Chương IV (tiếp theo)
318.
Chuyện Vòng Hoa Kanavera (Tiền thân Kanavera)
Giữa
ngày vui đẹp của xuân thời...,
Chuyện
này do bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo cứ mơ tưởng đến người vợ mà ông đã rời bỏ.
Các
tình tiết đưa đến câu chuyện sẽ được kể trong số 423. Tiền thân
Indriya. Bậc Ðạo Sư nói với Tỷ-kheo ấy:
- Trước
kia, đã một lần vì kẻ ấy mà ông bị chém đầu!
Rồi
Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Ngày
xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Bala-nại, Bồ-tát sinh ra tại một làng Kàsi,
trong nhà một gia trưởng nọ. Ngài ra đời dưới ngôi sao chiếu mạng của một kẻ cướp. Khi trưởng thành,
ngài sống bằng nghề cướp bóc. Tiếng tăm ngài vang động khắp nơi rằng ngài là một kẻ táo bạo và
mạnh như voi. Không ai có thể bắt được.
Một
hôm, tên cướp ấy bẻ khóa vào nhà một phú thương nọ và mang đi bao nhiêu của cải. Dân chúng trong thành đến kêu với vua:
-
Tâu Ðại vương, có một tên cướp táo tợn đang vơ vét cả thành phố, xin ngài hãy sai bắt nó.
Vua
ra lệnh cho quan tổng trấn bắt tên cướp. Trong đêm tối, quan tổng trấn bố trí người ở các nơi
và bắt được tên cướp đang mang tiền bạc trong mình rồi mang y đến trước vua. Vua ra lệnh chém đầu. Quan tổng
trấn trói quặt hai cánh tay tên cướp ra đằng sau, cột vào cổ y một vòng hoa kanavera đỏ, rắc bụi gạch đá trên đầu y, lấy roi da quất vào y và đưa đi khắp công viên rồi dẫn y tới nơi hành
quyết giữa những hồi trống vang động. Mọi người bảo:
-
Tên cướp ngang tàng đã cướp khắp cả thành
phố này bị bắt rồi.
Cả
thành phố đều nô nức xôn xao.
Bấy
giờ, tại Ba-la-nại có một kỳ nữ tên Sàmà, giá mỗi ngày phải trả cho nàng là một
ngàn đồng. Nàng rất được vua sủng ái và có cả một đoàn người hầu gồm năm trăm nữ tỳ. Nàng đang đứng bên cửa sổ ở từng trên của lâu đài, trông thấy tên cướp đang bị dẫn đi. Bấy giờ, y có vẻ đứng đắn dễ
thương, sừng sững giữa đám người, thật oai vang, và sáng chói như một Thiên
thần. Thấy y bị dẫn đi qua như thế, nàng
bỗng đâm ra yêu y và trong thâm tâm, nàng tự nghĩ:
"Ta phải làm sao để chiếm được chàng làm
chồng ta nhỉ?" Nàng lại bảo: "Có cách này đây".
Rồi
nàng sai các cô hầu gái đem một ngàn đồng đến cho quan tổng trấn và bảo:
-
Hãy nói với ông ta rằng tên cướp ấy là anh của Sàmà, anh ta chỉ có thể trú ẩn
tại nhà Sàmà mà thôi chứ không thể ở đâu khác được. Hãy xin ông ta nhận tiền này và để cho người tù ấy trốn thoát.
Cô
hầu gái làm theo lời nàng. Nhưng quan tổng trấn bảo:
-
Ðây là một tên cướp khét tiếng, y đã bị bắt như thế rồi, ta không để cho y tự do ra đi như vậy. Nhưng nếu ta tìm thấy được một người nào thay thế y, ta sẽ để y vào một chiếc xe phủ kín và gửiđến cho nàng.
Người
nô tỳ về thuật lại cho chủ nghe như vậy.
Lúc
bấy giờ có một phú thương trẻ tuổi nọ rất say mê Sàmà, mỗi ngày đều đến trao nàng một ngàn đồng. Vào lúc hoàng hôn của chính ngày hôm ấy,
tình nhân của nàng lại đến nhà nàng như thường
lệ cùng với số tiền kia. Sàmà nhận lấy tiền, đặt trên đùi và ngồi khóc. Khi được hỏi vì cớ sao nàng sầu bi như thế, nàng đáp:
-
Chàng ơi, tên cướp ấy là anh của em, anh ấy không bao giờ đến thăm em vì người ta bảo em làm một nghề xấu
xa. Khi em liên lạc với quan tổng trấn thì ông ta nhắn lại rằng nếu trao cho
ông một ngàn đồng thì ông sẽ để cho tù nhân tự do ra đi. Bây giờ em chẳng kiếm đâu được người mang
tiền đến cho quan tổng trấn?
Chàng
tuổi trẻ vì quá yêu nàng, liền bảo:
-
Tôi sẽ đi.
-
Thế thì đi - nàng nói - và hãy
cầm theo số tiền mà chàng đã mang đến cho em.
Thế
là anh ta cầm lấy tiền và đến nhà quan tổng trấn.
Quan tổng trấn giấu anh chàng phú thương vào một chỗ kín đáo rồi sai chở tên cướp trong một chiếc xe đóng kín đến nhà Sàmà. Rồi ông tự nghĩ:
"Khắp xứ, ai cũng đều biết tên cướp này.
Trước tiên phải chờ thật tối, khi mọi người đều lui về nghỉ, ta sẽ hành quyết người này".
Ông
ta kiếm cớ để hoãn lại cuộc hành
quyết một lúc, rồi chờ cho ai nấy lui về nghỉ, ông mới cho một đại đội hộ tống chàng thương gia đến pháp trường. Ông sai lấy gươm chém đầu anh
ta, xiên vào thân anh ta rồi quay về thành phố.
Từ đó, Sàmà không chịu tiếp một người đàn ông nào nữa cả. Nàng dành hết thời để vui thú với riêng tên cướp này mà thôi. Thế
rồi tên cướp chợt nghĩ: "Nếu người đàn bà này đâm ra yêu một người nào
khác nữa, nàng sẽ đưa ta đến chỗ chết để
nàng vui thú với người ấy. Ta không nên ởđây lâu hơn nữa mà phải gấp gấp thoát đi mới được".
Khi
sắp ra đi, y lại nghĩ: "Ta
không nên tay trắng mà ra đi, hãy lấy của nàng một
số nữ trang". Thế là một hôm y bảo nàng:
-
Này em yêu, chúng ta cứ sống mãi trong nhà như những con vẹt được nuôi trong lồng. Hôm nàođó chúng ta nên đến giải trí trong vườn cây nhỉ?
Nàng
thuận ý và chuẩn bị các thức ăn loại cứng và loại
mềm, và đeo hết đồ trang sức cùng
với y ngồi trên một chiếc xe đóng kín đi đến vườn
cây. Trong lúc cả hai đang tiêu khiển, y tự nghĩ: "Bấy giờ là lúc ta nên
trốn thoát". Rồi tỏ ra say mê nàng mãnh liệt, y đưa nàng vào trong những bụi cây kanavera rậm
rồi ôm chầm lấy nàng, siết chặt nàng cho đến khi nàng bất tỉnh. Thả nàng xuống, ỵ lột hết nữ trang, gói vào
trong chiếc áo ngoài của nàng và đặt gói lên vai rồi nhảy qua tường của vườn cây mà đi.
Khi
hồi tỉnh, nàng đứng dậy và đến hỏi các người hầu gái xem phu quân trẻ tuổi
của nàng ra sao rồi thì họ nói:
-
Thưa phu nhân, chúng tôi không biết.
Nàng
tự bảo: "Chàng nghĩ rằng ta đã chết nên sợ mà chạy trốn rồi".
Sầu
muộn vì nghĩ như thế, nàng quay về nhà và tự bảo:
-
Chừng nào ta chưa gặp lại được trượng phu yêu dấu
của ta thì ta quyết không nằm trên một giường nào sang trọng.
Thế
là nàng vẫn nằm trên đất mà thôi.
Kể
từ hôm ấy, nàng không mặc quần áo đẹp, không đeo hoa, không xức dầu thơm, và mỗi ngày nàng chỉ ăn một bữa cơm. Ðể quyết tìm lại người yêu bằng mọi cách, nàng
gọi vài người diễn viên và cho họ một ngàn đồng. Họ hỏi:
-
Thưa phu nhân, lấy tiền này chúng tôi phải làm gì?
Nàng
trả lời:
-
Hãy viếng khắp mọi nơi. Hãy đến từng làng, từng
thành phố, từng kinh đô, tụ tập đám đông lại
quanh các anh và cần nhất là phải hát bài hát này giữa mọi người.
Nàng
dạy cho họ bài kệ đầu rồi dặn tiếp:
-
Khi các anh hát bài hát ấy nếu chồng ta là một người trong đám đông thì chàng sẽ đến nói chuyện với các anh ngay. Bấy giờ, các
anh hãy nói với chàng rằng ta hoàn toàn khỏe mạnh, rồi mang chàng về đây cho ta, còn nếu chàng từ chối hãy gởi tin
cho ta hay.
Nàng
cho họ tiền phí tổn trong cuộc hành trình rồi bảo họ ra đi.
Họ
bắt đầu đi từ Ba-la-nại, cứ đến nơi này chỗ nọ kêu
gọi dân chúng, cuối cùng họ đến một ngôi làng ở biên địa. Tên cướp từ khi tẩu thoát, đang sống ở nơi ấy. Các diễn viên tụ tập đám đông quanh họ và hát lên bài kệ đầu:
Giữa ngày vui đẹp của xuân thời,
Cây cối mang hoa rực ánh tươi,
Tỉnh dậy sau cơn mê ngất ấy,
Sà-mà đang sống, sống vì người.
Cây cối mang hoa rực ánh tươi,
Tỉnh dậy sau cơn mê ngất ấy,
Sà-mà đang sống, sống vì người.
Tên
cướp nghe thế liền đến gần người diễn viên
và nói:
-
Bạn bảo Sàmà đang còn sống nhưng ta
không tin đâu.
Rồi
y đọc bài kệ thứ hai:
Gió dữ lung lay được núi đâu?
Gió làm đất vững chãi rung sao?
Thấy người đã chết đang còn sống,
Chuyện ấy hóa ra quá nhiệm mầu!
Gió làm đất vững chãi rung sao?
Thấy người đã chết đang còn sống,
Chuyện ấy hóa ra quá nhiệm mầu!
Người
diễn viên nghe các lời trên liền đọc bài kệ thứ ba:
Sà-mà quả thực sống đời này,
Nàng chẳng kết duyên với một ai,
Nhịn hết, mỗi ngày ăn một bữa,
Riêng người, nàng giữ mối mê say.
Nàng chẳng kết duyên với một ai,
Nhịn hết, mỗi ngày ăn một bữa,
Riêng người, nàng giữ mối mê say.
Nghe
xong, tên cướp liền bảo:
-
Dù nàng còn sống hay đã chết, ta cũng không
thích nàng.
Rồi
y đọc bài kệ thứ tư:
Sà-mà thay đổi mãi tình thôi,
Tha thiết yêu đương, lại hợt hời.
Cũng vậy, với ta nàng sẽ phản,
Nếu ta chẳng quyết phải xa rời.
Tha thiết yêu đương, lại hợt hời.
Cũng vậy, với ta nàng sẽ phản,
Nếu ta chẳng quyết phải xa rời.
Các
diễn viên trở về kể lại cho Sàmà mọi điều y đã nói với họ. Và nàng tràn đầy tiếc nuối, một lần nữa, nàng lại theo cuộc
sống cũ của nàng.
*
Khi
bậc Ðạo Sư thuyết giảng xong, Ngài tuyên thuyết Tứ Ðế, và ở phần kết thúc Tứ
Ðế, Tỷ-kheo có tâm thế tục kia đắc quả Dự Lưu. Sau đó,
Ngài nhận diện Tiền thân:
-
Bấy giờ Tỷ-kheo này là con trai của phú thương, người vợ mà ông ta đã rời bỏ là Sàmà, còn chính Ta là tên cướp.
-ooOoo-
319.
Chuyện Chim Đa Đa (Tiền thân Tittira)
Ðời
hạnh phúc suốt ngày tôi sống...,
Chuyện
này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Tinh Xá Badarka gần Kosambĩ về Trưởng lão
Ràhula (La-hầu-la).
Câu
chuyện mở đầu đã được kể đầy đủ trong Chương Một số 16. Tiền thân Tipallattha.
Bấy giờ ở trong Pháp đường, các Tỷ-kheo đang ca ngợi Tôn giả La-hầu-la, bảo
rằng Tôn giả rất tinh cần, cẩn trọng, nhẫn nhục. Bậc Ðạo Sư bước vào và khi nghe kể
lại đề mục luận bàn của các Tỷ-kheo, Ngài dạy:
- Không
phải chỉ nay mà xưa cũng thế, La-hầu-la đã có các đức tính này.
Rồi
Ngài kể cho họ nghe một chuyện quá khứ.
*
Ngày
xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn. Khi lớn lên, ngài theo đuổi các học nghệ tại Takkasilà rồi ngài từ bỏ
cuộc đời, sống đời khổ hạnh trong vùng Tuyết Sơn và
tu tập các Thắng trí và các Thiền chứng. Ngài thọ hưởng hạnh phúc của Thiền định, sống trong một khu rừng tịnh lạc. Sau đó,
ngài đến một làng ở biên địa để kiếm muối và giấm. Nhiều người khi trông
thấy ngài đã trở thành các tín đồ, họ dựng cho ngài một túp lều lá ở trong rừng
và cung cấp cho ngài đủ mọi vật dụng cần
thiết của một người tu hành rồi làm cho ngài một ngôi nhà ở nơi ấy.
Bấy
giờ, một người bẫy chim trong làng ấy bắt được một con chim Ða đa mồi, bỏ nó vào trong một cái lồng và luyện
tập, săn sóc nó cẩn thận. Ông ta mang nó vào rừng để cho nó kêu lên nhử các con đa đa khác đến gần. Con Ða đa tự nghĩ: "Do ta mà đồng loại phải lâm vào cái chết. Về phần ta đây là một hành vi ác độc". Vì thế nó cứ lặng thinh không kêu
nữa. Khi chủ nó thấy nó cứ lặng thinh liền lấy một miếng tre đập vào đầu nó. Con Ða đa bị đau quá phải kêu lên. Thế là người bẫy
chim cứ sinh sống bằng cách dùng nó để nhử các con Ða đa khác.
Rồi
con Ða đa lại nghĩ: "Ừ,
dẫu chúng nó có chết đi, về phần ta, ta không hề có ý định xấu. Nhưng những hậu
quả xấu do hành động của ta có tác dụng
đến ta không? Khi ta lặng thinh thì chúng không đến, khi ta kêu lên thì chúng đến. Và hễ con nào đến đều bị người kia bắt và giết chết. Về phần
ta, hành động như thế là có tội
hay không có tội?"
Từ đó ý nghĩ độc nhất của con Ða đa là: "Ai chính là kẻ có thể giải quyết mối nghi của
ta?" Thế là nó cứ tìm kiếm khắp nơi một bậc trí giả để giải quyết mối nghi ấy.
Một
hôm người bẫy chim bẫy được một số đa đa bỏ đầy
giỏ rồi đến căn lều của Bồ-tát xin một ngụm nước. Ông ta đặt lồng chim xuống
bên cạnh Bồ-tát uống nước rồi nằm dưới đất và lăn ra ngủ. Thấy người ấy ngủ, con Ða đa tự nghĩ: "Ta sẽ hỏi vị ẩn giả này về mối nghi của ta, nếu
ngài biết, ngài sẽ giải quyết nỗi khó khăn của ta". Thế là nằm trong lồng,
bằng hình thức một câu hỏi, nó đọc lên bài kệ đầu:
Ðời hạnh phúc suốt ngày tôi sống
Ðến cùng tôi đầy những thức ăn.
Nhưng tôi gặp cảnh khó khăn,
Tương lai tôi ấy, số phần ra sao?
Ðến cùng tôi đầy những thức ăn.
Nhưng tôi gặp cảnh khó khăn,
Tương lai tôi ấy, số phần ra sao?
Bồ-tát đọc bài kệ thứ hai để giải quyết câu hỏi:
Nếu lòng chẳng tơ hào xấu ác
Khiến bạn gây nên việc nhục hèn.
Do phần thụ động mà nên,
Bạn nào bị tội trói lên số phần!
Khiến bạn gây nên việc nhục hèn.
Do phần thụ động mà nên,
Bạn nào bị tội trói lên số phần!
Ða đa nghe thế liền đọc bài kệ thứ ba:
Chúng bảo rằng: "Họ hàng ta đấy!"
Cả đám đông đổ lại trông coi,
Phải chăng là tội của tôi
Khiến cho chúng chết? Xin ngài giải nghi.
Cả đám đông đổ lại trông coi,
Phải chăng là tội của tôi
Khiến cho chúng chết? Xin ngài giải nghi.
Nghe
Bồ-tát đọc bài kệ thứ tư:
Nếu tội không ẩn trì lòng bạn
Thì hành vi sẽ chẳng tội tình.
Kẻ nào thụ động phần mình,
Thoát bao tội lỗi trở thành thong dong.
Thì hành vi sẽ chẳng tội tình.
Kẻ nào thụ động phần mình,
Thoát bao tội lỗi trở thành thong dong.
Bậc
Ðại sĩ an ủi con chim Ða đa như vậy. Và nhờ ngài
con chim ấy không còn bị ray rứt ân hận nữa. Thế rồi, người bẫy chim thức dậy,
chào Bồ-tát và xách lồng ra đi.
*
Khi
bậc Ðạo Sư thuyết giảng xong, Ngài nhận diện Tiền thân:
-
Bấy giờ, La-hầu-la là con Ða đa, còn Ta là vị ẩn giả
kia.
-ooOoo-
320.
Chuyện Dễ Cho (Tiền thân Succaja)
Ngài có
thể ban phần nhỏ nhặt ...,
Chuyện
này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một người chủ đất nọ.
Một hôm
ông ta cùng với vợ đến làng kia để đòi một món nợ. Ông lấy một chiếc xe xứng với
ông và đem gửi xe cho một gia đình kia định rằng sau này sẽ đến lấy. Trên đường về Xá-vệ, hai vợ chồng
thấy một trái núi. Người vợ hỏi ông ta:
- Giả
như trái núi này biến thành toàn vàng, chàng có cho em một ít không nào?
Ông ta
trả lời:
- Cô là
cái thứ gì? Tôi chẳng cho cô mảy may nào đâu!
Nàng
kêu lên:
- Ôi
chàng thật là một kẻ có lòng sắt đá. Dù trái núi trở thành vàng ròng, chàng cũng
chẳng cho ta một tí ti nào.
Thế là
nàng rất buồn nản.
Khi đến gần Kỳ Viên, họ cảm thấy
khát nước nên vào Tinh xá xin một ít nước để uống. Vào chiều hôm ấy, bậc
Ðạo Sư thấy rằng họ có khả năng được giải thoát. Ngài ngồi trong Hương phòng
chờ họ đến và phóng hào quang sáu sắc của đức Phật. Sau khi đã thỏa cơn
khát, hai vợ chồng đến hầu bậc Ðạo Sư, kính cẩn đảnh lễ Ngài rồi ngồi xuống.
Sau những lời ân cần thăm hỏi thường lệ, bậc Ðạo Sư hỏi họ từ đâu lại.
- Bạch
Thế tôn, chúng con đi đòi nợ về đây.
Ngài
dạy:
- Này
nữ cư sĩ, Ta mong rằng chồng bà muốn bà được lợi ích và sẵn sàng tỏ
lòng tốt đối với bà.
Nàng
thưa:
- Bạch
Thế Tôn, con rất yêu chàng nhưng chàng chẳng có chút tình nào với con cả. Hôm
nay khi trông thấy một trái núi, con hỏi chàng: Giả như trái núi kia toàn bằng
vàng ròng, chàng có cho em một ít không? Chàng đáp: Cô là cái thứ gì? Tôi
chẳng cho cô mảy may nào đâu! Chàng quả là có tấm lòng sắt đá!
Bậc Ðạo
Sư dạy:
- Này
nữ cư sĩ, ông ấy bảo như thế, nhưng nếu ông nhớ lại đức hạnh của bà thì ông sẵn
sàng trao cho bà quyền thế cao nhất.
- Bạch
Thế Tôn, xin Ngài giảng điều ấy cho chúng con.
Họ kêu
lên và do yêu cầu của họ, Ngài kể một chuyện quá khứ.
*
Ngày
xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát là đại thần của vua, phục vụ vua mọi việc đắc lực.
Một
hôm vua thấy thái tử bấy giờ đang là phó vương đến tỏ lòng cung tôn đối với mình thì tự nghĩ: "Anh chàng này có
thể hại ta nếu nó gặp cơ hội thuận tiện". Vì thế vua gọi thái tử lại và
bảo:
-
Chừng nào ta còn sống, con không được ở lại kinh đô này. Hãy đi sống ở một nơi nào đó rồi đến khi ta chết thì hãy về trị vì vương quốc.
Thái
tử thuận theo điều kiện ấy. Chàng từ
biệt vua cha rồi cùng với người vợ chánh rời khỏi Ba-la-nại. Khi đến một làng ở biên thùy, chàng tự dựng một túp
lều lá trong một khu rừng rồi ở đó, sinh sống bằng rễ và
trái cây rừng. Chẳng bao lâu nhà vua chết đi. Vị phó vương trẻ tuổi kia, quan sát tinh tú biết rằng vua cha
đã chết. Và trên đường về Ba-la-nại, hai
vợ chồng trông thấy một trái núi. Người vợ nói với chàng:
-
Thưa trượng phu, giả sử trái núi kia biến thành vàng ròng, chàng có cho em một
ít không?
-
Cô là cái thứ gì chứ? chàng la lớn - Ta chẳng cho cô một tí ti nào đâu!
Nàng
tự nghĩ: "Ta đã yêu thương chàng như
thế, đã vào sống trong khu rừng kia và không hề có
tâm từ bỏ chàng, thế mà nay chàng nói với ta như thế. Chàng thực là một kẻ lòng
dạ sắt đá. Nếu chàng làm vua,
chàng sẽ làm gì tốt cho ta chứ?" Rồi nàng sầu muộn cả lòng.
Khi đến Ba-la-nại, người chồng được tôn lên làm vua,
chàng phong cho vợ lên làm chánh hoàng hậu. Vua chỉ cho nàng chức vụ trên danh
nghĩa mà thôi chứ chẳng tỏ ra kính trọng hay trao vinh dự cho nàng, cũng chẳng đoái hoài đến sự có mặt của nàng nữa.
Bấy
giờ Bồ-tát tự nghĩ: "Hoàng hậu vốn là người vợ tận tụy của vua, chẳng kể
khổ cực, sống cùng ngài ở nơi hoang vu vắng vẻ. Thế mà vua không nghĩ đến điều đó, cứ vui thú với những phụ nữ khác .
Nhưng ta sẽ mang lại chức quyền cao nhất cho hoàng hậu".
Nghĩ
như vậy, một hôm ngài đến chào hoàng hậu và
nói:
-
Tâu hoàng hậu, chúng thần chẳng hề được lệnh bà cho một miếng cơm nào cả. Tại sao lệnh bà lại có lòng
dạ cứng cỏi, quá hững hờ với chúng thần như vậy?
Hoàng
hậu đáp:
-
Này bạn ơi, nếu ta có nhận thứ gì thì ta mới cho bạn được, nhưng ta không được gì cả thì lấy chi mà
cho bạn chứ? Ðức vua ban cho ta thứ gì nào? Trên đường về đây, ta đã hỏi ngài: Nếu trái núi kia
toàn bằng vàng ròng thì chàng sẽ cho em gì nào? Thì ngài trả lời: Cô là cái thứ
gì, ta sẽ chẳng cho cô gì đâu!
Bồ-tát
nói:
-
Ðược rồi, lệnh bà có thể lặp lại chuyện này trước mặt đức vua không?
-
Bạn ơi, sao lại không chứ? Hoàng hậu đáp.
Bồ-tát
nói:
-
Thế thì khi đứng chầu đức vua, thần
sẽ hỏi, lệnh bà sẽ trả lời như thế nhé.
-
Ðồng ý. Hoàng hậu trả lời.
Thế
là khi Bồ-tát đến chầu vua, và tỏ lòng
kính cẩn đối với vua, ngài hỏi
hoàng hậu:
-
Tâu lệnh bà, sao chúng thần chẳng được tự tay lệnh bà cho thứ gì cả?
Hoàng
hậu đáp:
-
Này khanh, ta đây có nhận được gì thì
ta mới cho khanh chứ. Nhưng xem kìa, đức vua có thể cho ta gì nào? Khi ngài và ta ở trong rừng ra và
trông thấy một trái núi, ta hỏi ngài: Nếu trái núi kia toàn bằng vàng ròng, thì
chàng có cho em một ít không? Ngài đáp: Cô là cái thứ gì? Ta chẳng cho cô một chút gì cả! Khi nói như
thế, ngài từ chối cả những thứ dễ cho.
Ðể
nêu rõ điều ấy, hoàng hậu đọc bài kệ đầu:
Ngài có thể ban phần nhỏ nhặt,
Ðối với ngài có mất mát gì đâu!
Núi vàng, tôi cũng tặng trao,
Tôi xin mọi thứ, ngài đều bảo không!
Ðối với ngài có mất mát gì đâu!
Núi vàng, tôi cũng tặng trao,
Tôi xin mọi thứ, ngài đều bảo không!
Nghe
thế vua đọc bài kệ thứ hai:
Khi có thể, bảo "vâng" sẽ tặng
Chớ hứa suông khi chẳng thể kham,
Lời ngoa khi hứa không làm,
Hiền nhân khinh ghét kẻ xàm dối thôi.
Chớ hứa suông khi chẳng thể kham,
Lời ngoa khi hứa không làm,
Hiền nhân khinh ghét kẻ xàm dối thôi.
Hoàng
hậu nghe thế, chấp hai tay đưa lên tỏ lòng kính cẩn
và đọc bài kệ thứ ba:
Tâu quân vương, chúng tôi cầu chúc
Ngài ngôi cao chính trực vững vàng.
Sang giàu có thể tiêu tan,
Chỉ riêng Chân lý ngài hằng hưởng vui.
Ngài ngôi cao chính trực vững vàng.
Sang giàu có thể tiêu tan,
Chỉ riêng Chân lý ngài hằng hưởng vui.
Sau
khi nghe hoàng hậu chúc tụng vua, Bồ-tát liền nêu lên các đức hạnh của bà và đọc bài kệ thứ tư:
Danh vợ hiền lệnh bà đã tỏ,
Chia xẻ bao vui khổ cuộc đời,
Phận bà xứng đáng lắm rồi.
Cùng hàng vương giả kết đôi bạn lòng.
Chia xẻ bao vui khổ cuộc đời,
Phận bà xứng đáng lắm rồi.
Cùng hàng vương giả kết đôi bạn lòng.
Bồ-tát
ca ngợi hoàng hậu như thế và bảo:
-
Tâu Ðại vương, lệnh bà này lúc ngài đang gặp nghịch cảnh, đã sống cùng ngài, chia xẻ cùng ngài bao sầu
khổ trong rừng. Ngài nên làm vinh dự cho lệnh bà.
Khi
nghe Bồ-tát nói, vua liền nhớ đến những đức hạnh của
hoàng hậu và bảo:
-
Này hiền khanh, nhờ hiền khanh mà ta nhớ lại các đức hạnh của hoàng hậu.
Vua
nói thế rồi trao mọi quyền lực vào tay hoàng hậu. Ngoài ra, vua còn ban quyền hạn
lớn lao cho Bồ-tát. Vua bảo:
Chính
nhờ khanh mà ta nhớ lại các đức hạnh của hoàng hậu
vậy.
*
Khi
bậc Ðạo Sư kể xong Pháp thoại này, Ngài tuyên thuyết Tứ Ðế. Ở phần cuối bài
giảng Tứ Ðế, người chồng cùng người vợ đắc quả Dự Lưu.
Rồi
bậc Ðạo Sư nhận diện tiền thân:
-
Bấy giờ người chủ đất này là vua xứ
Ba-la-nại, nữ cư sĩ này là hoàng hậu, còn Ta là vị quan hiền trí nọ.
-ooOoo-
321.
Chuyện Kẻ Đốt Lều ( Tiền thân Kutidùsaka)
Khỉ ạ,
chân tay mặt mũi ngươi ...,
Chuyện
này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên, về một chú tiểu đốt túp lều lá của trưởng lão
Mahàkassapa (Ðại Ca-diếp).
Nhân
duyên đưa đến câu chuyện vốn từ Vương Xá. Bấy giờ, Trưởng lão ấy
sống trong một túp lều ở gần Vương Xá. Có hai chú tiểu lo giúp việc cho Tôn
giả, một chú rất được việc, còn chú tiểu kia có tánh hạnh xấu. Bất cứ việc gì
chú kia làm, chú này làm như thể do chính chú làm vậy. Chẳng hạn như khi chú
kia lấy nước cho Trưởng lão súc miệng, thì chú này lại đến gặp trưởng lão và thưa:
- Bạch
thầy nước đã sẵn, xin thầy súc miệng.
Và khi
bạn chú lo thức dậy sớm để lo quét dọn lều của Trưởng lão, thì ngay khi Trưởng lão
xuất hiện, chú cứ đụng tay vào thứ này vật nọ, làm như là toàn túp lều được chính chú dọn dẹp vậy.
Chú
tiểu lo tròn nhiện vụ kia tự nghĩ: "Anh bạn xấu tính này, hễ ta làm cái gì
thì anh ta cứ nói như thể chính anh ta làm. Ta sẽ phơi bày tính xấu của anh ấy
mới được".
Vì thế
khi anh chàng dối trá kia từ làng trở về, ăn xong liền đi ngủ, chú tiểu
này nấu nước nóng rồi đem dấu trong phòng và chỉ để lại ít nước trong nồi đun. Chú
tiểu kia thức dậy, đi đến và thấy hơi bốc lên liền tự nghĩ: "Chắc chắn anh
bạn ta đã đun nước và để trong buồng tắm:" Thế là chúđến gặp
Trưởng lão và thưa:
- Thưa
thầy, nước đã sẵn trong buồng tắm, xin thầy vào tắm.
Trưởng
lão theo chú đi tắm, nhưng chẳng thấy có nước trong buồng tắm, liền hỏi
chú nước đâu, chú vội trở vào bếp, bỏ gáo vào nồi trống và múc nước, chiếc gáo
chạm vào đáy nồi kêu lạch cạch (từ đó về sau chú bị người ta gọi
là Gáo-lạch-cạch)
Vào lúc
ấy chú tiểu kia vào lấy nước trong phòng sau rồi bảo:
- Thưa
thầy, xin thầy vào tắm.
Trưởng
lão tắm xong và bây giờ Tôn giả đã biết tánh hạnh xấu của Gáo-lạch-cạch. Chiều
hôm ấy khi chú ta đến dọn cơm, Tôn giả khiển trách chú:
- Khi
kẻ nào đã phát nguyện tu hành, tự mình đã làm điều gì thì kẻ ấy mới có quyền
báo: "Tôi đã làm điều ấy". Nếu không, thì đó chỉ là một lời nói dối có
toan tính. Từ nay trở đi chớ có phạm ác hạnh như thế nữa.
Chú
tiểu giận Trưởng lão và hôm sau chú không chịu theo Tôn giả về thành phố khất
thực. Nhưng chú tiểu kia đi theo Tôn giả.
Còn
Gáo-lạch-cạch đến viếng một gia đình thủ hộ của Trưởng lão. Người nhà hỏi
Trưởng lãođâu, thì chú bảo ngài bị bệnh, phải ở nhà. Họ hỏi chú cần gì, chú
bảo:
- Hãy
cho tôi các thứ như thế... như thế...
Rồi chú
mang các thứ ấy đến một nơi chú thích và ăn xong trở về lều.
Hôm
sau, Trưởng lão đến thăm gia đình ấy và ngồi xuống với họ. Họ nói:
- Phải
chăng ngài không được khỏe? Nghe nói hôm qua ngài phải ở trong phòng. Chúng
tôi có gởi ít thức ăn nhờ chú tiểu kia mang về, ngài có dùng các thứ ấy không?
Trưởng
lão giữ vẽ bình thản không nói gì và sau khi dùng xong bữa. Tôn giả trở về Tinh
xá.
Vào
buổi chiều, khi chú ấy đến hầu thầy, vị Trưởng lão bảo chú:
- Này
chú, chú đến xin gia đình kia, trong làng kia, chú bảo: "Trưởng
lão cần phải ăn các thứ như thế... như thế..." rồi họ nói chính chú
ăn các thứ ấy. Khất thực như thế là hết sức bất chánh. Hãy giữ gìn, chớ phạm ác
hạnh như vậy nữa.
Thế là
chú ấy cứ mãi nuôi lòng thù hận Trưởng lão, chú nghĩ: "Hôm qua chỉ do một
chút nước, ông ấy mắng xối vào mình, còn bây giờ tức giận vì ta đã ăn một nắm cơm ở nhà thủ hộ của
ông, ông ta gây sự với ta nữa, ta sẽ tìm cách cư xử xứng hợp với ông ấy".
Ngày
hôm sau, khi Trưởng lão vào thành phố khất thực, chú ta lấy búa đập vỡ hết các bình bát để đựng thức ăn và châm lửa đốt túp lều lá rồi phóng chạy
đi. Lúc còn sống, chú trở thành kẻ cùng khổ đói khát giữa đời này và tàn tạ
dần cho đến khi chết chú bị sinh vào Ðại địa ngục A-tỳ (Avici). Mọi
người đều biết đến hành vi xấu xa của chú.
Một hôm
vài Tỷ-kheo từ Vương Xá đến Xá Vệ. Sau khi cất bình bát và áo ngoài vào trong phòng
chung, họ đến đảnh lễ bậc Ðạo Sư và ngồi xuống.
Bậc Ðạo
Sư vui vẻ trò chuyện với họ và hỏi họ từ đâu đến.
- Bạch
Thế Tôn, từ Vương Xá.
- Thế
ai là Pháp sư ở đó? - Ngài hỏi.
- Bạch
Thế Tôn , Tôn giả Mahàkassapa (Ðại Ca-diếp).
- Này
các Tỷ-kheo, Kassapa có được an lành không? Ngài hỏi.
- Bạch
Thế Tôn, Trưởng lão vẫn khỏe mạnh. Nhưng một chú tiểu giận dữ vì bị Trưởng lão
quở trách đã nổi lửa đốt túp lều của vị ấy rồi bỏ đi.
Bậc Ðạo
Sư nghe thế liền bảo:
- Này
các Tỷ-kheo, Kassapa độc cư còn tốt hơn là sống chung với một kẻ ngu dại như thế.
Nói
xong Ngài đọc một bài kệ, được ghi lại trong Kinh Pháp cú:
Ðừng đi cùng với bọn tầm thường,
Nên tránh giao du với lũ dại cuồng,
Chọn bạn bằng ta hay vượt trội,
Hoặc là đơn độc tiến trên đường.
Nên tránh giao du với lũ dại cuồng,
Chọn bạn bằng ta hay vượt trội,
Hoặc là đơn độc tiến trên đường.
Sau đó Ngài lại bảo các Tỷ-kheo:
- Này
các Tỷ-kheo không phải bây giờ chú ấy mới phá hoại túp lều và cảm thấy căm giận
người đã quở trách mình. Ngày xưa chú ấy cũng đã căm giận như thế.
Rồi
Ngài kể cho họ nghe một chuyện đời xưa.
*
Ngày
xưa khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra là một con chim
Singila (loài chim có sừng). Khi trở thành một con chim lớn, ngài đến trú tại vùng Tuyết Sơn và xây một cái tổđúng
ý thích, có thể chống chọi với mưa gió.
Bấy
giờ vào mùa mưa, mưa hoài không dứt, một con Khỉ kia ngồi gần bên Bồ-tát, răng
đánh lập cập vì trời lạnh quá. Trông thấy Khỉ khổ sở như vậy, Bồ-tát nói chuyện
với nó và đọc bài kệ đầu:
Khỉ ạ, tay chân mặt mũi ngươi,
Xem ra thật giống với người thôi.
Sao không xây lấy nơi cư trú
Ðể núp khi giông bảo đến nơi?
Xem ra thật giống với người thôi.
Sao không xây lấy nơi cư trú
Ðể núp khi giông bảo đến nơi?
Khỉ
nghe thế liền đọc bài kệ thứ hai:
Chim hỡi, tay chân mặt mũi ta
So cùng người thật giống, không xa
Trí khôn, lợi nhất người thừa hưởng
Phần ấy ta đây bị loại ra.
So cùng người thật giống, không xa
Trí khôn, lợi nhất người thừa hưởng
Phần ấy ta đây bị loại ra.
Bồ-tát
nghe xong liền đọc bài kệ nữa:
Kẻ nào vẫn trơ tráo hoài,
Tâm hồn hời hợt đổi thay không ngừng.
Tỏ ra cung cách thất thường,
Thì niềm hạnh phúc chẳng đường tìm ra.
Khỉ ơi, hạnh muốn tiến xa,
Ngươi cần gắng sức thật là tinh chuyên
Ði đi, lều lá dựng lên
Ðể mà trú ẩn tránh phiền gió đông.
Tâm hồn hời hợt đổi thay không ngừng.
Tỏ ra cung cách thất thường,
Thì niềm hạnh phúc chẳng đường tìm ra.
Khỉ ơi, hạnh muốn tiến xa,
Ngươi cần gắng sức thật là tinh chuyên
Ði đi, lều lá dựng lên
Ðể mà trú ẩn tránh phiền gió đông.
Khỉ
tự nghĩ: "Con vật này nhờ trú ẩn một nơi tránh được mưa tỏ ra khinh dễ ta". Thế rồi quyết
bắt cho được Bồ-tát, nó phóng tới vồ lấy ngài. Nhưng Bồ-tát đã bay lên không, tung cánh đi nơi khác. Còn con khỉ, sau khi đập phá tổ chim, liền bỏ đi.
*
Sau
khi chấm dứt bài thuyết giảng, bậc Ðạo Sư nhận diện, Tiền thân:
-
Lúc bấy giờ, chú tiểu nổi lửa đốt túp lều là con Khỉ,
còn Ta là con chim Singila.
-ooOoo-
322.
Chuyện Tiếng Động Mạnh (Tiền thân Daddabha)
Từ nơi
trú ẩn của tôi đây ...,
Chuyện
này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một số tà sư ngoại đạo.
Các tà
sư ngoại đạo này, tại nhiều nơi khác nhau gần Kỳ Viên, nằm trên gai,
chịu năm cách lửa đốt (bốn ngọn kửa chung quanh và mặt trời ở trên) và thực
hành tà khổ hạnh về nhiều loại khác nhau. Bấy giờ có một số Tỷ-kheo trên đường khất thực từ xa về, trông
thấy các tà sư ngoại đạo ấy đang thể hiện những khổ hạnh giả hiệu kia, liền đến
hỏi bậc Ðạo Sư:
- Bạch
Thế Tôn các tà sư ngoại đạo ấy thực hành khổ hạnh như vậy có công đức gì không?
Bậc Ðạo
Sư dạy:
- Này
các Tỷ-kheo, chẳng có công đức gì, cũng chẳng có giá trị đặc biệt nào trong việc ấy cả.
Khiđược quán xét và thử nghiệm, nó cũng giống như một đường mòn ở trên đống phân hay giống như tiếng
động mà con thỏ rừng đã nghe thôi.
Rồi do
yêu cầu của các Tỷ-kheo, Ngài kể một chuyện đời xưa.
*
Ngày
xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra là một con Sư tử.
Khi đã trưởng thành ngài sống trong một khu rừng.
Bấy giờ ở gần biển Tây có một khu rừng cây kè (thốt nốt) lẫn với cây vilva. Một
con Thỏ rừng sống ở đây, dưới một cây kè
nhỏ, bên một gốc cây vilva.
Một
hôm sau khi ăn xong, Thỏ đến nằm bên
dưới cây kè nhỏ ấy, thế rồi nó chợt nghĩ: "Nếu đất này bị hủy hoại, ta sẽ ra làm sao nhỉ?"
Ngay lúc ấy một trái vilva chín rơi xuống trên ngọn lá kè. Nghe tiếng động ấy Thỏ liền nghĩ: "Ðất vững chắc này đang sụp xuống". Thế là nó vụt chạy, chẳng
ngoái cổ nhìn lui. Một con thỏ rừng khác nhìn thấy nó phóng đi và có vẻ hãi hùng sắp chết như vậy, liền hỏi
nó vì sao mà nó phải kinh hoàng vụt chạy. Thỏ đáp:
-
Xin đừng hỏi tôi.
Con
Thỏ kia la lên:
-
Này cái gì vậy chớ?
Rồi
cứ chạy theo nó. Nó dừng lại một chốc, chẳng quay nhìn lui mà nói:
-
Ðất ở đây đang vỡ ra đấy.
Nghe
thế con thỏ thứ hai chạy theo nó. Rồi cứ thế con thỏ này chạy theo con thỏ khác
nối nhau thành một trăm ngàn con phóng chạy. Rồi một con nai, một con heo rừng,
một con hoẵng, một con trâu, một con bò rừng, một con tê giác, một con cọp, một
con sư tử và một con voi trông thấy chúng chạy qua. Khi chúng hỏi làm sao mà
chạy như thế vì đều trả lời rằng đất sắp
vỡ ra, chúng cũng phóng chạy với nhau luôn. Thế là cả đám loài vật ấy kéo ra dài cả một dặm.
Khi
Bồ-tát trông thấy đám loài vật cứ cắm đầu phóng chạy và nghe duyên cớ là đất sắp đến lúc diệt tận, ngài liền nghĩ. Chẳng
có đâu đất đến lúc diệt tận cả. Chắc chắn phải có
một tiếng động nào đó mà chúng đã hiểu lầm và nếu chính ta không nỗ lực thật
nhiều thì chúng sẽ chết hết. Ta phải cứu mạng chúng mới được."
Với
tốc độ của một con sư tử. Bồ-tát phóng đến chân núi
trước chúng và ba lần rống lên tiếng rống của Sư tử. Chúng quá kinh hãi trước
sư tử bèn dừng lại đứng đùn nhau thành một đám hỗn loạn. Sư tử bước vào trong bọn chúng và
hỏi tại sao chúng phóng chạy như vậy.
-
Ðất đang sụp. Chúng trả lời.
-
Ai thấy đất sụp? Sư tử hỏi.
-
Bọn voi biết rõ hết. Chúng đáp.
Sư
tử liền hỏi bọn voi, chúng đáp:
-
Chúng tôi không biết, bọn sư tử biết.
Nhưng
bọn sư tử lại nói:
-
Chúng tôi không biết, bọn cọp biết.
Bọn
cọp nói:
-
Bọn tê giác biết.
Bọn
tê giác nói:
-
Bọn bò rừng biết.
Bọn
bò rừng nói:
-
Bọn trâu.
Bọn
trâu nói:
-
Bọn hoẵng.
Bọn
hoẵng nói:
-
Bọn heo rừng.
Bọn
heo rừng nói:
-
Bọn nai.
Bọn
nai nói:
-
Chúng tôi không biết, bọn thỏ rừng biết.
Khi
bọn thỏ rừng được hỏi, chúng chỉ vào
một con thỏ và nói:
-
Tên này đã bảo chúng tôi như
thế.
Bồ-tát
hỏi:
-
Này ông bạn có phải đất đang vỡ ra chăng?
Thỏ đáp:
-
Vâng, thưa ngài, tôi đã thấy như thế.
-
Khi bạn thấy thế bạn đang ở đâu? Bồ-tát hỏi.
Thỏ
nói:
-
Thưa ngài ở gần biển trong một khu rừng kè xen lẫn với cây vilva tôi chợt nghĩ,
"Nếu đất này vỡ ra, ta sẽ đi đâu?" Ngay lúc ấy tôi nghe tiếng đất vỡ
rồi phóng chạy.
Sư
tử nghĩ: "Rõ ràng là một trái vilva chín đã rơi trên một ngọn lá kè gây nên một tiếng
"thụp" và chú Thỏ này vội kết luận rằng đất đang đến lúc diệt tận, rồi chú liền chạy đi.
Ta muốn tìm cho ra sự thật chính xác như thế nào?"
Sư
tử an ủi bầy thú kia và bảo:
-
Ta sẽ mang chú Thỏ này đi khám phá thật chính
xác ngay tại chỗ mà chú ta đã chỉ để xem đất ở đó có sắp diệt tận hay không. Các
bạn hãy ở đây cho đến khi ta quay
trở lại.
Thế
rồi đặt Thỏ lên lưng mình, với tốc độ của Sư tử ngài phóng tới, để con Thỏ xuống khi tới khu rừng kè và nói:
-
Hãy đi chỉ chỗ mà bạn đã muốn nói.
-
Thưa ngài, tôi không dám đâu. Thỏ nói.
-
Ði đi, đừng sợ. Sư tử đáp.
Con
thỏ không dám đến gần cây vilva, cứ
đứng xa mà kêu lên:
-
Thưa ngài, đằng kia kìa, đó là nơi tiếng động khủng khiếp ấy.
Rồi
nó đọc bài kệ đầu:
Từ nơi trú ẩn của tôi đây,
Tiếng thụp bỗng nghe kinh hãi thay.
Tiếng ấy là gì không thể nói,
Cũng không hiểu được bởi gì gây.
Tiếng thụp bỗng nghe kinh hãi thay.
Tiếng ấy là gì không thể nói,
Cũng không hiểu được bởi gì gây.
Sau
khi nghe Thỏ nói, Sư tử liền đến gốc cây vilva, trông
thấy chỗ Thỏ đã nằm dưới bóng cây kè và thấy trái vilva chín đã rơi trên ngọn lá kè kia. Sau khi đã cẩn thận xác nhận rằng đất không bị vỡ, Bồ-tát liền đặt Thỏ lên lưng và
với tốc độ của Sư tử, phóng về
chỗ bọn thú đang đứng.
Thế
rồi ngài kể cho chúng nghe toàn bộ sự việc và nói:
-
Ðừng sợ hãi nữa.
Sau
khi an ủi bọn thú, ngài để cho chúng ra đi. Quả
thật nếu lúc ấy không nhờ Bồ-tát thì tất cả các con thú kia đều đổ xô vào biển mà chết. Chính tất cả đều nhờ Bồ-tát mà thoát chết.
Hãi hùng vì tiếng trái rơi ra,
Thỏ nọ, một lần đã chạy xa.
Tất cả thú kia đều nối gót,
Rúng lòng vì thỏ hoảng kinh mà
Chúng không xem rõ việc là gì,
Chuyện nhảm, không đâu, lắng tai nghe,
Cả đám, đều vô cùng rối loạn
Với niềm kinh hoảng rất ngu si.
Những ai đạt được hạnh thông cao,
Trí tuệ lạc an nhập được vào,
Việc xấu dù cho còn xúi gọi.
Kinh hoàng, như thế xá chi nào!
Thỏ nọ, một lần đã chạy xa.
Tất cả thú kia đều nối gót,
Rúng lòng vì thỏ hoảng kinh mà
Chúng không xem rõ việc là gì,
Chuyện nhảm, không đâu, lắng tai nghe,
Cả đám, đều vô cùng rối loạn
Với niềm kinh hoảng rất ngu si.
Những ai đạt được hạnh thông cao,
Trí tuệ lạc an nhập được vào,
Việc xấu dù cho còn xúi gọi.
Kinh hoàng, như thế xá chi nào!
Ba
bài kệ được sáng tác ra từ Trí
Tuệ Toàn hảo của đức Phật.
*
Sau
khi chấm dứt bài thuyết giảng, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:
-
Bấy giờ, chính Ta là con Sư tử.
-ooOoo-
323.
Chuyện Vua Brahmadatta (Tiền thân Brahmadatta)
Như thế
này là đúng tính chất...,
Chuyện
này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại đền thờ Aggàlava, gần Àlavi, về các điều lệ phải giữ trong việc xây
tinh xá.
Câu
chuyện khởi đầu đã được kể trước đây, trong số 253. Tiền thân Manikantha. Nhưng
ở bậcÐạo Sư dạy:
- Này
các Tỷ-kheo, có phải các ông sống ở đây bằng cách gây phiền hà khi xin đồ vật và khất thực chăng?
Khi họ đạp "vâng", Ngài quở
trách họ và bảo:
- Các
bậc hiền trí ngày xưa, khi được vua ban cho họ thứ mà họ thích, dù họ muốn
xin đôi giày đế đơn, và vì sợ vi phạm bản tính tinh tế cẩn
trọng của họ, nên trước mọi người, họ không dám nói một lời, mà chỉ nói riêng
thôi.
Rồi
Ngài kể cho họ một chuyện đời xưa.
*
Ngày
xưa, trong vương quốc Kampillaka, khi một vị vua xứ Pãncàla trị vì trong kinh
thành ở phía bắc Pãncàla, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn, tại một thị trấn nọ. Khi lớn
lên, ngài tiếp thu kiến thức về các học nghệ tại Takkasilã. Sau đó ngài thọ giới luật của một ẩn sĩ và trú trong
vùng Tuyết Sơn. Ngài sống ở đó một thời gian lâu và
sống bằng cách lượm nhặt trái, củ rừng.
Rồi
khi lai vãng các nơi có người ở để kiếm muối và giấm,
ngài đến phía bắc Pãncàla và trú trong vườn cây của
nhà vua. Ngày hôm sau, ngài vào thành khất thực và đến cổng nhà vua. Vua rất hài lòng về cử chỉ
thái độ của ngài nên mời ngài ngồi trên bệ và dâng
ngài các thức ăn xứng với vị vua. Vua
long trọng hứa kết thân với ngài và giao cho ngài một chỗ ở trong khu rừng vườn
ấy.
Ngài
ở mãi trong ngôi nhà vua và khi mùa mưa chấm dứt, muốn trở lại vùng Tuyết Sơn,
ngài tự nghĩ: "Nếu ta lên đường, ta cần có một đôi
giầy đế đơn và một cái dù lá. Ta hỏi xin đức vua các thứ ấy".
Một
hôm, ngài đến vườn cây và thấy vua đang ngồi đó, ngài chào vua và định hỏi xin vua giày và dù. Nhưng ngài lại
nghĩ: "Khi một người xin người khác và nói: Hãy cho tôi thứ ấy, thứ
ấy...., thì người ấy muốn khóc lên được và khi người kia từ chối và nói: Tôi không có thứ ấy ..., thì
phần mình cũng muốn khóc lên được". Và để cho mọi người khỏi phải thấy ngài hoặc vua
khóc, ngài nghĩ: "Cả hai chúng ta sẽ yên ổn khóc ở một nơi kín đáo". Vì thế ngài nói:
-
Tâu Ðại vương, tôi muốn nói chuyện riêng với ngài.
Các
cận thần của vua nghe thế liền bỏ đi. Nhưng Bồ-tát lại nghĩ: "Nếu vua từ chối lời thỉnh cầu của
ta thì tình bạn giữa vua và ta sẽ chấm dứt. Vậy ta không nên hỏi xin vua thứ gì
cả".
Hôm
ấy, vì không dám nêu vấn đề, ngài bảo:
-
Tâu Ðại vương, xin ngài hãy đi, để tôi xem lại
chuyện này đã.
Hôm
khác, khi vua vào vườn cây, cũng như trước, Bồ-tát nói thế này rồi thế kia và
không thể bày tỏ lời thỉnh cầu của mình được. Và cứ thế, mười hai năm trôi qua.
Bấy
giờ, vua tự nghĩ: "Vị giáo sĩ này bảo: Tôi muốn nói riêng, và khi các quan
bỏ đi, ngài lại không có can đảm nói. Ngài mong muốn như thế đã mười hai năm qua. Ta nghĩ rằng sau mười hai
năm sống đời tu hành lâu như thế, ngài đang tiếc nhớ cuộc đời này. Ngài muốn hưởng lạc thú và khao khát
quyền cao. Nhưng vì không thể bày tỏ ra được tiếng "vương quốc" nên người đành giữ im lặng. Hôm nay, từ vương quốc của ta
trở xuống, hễ ngài muốn gì, ta đều trao cho cả.
Thế
là vua vào vườn cây, chào Bồ-tát và ngồi xuống, Bồ-tát xin được nói riêng với vua và khi các cận thần ra đi, ngài lại không thể nói ra lời nào. Vua bảo:
-
Ðã mười hai năm nay, ngài cứ xin nói chuyện riêng với ta, thế mà khi có cơ hội
thuận tiện, ngài lại không thể thốt lên được một lời, ta thuận cho ngài mọi thứ, từ vương quốc của ta trở
xuống. Ngài chớ có e ngại, cứ hỏi xin thứ gì mà ngài thích đi!
-
Tâu Ðại vương, - Bồ-tát nói - Ngài có vui lòng cho tôi cái mà tôi thích chăng?
-
Vâng thưa Tôn giả, vui lòng.
-
Tâu Ðại vương, khi tôi lên đường ra đi, tôi cần có
một đôi giày đế đơn và một cái dù lá.
-
Ngài ơi, thế mà suốt mười hai năm qua, ngài đã không thể nào hỏi xin một điều quá nhỏ nhặt như thế được ư?
-
Tâu Ðại vương, thế đấy ạ.
-
Tại sao ngài lại làm như thế chứ?
-
Tâu Ðại vương, khi một người bảo: "Hãy cho tôi thứ ấy ...," người ấy
phải rơi nước mắt và kẻ từ chối: "Tôi khômg có thứ ấy" thì về phần
mình, kẻ ấy cũng phải khóc. Nếu khi tôi xin mà ngài từ chối, tôi sợ rằng người
ta có thể thấy chúng ta hoà lẫn nước mắt. Ðó là lý do khiến tôi xin được kín đáo hỏi.
Thế
rồi ngài mở đầu bằng cách đọc ba bài
kệ:
Như thế này đúng là tính chất,
Của lời xin, kính bạch Ðại vương,
Nó luôn luôn vẫn sẽ mang
Hoặc lời từ chối, hoặc phần tặng trao.
Tâu chúa công, kẻ nào thỉnh nguyện,
Nước mắt kia đã muốn trào ra;
Còn người từ chối lời kia
Cũng là khó giữ đầm đìa lệ rơi.
Tôi sợ rằng mọi người thấy được
Chúng ta đây nhỏ nước mắt suông
Nêu điều tôi hỏi xin mang
Bên ngài thầm kín, tôi cần rỉ tai.
Của lời xin, kính bạch Ðại vương,
Nó luôn luôn vẫn sẽ mang
Hoặc lời từ chối, hoặc phần tặng trao.
Tâu chúa công, kẻ nào thỉnh nguyện,
Nước mắt kia đã muốn trào ra;
Còn người từ chối lời kia
Cũng là khó giữ đầm đìa lệ rơi.
Tôi sợ rằng mọi người thấy được
Chúng ta đây nhỏ nước mắt suông
Nêu điều tôi hỏi xin mang
Bên ngài thầm kín, tôi cần rỉ tai.
Vua
rất đẹp lòng vì sự biểu lộ lòng kính trọng kia ở
phần Bồ-tát. Ngài ban tặng ân huệ cho Bồ-tát và đọc bài kệ thứ tư:
Ta tặng ngài một bầy bò đỏ,
Gồm ngàn con, thêm có người chăn
Lời ngài cao quí muôn vàn,
Phần ta xúc cảm rộng lòng phát ban.
Gồm ngàn con, thêm có người chăn
Lời ngài cao quí muôn vàn,
Phần ta xúc cảm rộng lòng phát ban.
Nhưng
Bồ-tát bảo:
-
Tâu Ðại vương, tôi không muốn những thú vui vật chất. Hãy cho tôi thứ tôi xin
mà thôi.
Rồi
ngài mang đôi giày đế đơn, cầm chiếc dù lá và khích lệ vua nhiệt
tâm trong đạo, giữ giới luật và
tuân hành ngày trai tịnh. Thế rồi dù vua nài nỉ ngài ở lại, ngài vẫn ra đi vào dãy Tuyết Sơn, ởđây ngài phát huy các
Thắng trí và các Thiền chứng, sau đó tái sinh vào cõi Phạm thiên.
*
Bậc
Ðạo Sư chấm dứt bài thuyết giảng và nhận diện Tiền thân:
-
Bấy giờ, Ànanda là vị vua ấy; còn ta là ẩn sĩ nọ.
-ooOoo-
324.
Chuyện Thầy Tu Mặc Áo Da (Tiền thân Cammasảtaka)
Con vật
hảo tâm tỏ ra vâng phục ...,
Chuyện
này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo mặc áo bằng da.
Áo
ngoài áo trong của ông đều bằng da cả. Một hôm, khi ra khỏi Tinh xá để đi khất thực
ở Xá Vệ, ông đến đấu trường của cừu đực. Một con cừu đực trông thấy ông, liền
thối lui định húc ông. Vị Tỷ-kheo tự nghĩ: "Nó làm như thế là để tỏ kính phục ta đấy".
Và ông không chịu lùi bước. Con cừu phóng tới húc vào đùi ông, làm ông ngã xuống đất. Trường hợp kính chào ảo
tưởng kia được đồn đại trong chúng Tỷ-kheo. Ðề mục được các Tỷ-kheo đem bàn tán
trong Pháp đường là vị khất sĩ mặc áo da kia tưởng được kính chào như thế nào và
gặp cái chết ra sao. Bậc Ðạo Sư bước vào và hỏi họ đang bàn tán việc gì. Sau khi
nghe kể lại. Ngài dạy:
- Này
các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà từ xưa kia cũng thế, tu sĩ ấy tưởng mình được kính chào và rồi phải mang
lấy cái chết.
Rồi
Ngài kể cho họ một chuyện đời xưa.
*
Ngày
xưa, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình thương gia và hành nghề buôn bán. Bấy giờ có một khất sĩ nọ,
mặc quần áo bằng da đang đi khất thực, đến
đấu trường của cừu đực và cừu đực thối lui khi đối diện với ông, ông tưởng nó
làm thế là tỏ dấu hiệu kính trọng nên ông không rút lui. Ông nghĩ: "Trên
toàn cõi đời này, chỉ riêng con
cừu này nhận biết các công hạnh của ta." Ôngđứng đó, chấp tay giơ lên kính
chào và đọc bài kệ đầu:
Con vật hảo tâm tỏ ra khâm phục
Trước Bà-la-môn đạo thức, đẳng cao.
Thú kia, ngươi thiện hảo biết là bao,
Mong ngươi được vang danh khắp loài vật.
Trước Bà-la-môn đạo thức, đẳng cao.
Thú kia, ngươi thiện hảo biết là bao,
Mong ngươi được vang danh khắp loài vật.
Bây
giờ một vị thương gia có trí tuệ đang ngồi trong cửa hàng mình, muốn can ngăn vị khất sĩ, liền đọc
bài kệ thứ hai:
Bà-la-môn, chớ kinh thường, tin nó,
Nó sẽ húc, người ngã xuống đất ngay.
Cừu đực kia đang lui lại như vầy,
Ðể phóng mạnh tới tấn công người đó.
Nó sẽ húc, người ngã xuống đất ngay.
Cừu đực kia đang lui lại như vầy,
Ðể phóng mạnh tới tấn công người đó.
Trong
lúc vị thương gia có trí tuệ ấy còn đang nói, con cừu đực phóng tới thật nhanh và húc vàođùi khất sĩ,
làm ông ngã xuống. Ông muốn cuồng lên vì đau đớn, và cứ nằm đó kêu than. Sự việc ấy được bậc Ðạo Sư diễn tả bằng bài kệ thứ ba:
Bình bát lật úp và chân bị gãy,
Người tiếc than thân phận ấy đau buồn.
Ðừng dang tay khóc lóc thật hoài công,
Mau cứu chữa trước khi người bị giết!
Người tiếc than thân phận ấy đau buồn.
Ðừng dang tay khóc lóc thật hoài công,
Mau cứu chữa trước khi người bị giết!
Và
vị khất sĩ đọc bài kệ thứ tư:
Kẻ nào tỏ kính cung nơi chẳng xứng,
Ðều xẻ chia số phận của tôi nay,
Bị cừu kia húc ngã xuống đất đây.
Tôi phải chết vì lòng tin vụng dại.
Ðều xẻ chia số phận của tôi nay,
Bị cừu kia húc ngã xuống đất đây.
Tôi phải chết vì lòng tin vụng dại.
Ông
ta than vãn như thế rồi sau đó chết đi.
*
Sau
khi chấm dứt bài thuyết giảng, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:
-
Người mặc áo da hôm nay và thời xưa ấy cũng là một. Còn ta là vị thương gia có
trí tuệ kia.
-ooOoo-
325.
Chuyện Con Tắc Kè (Tiền thân Godha)
Kẻ nào đóng vai tu ẩn dật ...,
Chuyện
này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ-Viên về một Tỷ-kheo xảo quyệt.
Câu
chuyện mở đầu đã được kể đầy đủ trước đây. Trong dịp này các Tỷ-kheo đưa ông ra trước bậc Ðạo Sư và thưa:
- Bạch
Ngài, Tỷ-kheo này gian xảo.
Bậc Ðạo
Sư dạy:
- Không
phải chỉ bây giờ, xưa kia cũng thế, ông ta đã xảo quyệt.
Rồi
Ngài kể cho họ nghe một chuyện đời xưa.
*
Ngày
xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra là một con Tắc kè.
Khi lớn lên và trở nên khỏe mạnh, lực lưỡng, ngài trú trong một khu rừng.
Bấy
giờ một ẩn sĩ độc ác nọ dựng một túp
lều lá trú gần ngài. Bồ-tát trong khi đi đây đó kiếm ăn, trông thấy túp lều lá và tự nghĩ: "Túp lều
này hẳn phải là của một nhà tu khổ hạnh".
Ngài đến chào và hỏi nhà tu rồi quay về chỗ của mình.
Một
hôm ẩn sĩ giả mạo kia ăn một món ăn hợp khẩu
do người thủ hộ nấu cho, bèn hỏi người ấy thịt gì thế. Khi nghe nói rằng đó là thịt tắc kè, ông trở thành nô lệ cho lòng
ham muốn được ăn ngon, đến độ ông
tự nghĩ: "Ta sẽ giết con tắc kè vẫn thường đến lều ta và nấu nó theo khẩu vị của ta mà ăn".
Thế
là ông lấy ra một ít bơ, sữa đông, gia vị v.v ... Rồi
ông dấu kín chiếc gậy bên trong tấm y màu vàng của ông và đến ngồi ngay cửa lều , cố hết sức im lặng chờ
Bồ-tát đến.
Khi
Bồ-tát trông thấy con người tồi tệ ấy, ngài liền nghĩ: "Kẻ xấu này đã từng ăn thịt đồng loại ta. Ta sẽ thử xem có phải thế không". Thế
rồi ngài đứng dưới gió để đánh
hơi kẻ xảo quyệt ấy. Khi biết ông ta đã từng ăn thịt một con tắc kè, ngài không đến gần mà quay lại bỏ đi. Ẩn giả kia thấy ngài không đến, liền ném gậy vào người. Chiếc gậy không
trúng vào thân thể ngài mà chỉ chạm vào chóp đuôi. Ẩn giả nói:
-
Cút đi, ta để hụt mất ngươi.
Bồ-tát
bảo:
-
Vâng, ông đã trượt mất ta nhưng
ông không hụt mất Bốn cảnh khổ đâu.
Rồi
ngài chạy chui biến vào trong một bụi kín ở cuối lối đi và thò đầu ra bằng một lỗ khác mà nói với ẩn giả bằng hai bài kệ sau:
Kẻ nào đóng vai tu ẩn dật,
Chế ngự mình, cần được tỏ ra.
Chính người ném gậy vào ta,
Người tu ẩn dật hẳn là giả danh.
Chế ngự mình, cần được tỏ ra.
Chính người ném gậy vào ta,
Người tu ẩn dật hẳn là giả danh.
Tóc bện ấy, da trần không áo
Ðể che trùm, tội giấu kín hoài.
Khùng thay! Lo sạch bề ngoài,
Bỏ quên mọi thứ xấu tồi bên trong.
Ẩn
giả nghe thế liền đọc bài kệ thứ ba:
Tắc kè ơi, mau vòng quay lại,
Muối, dầu, ta chẳng phải thiếu đâu.
Cả tiêu, ta nảy ý cầu
Một phần thích khẩu thêm vào món cơm.
Muối, dầu, ta chẳng phải thiếu đâu.
Cả tiêu, ta nảy ý cầu
Một phần thích khẩu thêm vào món cơm.
Bồ-tát
nghe thế liền đọc bài kệ thứ tư:
Ta ẩn náu êm đềm ấm cúng
Giữa đám đông trong đụn kiến này.
Muối, dầu, chuyện nhảm chớ bày
Cả tiêu kia nữa, ta đây chán rồi.
Giữa đám đông trong đụn kiến này.
Muối, dầu, chuyện nhảm chớ bày
Cả tiêu kia nữa, ta đây chán rồi.
Ngoài
ra, ngài còn dọa:
-
Này nhà tu giả mạo kia, thật đáng kinh tởm! Nếu ông
còn ở đây, ta sẽ khiến mọi người sống trong vùng ta đi kiếm ăn bắt ông như một kẻ trộm và ông sẽ bị
hại. Thế thì hãy lo mau mau cút đi.
Thế
là nhà tu giả mạo kia liền bỏ chạy khỏi nơi ấy.
*
Thuyết
giảng xong, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:
-
Bấy giờ Tỷ-kheo xảo quyệt này là nhà tu giả hiệu kia, còn ta là vua Tắc kè.
-ooOoo-
0 Komentar