theo ước tính của loài người, ngài nhớ lại và
tự nhủ: "Ta muốn trở về gặp công chúa Udayabhaddà và sẽ thử lòng nàng bằng
vàng bạc quý, rồi rống lên tiếng rống sư tử, ta sẽ thuyết giáo, như thế là ta thành
tựu lời nguyện ước xưa".
Vào
thời ấy, chuyện kể rằng, đời sống con người kéo
dài được mười ngàn năm. Bấy giờ, vào banđêm cửa cung
khóa chặt, quân canh đã được bố trí cẩn mật, và công chúa đang ngồi yên lặng một mình trong cung điện nguy nga ở lầu thượng, suy tư về công hạnh
của nàng. Lúc ấy, Ðế Thích Thiên chủ cầm một chiếc dĩa vàng đựng đầy tiền vàng và xuất hiện trong khuê phòng
trước mặt nàng, rồi đứng ra một bên. Ngài
bắt đầu ngâm vần kệ thứ nhất với nàng:
1. Dung sắc nàng trong sáng, vẹn toàn,
Nàng ngồi lầu thượng, dáng cô đơn,
Diễm kiều, trông tựa như Thiên nữ,
Xin được đêm nay ở với nàng.
Nàng ngồi lầu thượng, dáng cô đơn,
Diễm kiều, trông tựa như Thiên nữ,
Xin được đêm nay ở với nàng.
Công
chúa đáp lời này qua hai vần kệ sau:
2. Thành này tường bọc, lũy đào sâu,
Việc đến gần đây khó biết bao,
Trong lúc tháp cao và lũy rộng,
Canh phòng đoàn kết với cung đao.
3. Chẳng bầy niên thiếu, bậc anh hùng
Có thế vào đây được dễ dàng,
Hãy nói, việc gì là có sự
Cùng ta gặp gỡ chốn thâm cung?
Việc đến gần đây khó biết bao,
Trong lúc tháp cao và lũy rộng,
Canh phòng đoàn kết với cung đao.
3. Chẳng bầy niên thiếu, bậc anh hùng
Có thế vào đây được dễ dàng,
Hãy nói, việc gì là có sự
Cùng ta gặp gỡ chốn thâm cung?
Sau đó Ðế Thích Thiên chủ ngâm vần kệ thứ tư:
4. Ðại quý là Ta, hỡi tố nga,
Với nàng, ta xuất hiện bây giờ,
Ban ta ân huệ nàng, nương tử,
Ðây dĩa vàng, xin nhận của ta.
Với nàng, ta xuất hiện bây giờ,
Ban ta ân huệ nàng, nương tử,
Ðây dĩa vàng, xin nhận của ta.
Nghe
thế, công chúa liền ngâm vần kệ thứ năm:
5. Từ thuở Thiện Lai vĩnh biệt trần,
Ta không đòi, dẫu quý hay thần,
Hoặc người ở cạnh, này Thiên tử,
Ðừng đến nữa đây, chớ ở gần.
Ta không đòi, dẫu quý hay thần,
Hoặc người ở cạnh, này Thiên tử,
Ðừng đến nữa đây, chớ ở gần.
Nghe
giọng sư tử hống của nàng, Thiên chủ không còn đứng lại nữa, mà làm ra vẻ giã từ nàng rồi lập
tức biến mất. Hôm sau cũng vào giờ ấy, ngài cầm cái chén bạc đựng đầy tiền vàng và đến nói với nàng qua vần kệ thứ sáu:
6. Cực lạc cùng nhau biết rõ rành,
Hoàn toàn trọn vẹn giữa đôi tình,
Khiến người đời phạm bao điều ác,
Ôi quý nương, nàng chớ vội khinh!
Chén bạc, hãy nhìn, ta kính tặng,
Hỡi nàng, cười mỉm giá khuynh thành.
Hoàn toàn trọn vẹn giữa đôi tình,
Khiến người đời phạm bao điều ác,
Ôi quý nương, nàng chớ vội khinh!
Chén bạc, hãy nhìn, ta kính tặng,
Hỡi nàng, cười mỉm giá khuynh thành.
Lúc
ấy công chúa suy nghĩ: "Nếu ta cứ để vị kia nói mãi chuyện nhảm nhí, y sẽ đến hoài. Vậy ta không nói gì nữa với y".
Thế là nàng không nói thêm lời nào. Ðế Thích Thiên chủ thấy nàng không có gì để nói nữa, nên biến mất từ chỗ đứng.
Ngày
kế tiếp cũng vào giờ ấy, ngài cầm chén sắt đựng đầy tiền vàng và bảo:
-
Thưa công nương, nếu nàng ban cho ta tình yêu của nàng, ta sẽ tặng nàng chén
sắt đầy vàng này.
Khi
trông thấy ngài, công chúa ngâm vần kệ thứ bảy:
7. Nam nhi mong tán tỉnh hồng quần,
Ðem tặng vàng kia cứ mãi tăng,
Cho đến khi nàng chìu thỏa ý,
Nhưng ta xét cách của Thiên thần
Nơi ngài khác hẳn: nay ngài đến,
Tặng vật xem ra cứ giảm dần.
Ðem tặng vàng kia cứ mãi tăng,
Cho đến khi nàng chìu thỏa ý,
Nhưng ta xét cách của Thiên thần
Nơi ngài khác hẳn: nay ngài đến,
Tặng vật xem ra cứ giảm dần.
Khi
nghe những lời này, bậc Ðại Sĩ đáp:
-
Thưa công nương, ta là một kẻ đi buôn rất thận trọng.
Ta không phung phí của cải vô ích đâu. Nếu nàng tăng dần vẻ xuân sắc, ta sẽ
tăng số tặng vật cho nàng, nhưng sắc đẹp của nàng đang tàn tạ dần, vì thế
ta giảm dần số tặng vật đó thôi.
Nói
xong ngài ngâm ba vần kệ:
8. Ôi mỹ nhân, xuân sắc tàn phai,
Hỡi nàng thục nữ giữa trần ai,
Hôm nay nàng phải già hơn trước,
Nên số vàng ta tặng giảm hoài.
9. Vậy thưa nàng nữ chúa huy hoàng,
Trước mắt ta đang ngưỡng mộ nàng,
Trong lúc ngày đêm qua thấm thoắt,
Sắc nàng tươi đẹp sẽ phai tàn.
10. Song hỡi công nương trí tuyệt trần,
Nếu như nàng thuận ý bằng lòng,
Giữ gìn Thánh đạo và thanh tịnh,
Nàng sẽ luôn kiều diễm bội phần.
Hỡi nàng thục nữ giữa trần ai,
Hôm nay nàng phải già hơn trước,
Nên số vàng ta tặng giảm hoài.
9. Vậy thưa nàng nữ chúa huy hoàng,
Trước mắt ta đang ngưỡng mộ nàng,
Trong lúc ngày đêm qua thấm thoắt,
Sắc nàng tươi đẹp sẽ phai tàn.
10. Song hỡi công nương trí tuyệt trần,
Nếu như nàng thuận ý bằng lòng,
Giữ gìn Thánh đạo và thanh tịnh,
Nàng sẽ luôn kiều diễm bội phần.
Ngay
sau đó công chúa ngâm một vần kệ khác:
11. Chư Thiên chẳng giống các người trần,
Da chẳng già, không thấy nếp nhăn,
Thiên chúng làm sao không thể xác?
Ðiều này, Ðại quý nói cho cùng.
Da chẳng già, không thấy nếp nhăn,
Thiên chúng làm sao không thể xác?
Ðiều này, Ðại quý nói cho cùng.
Lúc
ấy, Thiên chủ giải thích vấn đề này qua một vần kệ
nữa:
12. Thiên chúng không như người thế gian,
Chẳng già, da chẳng thấy đường nhăn,
Mai đây và mãi về sau nữa,
Thiên lạc vô ngần, mỹ sắc tăng.
Chẳng già, da chẳng thấy đường nhăn,
Mai đây và mãi về sau nữa,
Thiên lạc vô ngần, mỹ sắc tăng.
Khi
nàng nghe nói dung sắc trên thiên giới, nàng hỏi con đường lên đó qua một vần kệ khác:
13. Ðiều gì làm khiếp sợ quần sinh,
Xin hỏi ở đời, đấng hiển linh,
Làm sáng tỏ con đường thiện ấy,
Xin ngài giải thích thật phân minh
Làm sao đi hướng về Thiên giới,
Nơi ấy chẳng còn phải hãi kinh.
Xin hỏi ở đời, đấng hiển linh,
Làm sáng tỏ con đường thiện ấy,
Xin ngài giải thích thật phân minh
Làm sao đi hướng về Thiên giới,
Nơi ấy chẳng còn phải hãi kinh.
Kế đó Thiên chủ giải thích vấn đề trong một vần kệ nữa:
14. Ai khéo hộ trì khẩu, ý, căn,
Chăng ưa làm ác nghiệp về thân,
Trong nhà ta thấy nhiều lương thực,
Ban phát rộng lòng, tín chánh chân,
Hào phóng, ngọt ngào, đầy thiện ý,
Sẽ sinh thiên giới chẳng kinh hoàng.
Chăng ưa làm ác nghiệp về thân,
Trong nhà ta thấy nhiều lương thực,
Ban phát rộng lòng, tín chánh chân,
Hào phóng, ngọt ngào, đầy thiện ý,
Sẽ sinh thiên giới chẳng kinh hoàng.
Khi
công chúa nghe lời ngài xong, nàng cảm tạ ngài qua một vần kệ khác:
15. Giống như bà mẹ, giống như cha,
Ðại lực thần đang giáo hóa ta,
Hỡi Ðại thần oai hùng mỹ diệu,
Ngài là ai đó, nói ngay ra.
Ðại lực thần đang giáo hóa ta,
Hỡi Ðại thần oai hùng mỹ diệu,
Ngài là ai đó, nói ngay ra.
Liền đó Bồ-tát ngâm kệ:
16. Ta chính Thiện Lai, hỡi mỹ nhân,
Vì lời ước hẹn, đến bên nàng,
Giờ đây đã nói, ta từ giã,
Lời hứa ngày xưa hết buộc ràng!
Vì lời ước hẹn, đến bên nàng,
Giờ đây đã nói, ta từ giã,
Lời hứa ngày xưa hết buộc ràng!
Công
chúa thở dài bảo:
-
Ôi Chúa thượng, ngài chính là Ðại vương Udayabhadda ư?
Rồi
nàng nức nở khóc, nước mắt tuôn như suối chảy:
-
Vắng bóng Chúa thượng, thần thiếp không thể nào sống được. Xin Chúa thượng dạy bảo thần thiếp cách
nào thiếp có thể sống cùng Chúa thượng mãi mãi!
Nói
xong nàng lại ngâm kệ khác:
17. Nếu Ðại vương là chúa Thiện Lai,
Ðến đây vì nguyện ước, không sai,
Thì xin dạy thiếp, ôi Hoàng thượng,
Ðể sống cùng nhau mãi mãi hoài.
Ðến đây vì nguyện ước, không sai,
Thì xin dạy thiếp, ôi Hoàng thượng,
Ðể sống cùng nhau mãi mãi hoài.
Tiếp
theo ngài ngâm bốn vần kệ để giáo hóa nàng:
18. Thoáng chốc, xuân thì vụt quá nhanh,
Ðời không bền vững, mọi loài sinh,
Chết rồi, sống lại đời sau nữa,
Thối nát, thân này thật mỏng manh.
Vậy chớ buông lung cùng phóng dật,
Tiến lên, vững bước, giữ tâm thành.
19. Nếu cả trần gian, mọi bạc vàng
Thuộc quyền cai trị một anh quân,
Thánh nhân còn vượt xa vua ấy
Trong cuộc thi đua giữa cõi trần,
Vậy chớ buông lung cùng phóng dật,
Tín tâm giữ vững, bước lên đàng.
20. Song thân cùng quyến thuộc, anh em,
Và vợ (có tiền lại kết duyên),
Tất cả đều ra đi lũ lượt,
Kẻ này xa kẻ khác luân phiên,
Vậy đừng sống cuộc đời buông thả,
Giữ tín tâm bền vững, bước lên.
21. Thân kia, hãy nhớ, sẽ làm thành
Thực phẩm cho nhiều loại chúng sinh,
Hoan lạc cũng như niềm khổ não
Chỉ là giờ khắc thoáng trôi nhanh,
Ðời này nối tiếp đời sau mãi,
Vậy chớ buông lung, giữ tín thành.
Ðời không bền vững, mọi loài sinh,
Chết rồi, sống lại đời sau nữa,
Thối nát, thân này thật mỏng manh.
Vậy chớ buông lung cùng phóng dật,
Tiến lên, vững bước, giữ tâm thành.
19. Nếu cả trần gian, mọi bạc vàng
Thuộc quyền cai trị một anh quân,
Thánh nhân còn vượt xa vua ấy
Trong cuộc thi đua giữa cõi trần,
Vậy chớ buông lung cùng phóng dật,
Tín tâm giữ vững, bước lên đàng.
20. Song thân cùng quyến thuộc, anh em,
Và vợ (có tiền lại kết duyên),
Tất cả đều ra đi lũ lượt,
Kẻ này xa kẻ khác luân phiên,
Vậy đừng sống cuộc đời buông thả,
Giữ tín tâm bền vững, bước lên.
21. Thân kia, hãy nhớ, sẽ làm thành
Thực phẩm cho nhiều loại chúng sinh,
Hoan lạc cũng như niềm khổ não
Chỉ là giờ khắc thoáng trôi nhanh,
Ðời này nối tiếp đời sau mãi,
Vậy chớ buông lung, giữ tín thành.
Bậc
Ðại Sĩ đã thuyết Pháp như vậy.
Công chúa rất hoan hỷ với cách giáo hóa trên, và nàng cảm tạ ngài với vần kệ
cuối cùng:
22. Thiên thần này nói ngọt ngào,
Thế nhân thấy rõ ngắn sao cuộc đời,
Ðời buồn, ngắn ngủi thế thôi,
Ði theo đời sống, không rời sầu bi.
Giã từ trần thế, ta đi,
Từ kinh đô xứ Ca-thi lên đàng.
Thế nhân thấy rõ ngắn sao cuộc đời,
Ðời buồn, ngắn ngủi thế thôi,
Ði theo đời sống, không rời sầu bi.
Giã từ trần thế, ta đi,
Từ kinh đô xứ Ca-thi lên đàng.
Sau
khi thuyết giáo như vậy cho nàng xong, Bồ-tát trở lại cõi của ngài.
Ngày
kế tiếp, công chúa liền giao việc trị nước cho các triều thần, còn nàng trở
thành ẩn sĩ ngay trong kinh thành ấy, ở hoa viên đầy an lạc. Tại đó, nàng vẫn sống theo chánh
hạnh cho đến khi mạng chung, nàng được tái sinh ở cõi Trời Ba mươi ba, làm thị nữ
của Bồ-tát.
*
Khi bậc
Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại này, Ngài thuyết giảng các Sự Thật. Bấy giờ, lúc kết
thúc các Sự Thật, vị Tỷ-kheo thối thất đã được an trú vào Sơ quả (Dự
Lưu).
Rồi
Ngài nhận diện Tiền thân:
- Vào
thời ấy, thân mẫu La-hầu-la là công chúa kia và Ðế Thích Thiên chủ chính là Ta.
-ooOoo-
459.
Chuyện Ngụm Nước Uống (Tiền thân Paniya)
Ngụm
nước kia còn là của bạn mình..,
Chuyện
này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về sự điều phục các ác dục.
Ta biết
rằng có một thời, năm trăm dân chúng thành Xá-vệ là gia chủ cùng thân hữu của đức Như Lai đã đi nghe Pháp và xuất gia thọ
giới Tỷ-kheo. Trong khi sống ở Tinh xá trên con Ðường-lát-vàng kia, vào ban đêm các vị chìm đắm trong dục tưởng (các chi
tiết cũng được biết như trong chuyện trước). Theo lệnh của đức Thế Tôn, Tôn giả Ànanda liền tập họp Tăng chúng
lại. Bậc Ðạo Sư ngồi xuống ở chỗ đã được soạn sẵn và không cần hỏi
Tăng chúng: "Có phải các ông chìmđắm trong dục tưởng chăng?", mà Ngài
dạy bảo Tăng chúng bằng những lời tổng quát:
- Này
các Tỷ-kheo, không có việc gì được xem là lỗi lầm nhỏ nhặt cả. Một Tỷ-kheo phải
chế ngự tất cả các dục mỗi khi chúng khởi lên. Các bậc trí nhân thuở xưa, trước
khi đức Phật ra đời, đã biết điều phục ác dục và đạt đến trí tuệ của một vị Ðộc Giác Phật.
Cùng
với lời dạy này, Ngài kể cho Tăng chúng nghe một chuyện quá khứ.
*
Một
thời, khi vua Brahmadatta trị vì thành Ba-la-nại, có hai người bạn trong một
làng kia ở quốcđộ Kàsi. Hai người ấy, ra đồng mang theo hai bình nước uống, họ đặt khuất bên đường trong lúc cuốc đất, mỗi khi khát nước lại đến đó uống. Một
trong hai người ấy, khi uống nước, đã để dành nước trong bình của mình và uống nước trong bình kẻ kia.
Buổi chiều khi ra khỏi rừng tắm rửa xong, kẻ ấy đứng suy nghĩ: "Ta có phạm lỗi gì hôm nay,
hoặc do thân căn, hoặc do căn nào khác chăng?" Lúc đó, ông nhớ lại đã uống
ngụm nước trộm như thế nào, và buồn phiền kêu lên:
-
Nếu sự thèm khát này khởi lên trong ta, nó sẽ khiến ta phải tái sinh vào cõi
dữ. Vậy ta quyết nhiếp phục lỗi lầm.
Vì
vậy do chuyện uống ngụm nước trộm này mà ông dần dần đạt được thiền định và chứng đắc Thắng trí của một vị Ðộc Giác Phật (Pacceka-Buddha) và ông đứng đấy suy nghĩ về Thắng trí của mình vừa đạt được.
Bấy
giờ người kia sau khi tắm xong bảo:
-
Này Hiền hữu, về nhà đi.
Ông đáp:
-
Hiền hữu về nhà đi, nhà cửa chẳng có ý
nghĩa gì đối với ta nữa! Ta là
một vị Ðộc Giác Phật đây!
-
Ô kìa, Ðộc Giác Phật giống như Hiền hữu ư?
-
Thế thì các vị ấy ra sao?
-
Các vị ấy có tóc dài cỡ hai ngón tay, đắp y vàng, sống ở động Nandamùla tận trên
vùng Tuyết Sơn.
Người
kia vỗ vào đầu; ngay lập tức các
dấu vết của một người thế tục biến mất, một cặp y đỏ đắp quanh mình vị ấy, một
dây đai màu vàng như lằn chớp cột quanh thắt lưng,
tấm thượng y màu sonđỏ vắt qua một bên vai, một y phấn tảo màu đen sẫm như đám mây trời bão nằm vắt qua một vai
kia, một bình bát bằng đất màu vàng nâu treo
lủng lẳng trên vai tả, ông đứng vững trên không,
sau khi thuyết Pháp xong liền bay lên cao và không hề hạ xuống, cho đến khi bay tận hang núi Nandamùla.
Một
người khác cũng sống trong một làng ở Kàsi, là một địa chủ, đang ngồi trong tiệm tạp hóa thì thấy
một người nọ dẫn vợ đi tới. Vừa thấy nàng là
một mỹ nhân dung sắc tuyệt thế, người kia lỡ phá giới đức và liếc nhìn nàng. Sau đó ông suy nghĩ: "Nếu tham dục này tăng
trưởng, nó sẽ khiến ta đọa vào cõi ác thú". Ông vừa tu tập tâm vừa làm
phát khởi thiền định và đạt Thắng trí của một vị Ðộc Giác Phật, rồi đứng trên không và thuyết Pháp, về sau cũng bay đến động Nandamùla.
Lại
có hai cha con là dân làng Kàsi, cùng du hành với nhau. Tại lối đi vào rừng có nhiều kẻ cướp trú ẩn. Những quân
cướp này, nếu bắt được cả hai cha con, thì
sẽ giữ người con lại và bắt người cha đi về, bảo:
-
Hãy đem tiền đến chuộc con trai ông.
Hoặc
nếu là hai anh em, chúng sẽ giữ người em lại và bắt người anh đi về, nếu là hai thầy trò, chúng giữ ông thầy
lại và bắt học trò đi về, người học trò
muốn học hành sẽ đem tiền đến và chúng sẽ
thả ông thầy.
Lúc
bấy giờ, khi hai cha con này thấy bọn cướp đang nằm chờ, người cha bảo:
-
Con đừng gọi ta là cha, ta cũng không gọi con là con đấy.
Hai
người đồng ý như vậy, nên khi quân cướp đi đến, chúng hỏi hai người là gì đối với nhau, hai người đáp:
-
Chúng ta chẳng là gì đối với nhau cả.
Rồi
họ nói dối một điều đã nghĩ sẵn từ
trước. Khi hai người ra khỏi rừng và nghỉ ngơi sau khi đã tắm rửa buổi tối xong, người con xem xét lại đức hạnh của mình và nhớ lời nói dối kia, nghĩ
thầm: "Lỗi lầm này nếu tăng trưởng sẽ nhận chìm ta vào cõi ác. Ta quyết
khắc phục lỗi lầm". Sauđó người ấy tu tập thiền định, và đạt Thắng trí của một vị Ðộc Giác Phật, rồi đứng trên không và thuyết Pháp cho cha, xong
cũng đi về hang Nandamùla.
Trong
một làng ở Kàsi cũng có một địa chủ ra lệnh cấm sát
sinh. Bấy giờ đến lúc người ta thường dâng lễ tế thần, một đám đông tụ tập lại
và nói:
-
Thưa chủ nhân, đây là lúc tế lễ, xin
cho chúng tôi giết dê, lợn và những súc vật khác để dâng lễ cúng thần linh.
Ông
bảo:
-
Cứ làm như các anh đã làm trước kia.
Dân
làng liền làm một việc đại sát sinh. Khi người
ấy thấy một số lớn cá thịt, liền suy nghĩ: "Người ta đã giết hết các sinh
vật này, tất cả cũng chỉ vì lời nói của ta mà thôi!". Ông ăn năn hối hận, và khi đứng bên cửa sổ, ông tu tập thiền định và đạt Thắng trí của một vị Ðộc Giác Phật, rồiđứng trên không thuyết pháp xong, cũng đi về hang Nandamùla.
Một
người địa chủ khác sống ở quốc độ Kàsi, cấm bán rượu
mạnh. Một đám đông đến kêu gào:
-
Thưa chủ nhân, chúng tôi phải làm sao? Ðây là tửu hội được yêu chuộng lâu đời rồi mà!
Người
ấy đáp:
-
Cứ làm như các anh vẫn làm trước kia.
Dân
chúng tổ chức đại hội, uống rượu mạnh
và gây sự lẫn nhau, kẻ gãy tay chân, người vỡ đầu sứt tai và phải chịu nhiều hình phạt về
chuyện này. Người địa chủ thấy vậy, nghĩ
thầm: "Nếu ta không cho phép chuyện này, thì dân chúng đã không phải chịu khổ sở như vậy". Ông cảm
thấy ăn năn dù chỉ một việc nhỏ nhặt kia. Sau đó ông tu tập thiền định, và đạt Thắng trí của một vị Ðộc Giác Phật, đứng trên không thuyết Pháp, khuyên bảo dân
chúng phải tỉnh giác, rồi ông cũng đi đến hang Nandamùla.
Một
thời gian sau, năm vị Ðộc Giác Phật đều giáng lâm tại cổng thành Ba-la-nại, để tìm đồ ăn bố thí. Thượng y và hạ y của các Ngài đều được đắp gọn ghẽ, với phong thái ung dung
thanh thoát, các Ngài đi khất thực đến tận
cung môn của vua. Rất hoan hỷ khi ngắm các vị ấy, ngài rước các vị ấy vào cung,
rửa chân các vị và xoa dầu thơm, dâng lên các vị đủ món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm, rồi
ngài ngồi xuống một bên, và nói với các vị như sau:
-
Thưa các Tôn giả, các Ngài đang còn thanh xuân mà đã sống đời tu hành, thật vi diệu biết bao! Ở tuổi này các Ngài đã là ẩn sĩ, và các Ngài đã nhìn thấy nỗi khổ đau của ác dục. Nguyên nhân nào đã đưa đến hành động của các Ngài?
Các
ngài đáp lại:
1. Ngụm nước kia là của bạn mình,
Ta đà uống trộm, dẫu thân tình,
Chán chê lầm lỗi ta vừa phạm,
Phát nguyện về sau sẽ trở thành
Ẩn sĩ, giã từ đời thế tục,
Vì e tái phạm tội phần mình.
2. Vợ của người kia, lỡ liếc nhìn,
Trong lòng ta dục vọng bừng lên,
Chán chê lầm lỗi ta vừa phạm,
Ta quyết về sau tự phát nguyền
Từ giã thế gian làm ẩn sĩ,
Vì e tái phạm lỗi lầm trên.
3. Trộm cướp trong rừng bắt phụ thân,
Ta đành nói với bọn kia rằng:
"Người này chẳng phải là thân phụ",
Ta biết ngay là nói dối gian,
Chán ghét lỗi lầm ta phạm phải,
Về sau ta ước nguyện tu thân.. (như trên)
4. Người làm tửu hội sát sinh linh,
Chẳng phải là không thuận ý mình,
Chán ghét lỗi lầm ta đã phạm..
Về sau ta đã phát tâm thành.. (như trên)
5. Cả bọn người kia một thuở xưa,
Cùng nhau chè chén thật say sưa,
Ðánh nhau gây sự nhiều người khổ,
Chẳng phải là không thuận ý ta.
Chán ghét lỗi lầm ta đã phạm,
Về sau ta ước nguyện ly gia,
Giã từ thế tục, làm tu sĩ,
Vị sợ ta còn phạm lỗi xưa.
Các Ngài ngâm lần lượt các vần kệ trên.
Ta đà uống trộm, dẫu thân tình,
Chán chê lầm lỗi ta vừa phạm,
Phát nguyện về sau sẽ trở thành
Ẩn sĩ, giã từ đời thế tục,
Vì e tái phạm tội phần mình.
2. Vợ của người kia, lỡ liếc nhìn,
Trong lòng ta dục vọng bừng lên,
Chán chê lầm lỗi ta vừa phạm,
Ta quyết về sau tự phát nguyền
Từ giã thế gian làm ẩn sĩ,
Vì e tái phạm lỗi lầm trên.
3. Trộm cướp trong rừng bắt phụ thân,
Ta đành nói với bọn kia rằng:
"Người này chẳng phải là thân phụ",
Ta biết ngay là nói dối gian,
Chán ghét lỗi lầm ta phạm phải,
Về sau ta ước nguyện tu thân.. (như trên)
4. Người làm tửu hội sát sinh linh,
Chẳng phải là không thuận ý mình,
Chán ghét lỗi lầm ta đã phạm..
Về sau ta đã phát tâm thành.. (như trên)
5. Cả bọn người kia một thuở xưa,
Cùng nhau chè chén thật say sưa,
Ðánh nhau gây sự nhiều người khổ,
Chẳng phải là không thuận ý ta.
Chán ghét lỗi lầm ta đã phạm,
Về sau ta ước nguyện ly gia,
Giã từ thế tục, làm tu sĩ,
Vị sợ ta còn phạm lỗi xưa.
Các Ngài ngâm lần lượt các vần kệ trên.
Khi
vua đã nghe xong lời giải thích của mỗi vị Phật,
ngài nói lời tán thán:
-
Thưa các Tôn giả, việc tu hành của các Ngài thật xứng đáng lắm thay.
Vua
rất hoan hỷ về bài thuyết Pháp của các vị này. Ngài ban tặng các y trong, y
ngoài cho các vị, cùng thuốc men xong xuôi, liền để các vị Ðộc Giác Phật ra đi. Các vị ấy cảm tạ
ngài rồi trở về nơiđã xuất hành.
Sau đó vua sinh chán ghét các dục lạc, ngài ly tham,
ngài vẫn dùng các món cao lương mỹ vị, song ngài không nói chuyện với bọn cung
nhân, cũng không nhìn đến chúng. Nhàm chán
khởi lên trong tâm, ngài lui về cung thất nguy nga của ngài ngồi đó nhìn thẳng vào bức tường trắng trước mặt cho đến khi ngài nhập thiền định, cảm nhận trong tâm ngài lạc thọ của thiền định. Mải mê trong nỗi hân hoan, ngài ngâm kệ
chê bai tham dục:
6. Ta quyết ly tham, diệt dục tham,
Bốn bề vô vị, tựa gai đâm!
Chẳng bao giờ nữa, dù từ trước
Ta đã đi theo chuyện lỗi lầm,
Lạc thú như vầy ta đã gặp,
Ðây là lạc thú của tham tâm.
Bốn bề vô vị, tựa gai đâm!
Chẳng bao giờ nữa, dù từ trước
Ta đã đi theo chuyện lỗi lầm,
Lạc thú như vầy ta đã gặp,
Ðây là lạc thú của tham tâm.
Lúc
ấy bà chánh hậu của ngài suy nghĩ thầm: "Ðức vua đã nghe lời thuyết Pháp của các vị Ðộc Giác
Phật, và nay ngài tự giam mình với nỗi chán chường trong cung điện thật nguy nga của ngài. Ta phải chăm sóc
ngài mới được". Vì thế bà đến cửa cung thất của vua, và đứng ở cửa, nghe rõ những lời cảm hứng đầy hoan lạc của ngài tỏ ý chê bai tham dục, bà
bảo:
-
Tâu Hoàng thượng, ngài vừa chê bai tham dục! Song chẳng có lạc thú nào bằng lạc
thú của tham dục êm ái cả.
Sau đó, để tán thán tham dục, bà ngâm một vần kệ
khác:
7. Cựu lạc dịu êm thật khó lường,
Thú nào hơn được thú yêu thương,
Ai theo lạc thú này sau đạt
Hạnh phúc trên cao cõi ngọc đường!
Thú nào hơn được thú yêu thương,
Ai theo lạc thú này sau đạt
Hạnh phúc trên cao cõi ngọc đường!
Nghe
vậy vua đáp:
-
Này ác nữ nhân! Thật quái lạ, bà nói gì thế? Dục lạc phát xuất từ đâu đấy? Có nhiều khổ đau tiếp theo sau để trả
giá cho dục lạc.
Cùng
với các lời này, ngài ngâm các vần kệ cuối để tỏ lòng chê bai tham dục:
8. Tham dục hôi tanh, thật đáng nhờm,
Chẳng còn khổ não khốc tàn hơn,
Ai theo ác dục này sau phải
Gặt lấy sầu bị địa ngục môn.
9. Thèm muốn khát khao mãi chẳng nguôi,
Còn hơn kiếm sắc khéo tay mài,
Hơn dao đâm suốt vào lồng ngực,
Tham dục càng nên phỉ nhổ hoài.
10. Hố kia sâu đến cỡ thân người,
Than củi kia đang cháy đỏ tươi,
Cái lưỡi cày nung ngoài nắng gắt,
Dục tham còn độc hại hơn thôi.
11. Thuốc độc nào tàn hại tối đa,
Dầu nào nguy hiểm với thân ta,
Rỉ nào bám chặt đồng hư hoại,
Tham dục còn hơn chúng nữa mà.
Chẳng còn khổ não khốc tàn hơn,
Ai theo ác dục này sau phải
Gặt lấy sầu bị địa ngục môn.
9. Thèm muốn khát khao mãi chẳng nguôi,
Còn hơn kiếm sắc khéo tay mài,
Hơn dao đâm suốt vào lồng ngực,
Tham dục càng nên phỉ nhổ hoài.
10. Hố kia sâu đến cỡ thân người,
Than củi kia đang cháy đỏ tươi,
Cái lưỡi cày nung ngoài nắng gắt,
Dục tham còn độc hại hơn thôi.
11. Thuốc độc nào tàn hại tối đa,
Dầu nào nguy hiểm với thân ta,
Rỉ nào bám chặt đồng hư hoại,
Tham dục còn hơn chúng nữa mà.
Bậc
Ðại Sĩ đã thuyết Pháp cho bà
chánh hậu như vậy. Sau đó ngài tập họp triều
thần lại và phán:
-
Này các khanh, các khanh hãy cai trị vương quốc. Ta sắp từ giã thế tục.
Và
ngay giữa tiếng khóc lóc kêu gào của quần chúng, ngài vụt lên cao, vừa đứng vững trên không, vừa thuyết Pháp. Rồi theo
hướng gió ngài bay đến vùng Tuyết Sơn cao
xa nhất, ở một nơiđầy an lạc, ngài dựng một am thất, tại đấy ngài sống đời của một bậc hiền trí cho đến mạng chung, ngài được sinh lên cõi Phạm thiên.
*
Sau khi
chấm dứt Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nói thêm:
- Này
các Tỷ-kheo, không có gì gọi là lỗi lầm nhỏ mọn cả, ngay đến những lỗi nhỏ nhất cũng
phải được người trí điều phục.
Rồi
Ngài tuyên thuyết các Sự Thật. Bấy giờ vào lúc kết thúc bài giảng, năm trăm vị
Tỷ-kheo đãđược an trú vào Thánh quả (A-la-hán).
Rồi
Ngài nhận diện Tiền thân:
- Vào
thời ấy các vị Ðộc Giác Phật đắc Niết-bàn, mẹ của Ràhulà (La-hầu-la) là bà
chánh hậu và Ta là vị vua kia.
-ooOoo-
0 Komentar