Chương IV
Phẩm Bốn Bài Kệ
301.
Chuyện Tiểu Vương Kàlinga (Tiền thân Cullakàlinga)
Hãy mở
cổng cho các nàng thiếu nữ ...,
Chuyện
này do bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên, về việc thâu nhận bốn nữ du sĩ ngoại đạo vào Giáođoàn.
Theo
truyền thuyết dòng họ Licchavi, một gia tộc cai trị gồm tới bảy ngàn bảy trăm
lẻ bảy người, đều sống tại Vesàli (Tỳ-xá-ly). Họ là những người rất ham thích
tranh biện.
Bấy giờ
có một du sĩ theo đạo Kỳ-na có thể biện thuyết trôi chảy năm trăm đề tài khác
nhau. Ông ta đến Vesàli và được đón nhận nồng nhiệt. Một nữ tu Kỳ-na khác
cũng có đặc tài như vậy và cũng đến Vesàli. Những người trưởng thượng Licchavi tổ
chức một cuộc tranh luận giữa hai người ấy. Khi cả hai đều chứng tỏ là những nhà biện
luận đặc tài, thì những người Licchavi nghĩ rằng cả hai người chắc
chắn sẽ có những đứa con tài giỏi. Thế rồi họ sắp đặt hôn nhân cho hai người. Bốn
con gái và một con trai ra đời do sự kết hợp này.
Các cô
gái tên là Saccà, Lolà, Avavàdakà và Patàkàrà; còn cậu con trai tên là Saccaka.
Năm người con này, khi đến tuổi trưởng thành, đã học được một ngàn đề tài khác nhau; năm trăm đề
tài do mẹ dạy và năm trăm do cha. Hai vợ chồng căn dặn các con gái như sau:
- Nếu
có người tại gia nào bài bác được các đề tài của các con thì các con hãy làm
vợ người ấy; còn nếu một tu sĩ đánh bại các con thì các con hãy tôn vị ấy làm
thầy.
Sau đó, hai vợ chồng chết đi. Chàng
Kỳ-na Saccaka tiếp tục sống tại nơi ấy ở Vesàli, học tập kiến thức của dòng họ
Licchavi, còn bốn chị em chàng cầm trong tay một cành hồng đào nhàn du đây đó, từ thành phố này sang
thành phố khác để tranh luận. Cuối cùng họ đến Xá-vệ. Họ cắm cànhđào ở
cổng thành và bảo mấy cậu trai ở đó:
- Nếu
có người đàn ông nào, dù là cư sĩ hay tu sĩ, tranh luận ngang ngửa với
chúng tôi về một đề tài thì cứ việc đá tung đống đất này và dẫm lên cành cây này.
Nói
xong họ vào thành để nhận đồ bố thí.
Bấy
giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất (Sàriputta), sau khi đã quét tước sạch sẽ những nơi
cần thiết, đổ nước vào các bình và săn sóc các người bịnh, liền đi vào
Xá-vệ để khất thực. Khi trông thấy và nghe kể về cành cây kia, Tôn
giả bảo các cậu trai hạ nó xuống và dẫm lên. Tôn giả nói:
- Bảo
với mấy người trồng cành cây này rằng khi họ đã dùng bữa xong, hãy đến gặp ta tại phòng có nóc
nhọn trên cổng Tinh xá Kỳ Viên.
Thế
rồi, Tôn giả vào thành. Sau khi dùng bữa xong, Tôn giả đứng trong căn phòng phía trên
cổng Tinh xá. Các nữ tu sĩ khổ hạnh, sau khi đi khất thực về, trông thấy
cành cây bị dẫm lên. Họ hỏi aiđã làm như thế và được các cậu trai kia bảo rằng
chính là Xá-lợi-phất, rằng nếu họ muốn tranh luận thì cứ đến căn phòng phía trên cổng
Tinh xá.
Họ quay
trở lại thành phố, theo sau họ là một đám đông người đến tháp cổng Tinh xá. Sau đó họ
đưa ra cho Tôn giả Xá-lợi-phất một ngàn đề tài. Vị Tỷ-kheo giải đáp mọi khó khăn khúc mắc của
các đề tài ấy và sau đó hỏi xem họ còn biết gì nữa không.
Họ trả
lời:
- Thưa
ngài, không còn gì nữa!
Tôn giả
nói:
- Thế
thì ta sẽ hỏi các ngươi một điều.
Họ đáp:
- Thưa
ngài, xin ngài cứ hỏi; nếu chúng tôi biết, chúng tôi sẽ trả lời
Vị
Tỷ-kheo đưa ra một câu hỏi. Họ không trả lời được. Tôn giả liền giải
đáp cho họ.
Sau đó họ bảo:
- Chúng
tôi đã thua rồi, phần thắng đã về ngài.
- Các
người sẽ tính sao đây? Tôn giả hỏi.
Họ đáp:
- Cha
mẹ chúng tôi có khuyên dạy như vầy: Nếu một cư sĩ đánh bại được các con tranh
luận, các con hãy làm vợ người ấy; nhưng nếu đó là một tu sĩ thì các con hãy
tôn vị ấy làm thầy. Do đó - Họ nói tiếp - Xin ngài nhận chúng tôi vào đời sống Phạm hạnh.
Vị
Tỷ-kheo chấp thuận và đưa họ vào nhà của Tỷ-kheo-ni tên gọi là Upplavannà (Liên Hoa
Sắc). Cả bốn người ấy chẳng bao lâu đều đạt Thánh quả.
Thế rồi
một hôm, các Tỷ-kheo bắt đầu bàn tán việc ấy trong Pháp đường. Họ bảo rằng Tôn giả
Xá-lợi-phất đã cho bốn nữ ngoại đạo ấy chỗ an trú như thế nào, rằng nhờ Tôn giả
mà cả bốn đều đạt Thánh quả ra sao. Khi bậc Ðạo Sư đến và nghe họ bàn tán, Ngài
dạy:
- Không
phải chỉ ngày nay mà từ xưa kia, Xá-lợi-phất đã cho bốn người ấy chỗ an trú.
Ngày nay ông đưa họ vào đời Phạm hạnh, còn ngày xưa ông đưa họ lên ngôi chánh hậu.
Rồi
Ngài kể một chuyện đời xưa.
*
Ngày
xưa, khi vua Kàlinga đang trị vì tại thành
phố Dantapura trong vương quốc Kàlinga, Assaka làm vua thành Potali trong xứ
Assaka. Bấy giờ, vua Kàlinga có một quân đội tinh nhuệ và chính ông cũng mạnh như con voi, nhưng ông chẳng
tìm thấy ai có thể đánh nhau với ông được.
Quá khao khát được đánh nhau, ông bảo các đại thần:
-
Ta muốn chiến đấu nhưng chẳng tìm được ai có thể chiến đấu với ta cả.
Các đại thần nói:
-
Tâu Ðại vương có một cách cho ngài: Ngài có bốn cô con gái đẹp tuyệt trần, ngài hãy bảo họ trang sức ngọc
ngà và bảo họ ngồi trong một chiếc xe đóng kín rồi cho một đạo quan hộ tống đi từng làng, từng thành
phố, từng kinh đô. Nếu có vị vua nào
muốn đưa họ vào hậu cung thì chúng ta sẽ đánh nhau với ông ta.
Vua
nghe theo ý kiến ấy. Nhưng đoàn người đi đến xứ nào, vua xứ ấy cũng sợ họ vào thành
phố, liền gởi tặng vật và xin họ đóng quân ở bên ngoài tường thành. Cứ thế, họ đi ngang dọc khắp nước Ấn Ðộ cho đến khi tới thành Potali trong xứ Assaka. Nhưng vua Assaka cũng đóng chặt cửa thành và chỉ gửi cho họ một tặng
vật.
Bấy
giờ vua xứ này có một đại thần rất thông minh,
đa năng và nhiều mưu lược, tên là Nandisena. Nandisena tự nghĩ: "Người ta
bảo rằng các công chúa này đã đi khắp nước Ấn Ðộ mà không tìmđược ai chịu chiến đấu để chiếm
lấy họ. Nếu đúng như thế thì Ấn Ðộ chỉ là cái tên rỗng. Ta sẽ chiến đấu với vua Kàlinga".
Thế
rồi ông ta đến bảo các lính gác mở
cổng thành cho họ vào và đọc vần kệ đầu:
Hãy mở cổng cho các nàng thiếu nữ,
Chúng ta đây đã giữ chắc được thành,
Nan-di-se-na sức lực vững vàng
Sư tử của vua A-ru-na đó.
Chúng ta đây đã giữ chắc được thành,
Nan-di-se-na sức lực vững vàng
Sư tử của vua A-ru-na đó.
Nandisena
nói như thế để sai mở cổng thành,
rồi đưa các cô gái đến ra mắt vua Assaka. Ông nói
với vua:
-
Ðại vương chớ sợ. Nếu phải chiến đấu, thần xin lo liệu. Hãy cho các công chúa xinh đẹp này làm chánh hậu.
Thế
rồi ông xức nước thánh cho họ để tôn họ lên ngôi hoàng
hậu. Ông cho các người hầu ra về, dặn họ bảo với vua Kàlinga rằng các con gái
của ông đã được làm chánh hậu. Khi người hầu về kể lại, vua
Kàlinga bảo:
-
Ta đoán rằng ông ấy chẳng biết ta mạnh như thế nào.
Liền đó vua đốc suất một đạo quân lớn. Nandisena nghe
ông đến gần, liền gởi sứ điệp như vầy:
-
Kàlinga hãy dừng chân, đừng lấn vào đất của chúng ta, và trận chiến sẽ xảy ra ở biên
thùy của hai nước.
Vua
Kàlinga nhận được sứ điệp liền dừng
lại ở ranh giới nước ông. Assaka cũng giữ quân của mình ở phía bên này ranh
giới.
Bấy
giờ Bồ-tát đang theo đời tu khổ
hạnh và sống ẩn dật trên một khoảng đất nằm giữa hai vương quốc. Vua Kàlinga tự nghĩ: "Những nhà
tu này là những người thông tuệ. Ai bảo rằng giữa hai bên, kẻ nào sẽ thắng, kẻ
nào sẽ bại? Ta sẽ đi hỏi nhà tu kia."
Thế là ông giả trang đi gặp Bồ-tát và kính
cẩn ngồi một bên ngài. Sau khi chào hỏi chúc tụng theo thông lệ, vua bảo:
-
Thưa Tôn giả, Kàlinga và Assaka, mỗi bên đều dàn quân lực ở biên thùy hai nước, chờ đánh nhau. Giữa hai bên, ai sẽ thắng, ai sẽ
thua?
Bồ-tát
trả lời:
-
Thưa Ðại vương bên này sẽ thắng bên kia sẽ thua? Tôi không thể nói cho ngài
biết gì hơn nữa. Nhưng Thiên chủ Ðế Thích, vua của cõi trời, sẽ đến đây. Tôi sẽ hỏi Thiên chủ và sẽ cho ngài
biết nếu ngày mai ngài trở lại đây.
Khi
Ðế Thích đến tham bái Bồ-tát,
ngài nêu câu hỏi kia Ðế Thích trả lời:
-
Kính thưa Tôn giả, Kàlinga sẽ thắng, Assaka sẽ thua. Có những triệu điềm sẽ báo trước sự việc ấy.
Hôm
sau, vua Kàlinga đến và lặp lại câu hỏi
ấy. Bồ-tát đưa ra câu trả lời của Ðế Thích. Bấy giờ vua Kàlinga chẳng cần hỏi
những triệu điềm ấy sẽ là gì, tự
nghĩ: "Họ bảo rằng ta sẽ thắng". Rồi ông trở về, hoàn toàn thỏa mãn.
Tin đồn lan ra. Khi vua Assaka nghe được, liền cho
mời Nandisena đến và nói:
-
Người ta bảo rằng Kàlinga sẽ thắng và chúng ta sẽ thua. Phải làm sao đây?
Nandisena
trả lời:
-
Thưa Ðại vương, ai biết được điều ấy? Xin ngài
chớ lo lắng về người nào sẽ thắng người nào sẽ thua.
Ông
trấn an vua xong, liền đến gặp Bồ-tát, kính cẩn
ngồi xuống một bên và hỏi:
-
Kính thưa Tôn giả, ai sẽ thắng, ai sẽ bại?
Bồ-tát
trả lời:
-
Kàlinga sẽ thắng và Assaka sẽ bị đánh bại.
Nandisena
hỏi:
-
Kính thưa Tôn giả điềm gì sẽ thuộc kẻ
thắng và điềm gì thuộc người bại?
-
Thưa ngài - Bồ-tát đáp- Thần bảo hộ của kẻ
thắng sẽ là một con voi đực toàn trắng, còn thần
bảo hộ của người bại sẽ là một con voi đực toàn đen. Hai vị thần bảo hộ
của hai vị vua ấy sẽ đánh nhau và sẽ có bên thắng, bên bại.
Nghe
thế, Nandisena đứng dậy rồi đi họp các
bạn đồng minh của vua Assaka lại. Họ gồm khoảng một ngàn người và tất cả đều là những chiến sĩ. Ông đưa họ lên một ngọn núi gần đó và hỏi họ:
-
Các người có chịu hy sinh đời mình cho đức vua không?
-
Thưa ngài, chúng tôi sẵn lòng. Họ đáp.
-
Thế thì các người hãy gieo mình xuống dốc núi này đi.
Khi
họ định làm theo lời ấy thì Nandisena ngăn họ lại
và nói:
-
Không cần phải thế. Các người tỏ ra là những người bạn trung kiên của đức vua và hãy dũng cảm chiến đấu vì ngài.
Tất
cả đều thề sẽ làm như thế. Khi chiến trận sắp bắt đầu, vua Kàlinga vẫn yên chí ông sẽ thắng. Quân
lính của ông cũng nghĩ: "Phần thắng sẽ về ta". Thế là họ mặc áo giáp,
sắp xếp đội hình rời rạc, rồi
mạnh ai nấy tiến lên. Ðến lúc cần phải dốc toàn lực thì họ không thể nào làm được!
Rồi
cả hai vua leo lên lưng ngựa xáp vào định đánh nhau. Còn hai vị thần bảo hộ của họ thì đánh nhau phía trước họ. Thần của Kàlinga hiện
hình là một con voi đực toàn trắng, còn thần
của vua kia là một con voi đực toàn đen, cả hai cũng xáp gần nhau và đang đánh nhau. Nhưng chỉ riêng hai vua trông
thấy hai con voi ấy, ngoài ra chẳng ai trông thấy được chúng. Bấy giờ Nandisen hỏi vua Assaka:
-
Tâu Ðại vương, Ðại vương có trông thấy hai vị thần bảo hộ không?
-
Có, ta có trông thấy họ, vua đáp.
-
Trông họ thế nào? Ông hỏi.
Thần
bảo hộ của Kàlinga hiện hình là một con voi đực trắng, còn thần của chúng ta hiện hình một con voi đen và có vẻ đang nguy khốn.
-
Xin Ðại vương đừng sợ, chúng ta sẽ
thắng và vua Kàlinga sẽ thua. Ngài chỉ cần xuống khỏi con ngựa Sindh khôn lanh
của ngài và cầm lấy cây thương này, rồi dùng tay trái đấm một cú vào sườn nó. Thế rồi ngài cùng với
một ngàn người này xông ào lên. Ngài sẽ dùng cây thương đâm vào thần bảo hộ của vua Kàlinga cho ngã
xuống. Trong lúc ấy, chúng tôi với một ngàn cây thương sẽ đâm vào thần ấy. Thế là thần bảo hộ của
Kàlinga sẽ chết, Kàlinga sẽ thua và chúng ta sẽ thắng.
-
Ðược rồi! Vua trả lời
Khi
Nandisena ra hiệu, vua dùng cây thương đâm vào thần bảo hộ của Kàlinga cùng lúc với các vị triều thần đâm một ngàn cây thương kia. Thần bảo hộ của vua
Kàlinga chết ngay tại chỗ.
Khi
ấy vua Kàlinga bị thua, phải bỏ chạy. Thấy thế, một ngàn người kia la lớn lên:
-
Kàlinga đã bỏ chạy.
Kàlinga
sợ chết. Vừa khi chạy thoát, ông đến trách cứ nhà tu khổ hạnh và đọc bài kệ thứ hai:
Quân Kà-lin-ga kiên cường thắng lợi
Quân As-sa-ka thất bại ê chề?
Ẩn giả ơi ngài đã nói tôi nghe.
Người chân thật chớ bao giờ nói dối.
Quân As-sa-ka thất bại ê chề?
Ẩn giả ơi ngài đã nói tôi nghe.
Người chân thật chớ bao giờ nói dối.
Khi
vua Kàlinga chạy trốn, ông đến trách cứ vị ẩn sĩ
như vậy, rồi từ chiến trận, ông chạy thẳng một mạch về kinh đô của mình, chẳng
dám ngoảnh lại một lần.
Ít
ngày sau, Ðế Thích đến thăm vị ẩn giả. Nhà
tu khổ hạnh nói với Thiên chủ bài kệ thứ ba:
Quí nhất của thần linh là chân thật
Các vị thần chẳng chịu nói sai ngoa,
Thế mà nay, ngài nói dối, Sak-ka,
Xin ngài nói lý do cho tôi biết.
Các vị thần chẳng chịu nói sai ngoa,
Thế mà nay, ngài nói dối, Sak-ka,
Xin ngài nói lý do cho tôi biết.
Nghe
thế, Ðế Thích đọc bài kệ thứ tư:
Bà-la-môn, há chẳng nghe:
Thần linh nào chẳng yêu vì hùng anh?
Những người dũng cảm, to gan
Ở nơi chiến trận chiếm phần thắng ngay.
Kiên cường mạo hiểm dạn dày,
As-sa-ka thắng trận này đúng thôi.
Thần linh nào chẳng yêu vì hùng anh?
Những người dũng cảm, to gan
Ở nơi chiến trận chiếm phần thắng ngay.
Kiên cường mạo hiểm dạn dày,
As-sa-ka thắng trận này đúng thôi.
Sau
cuộc đào tẩu của vua Kàlinga, vua Assaka trở về kinh
thành của mình với nhiều chiến lợi phẩm. Nandisena gởi một sứ điệp cho vua Kàlinga bảo vua ấy phải gởi phần
hồi môn cho bốn công chúa. Ông còn thêm:
-
Nếu không, ta sẽ biết cách đối xử với ông ta.
Vua
Kàlinga nghe thế, vội báo rằng ông sẽ gởi phần xứng đáng cho họ. Thế là từ đó về sau, hai vua sống thân hữu với nhau.
*
Khi
kể xong Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:
-
Bấy giờ, bốn nữ du sĩ trẻ tuổi kia là các con gái của vua Kàlinga, Xá-lợi-phất
là Nandisena, còn chính Ta là vị ẩn sĩ.
-ooOoo-
302.
Chuyện Đại Kỵ Sĩ (Tiền thân Mahà-Assàroha)
Giúp
cho kẻ dại người ngoa ...,
Chuyện
này do bậc Ðạo Sư kể tại Kỳ Viên, về Trưởng lão Ànanda.
Các
tình tiết đưa đến câu chuyện đã được trình bày trước kia. Bậc
Ðạo Sư dạy:
- Ngày
xưa cũng thế, các trí giả hành động theo nguyên tắc một nghĩa cử đáng được đền đáp.
Rồi
Ngài kể cho họ nghe một chuyện đời xưa.
*
Ngày
xưa, Bồ-tát là vua xứ Ba-la-nại, cai trị công chính, bố thí và giữ đúng luật lệ đạo đức.
Ðể
dẹp yên một vụ rối loạn ở biên thùy, ngài đốc suất một lực lượng lớn. Nhưng bị thất bại, ngài lên ngựa chạy
mãi cho tới khi ngài tới một ngôi làng ở biên địa. Bấy giờ có ba mươi người dân trung thành
sống ở đó. Họ đã họp nhau lại
từ rất sớm tại trung tâm ngôi làng để làm công việc. Ngay lúc ấy, vua cỡi con ngựa có mặc giáp với đầy đủ trang phục và tiến đến gần cổng làng. Mọi người đều sợ hãi và nói:
-
Gì thế kia?
Rồi
ai nấy đều chạy về nhà mình,
chỉ còn một người kia không chạy về nhà, đến đón tiếp vua. Ông ta kể cho người khách lạ hay rằng ông nghe
nói vua đã ra tới biên thùy và hỏi khách là kẻ bảo hoàng hay là kẻ phiến loạn.
Vua bảo:
-
Thưa ngài, tôi theo đức vua.
-
Thế thì hãy theo tôi.
Ông
ta nói thế rồi dẫn vua về nhà ông, bảo vua ngồi vào chỗ của riêng mình. Ông nói
với vợ:
-
Hãy rửa chân bạn của chúng ta.
Khi
bà vợ làm theo lời ông xong, ông dâng vua đồ ăn ngon nhất mà ông có thể làm được, rồi chuẩn bị sẵn giường cho vua, bảo vua
nghỉ một chốc. Vua nằm xuống giường. Rồi ông chủ nhà cởi giáp ngựa, thả nó ra,
cho nó uống nước, ăn cỏ và lấy dầu lau rửa
nó. Ông săn sóc vua ba bốn ngày chu đáo như thế. Rồi vua bảo:
-
Này bạn, bây giờ tôi đi đây.
Người
chủ lại làm đủ mọi việc để chuẩn bị
cho vua và con ngựa của ngài. Sau khi dùng bữa xong và sắp từ giã, vua nói:
-
Người ta gọi tôi là Ðại kỵ sĩ. Nhà tôi ở tại trung tâm thành phố. Nếu khi nào
bạn có công việc gìđến đó, hãy đứng ở cái cửa bên tay
phải và hỏi người gác cổng Ðại kỵ sĩ ở chỗ nào, rồi hãy cùng người ấy đến nhà tôi.
Nói
xong vua lên đường.
Bấy
giờ đạo quân kia không thấy vua ở đâu, vẫn đóng trại
ở bên ngoài thành. Nhưng khi thấyđược vua, họ đến đón tiếp ngài rồi hộ tống
ngài về. Khi vào thành, vua đứng ở lối vào cổng, gọi
người gác cổng và ra lệnh cho mọi người lui ra. Ngài bảo:
-
Này bạn, có một người kia sống tại một làng ở biên địa sắp đến đây để mong được gặp ta. Người ấy sẽ
hỏi nhà của Ðại kỵ sĩ ở đâu. Hãy dắt tay người
ấy và dẫn đến ra mắt ta. Làm xong
việc bạn sẽ có một ngàn đồng.
Nhưng
rồi người kia mãi không đến. Vua tăng thuế ở
ngôi làng mà ông sống. Thuế đã lên cao, vẫn không
thấy ông ta đến. Vì thế, vua lại
tăng thuế lần thứ hai, rồi lần thứ ba, ông ta vẫn không đến. Bấy giờ dân làng
ấy họp nhau lại và nói với ông ta:
-
Thưa ông, từ khi kỵ sĩ kia đến với ông, chúng ta bị
sưu thuế đè nặng đến nỗi chúng ta không
cất đầu lên được. Ông hãy đến gặp Ðại kỵ sĩ để nhờ ông ta làm đỡ bớt gánh nặng cho chúng ta.
-
Ðược rồi, tôi sẽ đi - ông ta đáp - nhưng
tôi không thể đi với tay không đâu đấy! Bạn tôi có hai đứa con trai, vậy các
người hãy chuẩn bị đồ trang sức, quần áo
cho vợ con bạn tôi và cho cả chính anh ta nữa.
-
Tốt lắm, họ trả lời.
Rồi
họ chuẩn bị đầy đủ mọi thứ để làm
quà tặng.
Người
chủ nhà kia mang cả quà tặng ấy cùng với một cái bánh rán tại nhà ông. Khi ông đến cửa bên tay phải, ông hỏi người gác cổng xem
nhà của Ðại kỵ sĩ ở đâu. Người gác cổng đáp:
-
Hãy lại đây tôi sẽ chỉ cho.
Rồi
người gác cổng dắt ông tới cổng cung vua và nhắn:
-
Người gác cổng đã đến và mang theo người đàn ông trú tại ngôi làng ở biên địa.
Vua
nghe thế, liền đứng dậy và nói:
-
Hãy để cho bạn ta vào cung cùng các thứ ông mang
theo.
Rồi
ngài ra đón tiếp và ôm lấy ông.
Sau khi hỏi thăm vợ con ông ta, ngài dắt tay ông bước lên bệ,đưa ông ngồi vào
ngai, dưới cây lọng trắng. Ngài gọi chánh hoàng hậu đến và bảo:
-
Hãy rửa chân cho bạn ta.
Thế
là hoàng hậu rửa chân cho ông. Trong khi hoàng hậu rửa chân ông xong, vua tưới
nước trong một cái bình bằng vàng rồi xức dầu thơm vào chân ông ta. Vua hỏi:
-
Bạn có gì cho chúng ta ăn không?
Ông
ta đáp:
-
Thưa ngài, có.
Rồi
ông lấy bánh trong xách ra. Vua nhận bánh bỏ vào một cái đĩa bằng vàng và để tỏ lòng biết ơn, vua bảo:
-
Hãy ăn các thứ bạn ta mang đến.
Rồi
ngài lấy bánh cho hoàng hậu và các đại thần và chính ngài cũng ăn bánh ấy. Sau đó người khách lạ mang tặng vật khác ra. Vua muốn
chứng tỏ ngài rất vui lòng nhận quà, liền cởi bỏ y phục lụa gấm của ngài ra và mặc
vào bộ quần áo do ông ta mang tới . Hoàng hậu cũng bỏ áo lụa ra một bên rồi mặc
áo và đồ trang sức do ông mang tới cho bà. Rồi vua dọn
cho ông thức ăn dành cho vua, và gọi
một đại thần đến bảo:
-
Hãy đến cắt tỉa râu của ông ta như kiểu của ta vậy
và để ông tắm trong bồn tắm nước hoa. Sau đó cho
ông ta mặc một chiếc áo giá trị một trăm ngàn đồng, trang sức cho ông ta theo cách vương giả
rồi đưa ông ta đến đây!
Mọi
sự đều được thi hành theo như thế. Vua cho đánh trống trong thành, họp các triều thần lại rồi
cho may một sợi chỉ bằng châu sa thuần chất xuyên qua chiếc lọng trắng. Vua
nhường cho ông ta một nửa vương quốc của mình. Từ đó hai vị cùng ăn, uống, ở với nhau và trở nên đôi bạn vững bền, bất ly.
Thế
rồi vua cho mời vợ ông ta và gia đình đến, xây cho họ một ngôi
nhà trong thành phố. Vua và người ấy lãnh đạo vương quốc thật hài hòa, tuyệt hảo. Bấy giờ các đại thần tức giận đến và nói với thái tử:
-
Thưa Ðiện hạ, đức vua cho người gia
trưởng kia một nửa vương quốc. Ngài ăn, uống và ở chung với ông ta, ra lệnh cho chúng ta phải kính
chào các con của ông ta. Ông ta đã làm gì cho đức vua, chúng ta cũng chẳng rõ. Sao đức vua lại làm thế chứ? Chúng tôi cảm thấy thật
hổ thẹn. Xin ngài hãy tâu chuyện với đức vua xem.
Thái
tử chấp thuận ngay và tâu lại hết các lời trên cùng vua và nói:
-
Tâu Ðại vương, ngài chớ làm như thế.
-
Con ơi, - vua bảo - Con có biết sau khi bại trận, ta đã trú ở đâu không?
-
Tâu phụ vương, con không biết, thái tử đáp.
Vua
nói:
-
Ta đã sống trong nhà của người này, và khi sức khỏe
bình phục ta trở về và tiếp tục trị vì, làm sao ta lại không ban vinh dự cho ân
nhân của ta chứ?
Rồi
Bồ-tát nói tiếp:
-
Con ạ, kẻ nào cho kẻ không xứng đáng cho và không cho kẻ
xứng đáng thì kẻ ấy lâm hoạn nạn, chẳng được ai giúp đỡ.
Và để nêu rõ đạo lý ấy, ngài đọc các bài kệ sau:
Giúp cho kẻ dại người ngoa
Ðến khi khẩn cấp, ai mà cứu cho?
Thi ân cho kẻ hiền hòa,
Ðến khi khẩn cấp, người đà giúp ngay.
Bao nhiêu công của dù dày,
Giúp cho kẻ xấu, cũng tày như không.
Những ai là kẻ có lòng
Ta tuy giúp ít mà công được bền.
Một lần việc nghĩa gây nên,
Ngai vàng xứng giá đáp đền cung nghênh.
Như từ mầm nhỏ, tái sinh trái;
Từ hành vi tốt, hiển vinh đời đời.
Ðến khi khẩn cấp, ai mà cứu cho?
Thi ân cho kẻ hiền hòa,
Ðến khi khẩn cấp, người đà giúp ngay.
Bao nhiêu công của dù dày,
Giúp cho kẻ xấu, cũng tày như không.
Những ai là kẻ có lòng
Ta tuy giúp ít mà công được bền.
Một lần việc nghĩa gây nên,
Ngai vàng xứng giá đáp đền cung nghênh.
Như từ mầm nhỏ, tái sinh trái;
Từ hành vi tốt, hiển vinh đời đời.
Nghe
thế, các đại thần và thái tử trẻ
tuổi kia chẳng biết trả lời sao cả.
*
Khi
kể xong Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận Tiền thân:
-
Lúc bấy giờ, chính Ànanda là người trú ở ngôi làng biên địa kia, còn Ta là vua xứ Ba-lai-nại.
-ooOoo-
303.
Chuyện Vị Thánh Vương (Tiền Thân Ekaràja)
Xưa Ðại
vương sống trong vương quốc ...,
Chuyện
này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một cận thần của vua sứ
Kosala.
Các
tình tiết đưa đến câu chuyện đã được kể trong số 282, Tiền thân
Seyyamsa. Lần này bậc Ðạo Sư dạy:
- Ông
chẳng phải là người độc nhất tạo được cái tốt từ trong cái xấu, các trí giả ngày
xưa cũngđã tạo được cái tốt từ trong cái xấu.
Rồi
Ngài kể một chuyện đời xưa.
*
Ngày
xưa, một quan cận thần của vua xứ Ba-la-nại phạm tà hạnh trong hậu cung của
vua. Sau khi chính mắt chứng kiến lỗi lầm của ông, vua đuổi ông ra khỏi vương quốc. Ông ta đã đầu phục vua xứ Kosala tên là Dabbasena như thế
nào, tất cả đều đã được kể trong số 51, Tiền thân Mahàsilava.
Nhưng
trong chuyện này, Dabbasena bắt vua xứ Ba-la-nại khi vua đang ngồi trên ngai, giữa đám triều thần, rồi trói ngài và treo ngược đầu bằng một sợi dây mắc vào thanh cửa. Vua vẫn
phát triển lòng từ đối với ông vua phản
nghịch kia và nhờ định lực tinh tấn, ngài
nhập trạng thái thiền định, làm bung các dây
trói và ngồi tréo chân trên không. Ông vua phản loạn bị tấn công bởi cơn đau đốt cháy cả thân xác, lăn lộn trên đất và la:
-
Ta bị đốt cháy, ta bị đốt cháy.
Khi
ông hỏi các triều thần tại sao như thế thì họ trả lời:
-
Ðó là vì ông vua mà ngài treo ngược đầu xuống bằng một sợi dây mắc ở thanh cửa kia là một người vô tội
và là một vị thánh nhân.
Vua
liền phán:
-
Hãy thả vua ấy ra nhanh lên.
Quân
hầu đến đó và thấy vua ấy đang ngồi tréo chân trên không, liền trở về kể
lại cho vua Dabbasena. Thế là vua này vội vã chạy đến cúi mình xin lỗi vị vua kia và đọc bài kệ đầu:
Xưa Ðại vương sống trong vương quốc
Hưởng bao nhiêu hạnh phúc, ai bằng!
Mặt ngài sao quá khinh an
Giữa cơn địa ngục nhọc nhằn đớn đau?
Hưởng bao nhiêu hạnh phúc, ai bằng!
Mặt ngài sao quá khinh an
Giữa cơn địa ngục nhọc nhằn đớn đau?
Nghe
thế, Bồ-tát đọc tiếp các bài kệ còn
lại:
Xưa ta đã nguyện cùng trời đất
Nhập vào hàng ẩn dật, chẳng dừng.
Ta nay vinh hiển sáng lừng,
Mặt ta há lại ra tuồng héo hon?
Ðạt cứu cánh, ta tròn bổn phận,
Vua thù ta còn hận ta đâu?
Vinh danh, ta đạt mong cầu,
Mặt ta há lại đổi màu xấu xa?
Khi vui sướng chuyển ra khổ cực,
Kẻ bền lòng lọc được an khang.
Khổ, vui, nào phải hai đàng,
Khi người đời đạt Niết-bàn tịch không.
Nhập vào hàng ẩn dật, chẳng dừng.
Ta nay vinh hiển sáng lừng,
Mặt ta há lại ra tuồng héo hon?
Ðạt cứu cánh, ta tròn bổn phận,
Vua thù ta còn hận ta đâu?
Vinh danh, ta đạt mong cầu,
Mặt ta há lại đổi màu xấu xa?
Khi vui sướng chuyển ra khổ cực,
Kẻ bền lòng lọc được an khang.
Khổ, vui, nào phải hai đàng,
Khi người đời đạt Niết-bàn tịch không.
Nghe
kệ xong, Dabbasena xin Bồ-tát tha thứ và thưa:
-
Xin ngài hãy trị dân của chính ngài và tôi sẽ đánh đuổi bọn phiến loạn nghịch chống ngài.
Sau
khi trừng phạt ông quan gian ác kia, vua Dabbasena trở về xứ. Nhưng Bồ-tát lại
trao vương quốc cho các đại thần rồi sống đời khổ
hạnh của một ẩn sĩ và sau đó tái sinh vào cõi Phạn
thiên.
*
Khi
bậc Ðạo Sư kể xong Pháp thoại này, Ngài nhận diện Tiền thân:
-
Bấy giờ Ànanda là Dabbasena, còn Ta là vua xứ Ba-la-nại.
-ooOoo-
304.
Chuyện Rắn Thần Daddara (Tiền Thân Daddara)
Dad-da-ra,
ai mà chịu nổi ...,
Chuyện
này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo giận dữ.
Các
tình tiết đã được kể trước đây.
Ở đây, khi các Tỷ-kheo đang bàn
tán tại Pháp đường về tính sân si của Tỷ-kheo ấy thì bậc Ðạo Sưđến. Ngài
hỏi và khi được nghe thuật lại, Ngài cho gọi Tỷ-kheo ấy đến và hỏi:
- Này
Tỷ-kheo, có thực rằng ông đã sân si như họ bảo không?
- Vâng,
bạch Thế Tôn, đúng như thế. Ông ta trả lời.
Bậc Ðạo
Sư dạy:
- Này
các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ, mà ngày xưa ông này cũng đã rất sân si, và do thái độ sân si của ông ta, các trí
giả xưa kia mặc dầu vẫn sống cuộc đời hoàn toàn trong lành của những hoàng tử
Rắn thần (Nàga), đã sống ba năm nơi đống rác dơ bẩn.
Rồi
Ngài kể một chuyện đời xưa.
*
Ngày
xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, dòng giống Rắn thần trú ở chân
núi Daddara trong vùng Tuyết Sơn. Bồ-tát sinh ra là con trai của Sùradaddara,
vua xứ ấy. Ngài tên là Mahàdaddara, và có một em trai tên là Culladaddara, có
tính sân si, hung dữ, thường la mắngđánh đập các nàng Long nữ. Vua rắn thần
Nàga nghe nó hung dữ như thế, liền đuổi nó ra khỏi xứ Nàga. Nhưng Mahàdaddara xin cha tha thứ cho em,
và cứu em khỏi bị đuổi. Lần thứ hai đứa em
lại bị vua giận, và cũng được anh xin vua tha thứ
cho. Nhưng đến lần thứ ba vua bảo:
-
Ngươi cứ ngăn ta đuổi đứa vô tích sự này mãi; bây giờ cả hai chúng bây phải rời
khỏi xứ Nàga mà đến sống ba năm trên một đống rác ở Ba-la-nại.
Vua đuổi cả hai ra khỏi xứ Nàga, va hai anh em đến sống tại Ba-la-nại. Khi bọn trẻ trong làng
thấy chúng đang kiếm ăn trong một
rãnh nước vây quanh đống rác, thì bọn này
lập tức đánh chúng, lấy đất đá,
que gậy ném chúng, dùng ná, nỏ bắn chúng và la lên:
-
Cái gì thế kia, mấy con rắn nước đầu to, đuôi nhỏ như kim?
Rồi
chúng nói đủ lời mắng nhiếc.
Culladaddara, do bản tính giận dữ sân si, không thể chịu được sự vô lễ như thế,
liền nói:
-
Anh ơi, bọn trẻ này nhạo báng chúng ta. Chúng không biết rằng ta là rắn có nọc độc. Em không thể chịu sự xúc phạm của chúng đối
với chúng ta như thế. Em sẽ phun hơi ra và giết chúng.
Rồi
nó đọc bài kệ đầu để nói với anh nó:
Dad-da-ra, ai mà chịu nỗi
Chúng nhiếc ta: " Ăn nhái, ở bùn"
Bọn kia khờ dại đáng thương,
Trước nanh rắn độc, dám nhờn mặt sao?
Chúng nhiếc ta: " Ăn nhái, ở bùn"
Bọn kia khờ dại đáng thương,
Trước nanh rắn độc, dám nhờn mặt sao?
Nghe
thế, Mahàdaddara đọc tiếp phần kệ sau:
Kẻ lưu đầy bị vào chốn lạ
Phải chịu bao nhục mạ tân toan
Bậc hàng giai cấp ta mang,
Hạnh hiền đức độ há từng ai hay?
Kẻ ngu muốn tỏ bày ra dáng
Rằng ta đây là hạng cao vời.
Trong nhà dù sáng như trời,
Ra ngoài phải chịu đựng người hạ lưu.
Phải chịu bao nhục mạ tân toan
Bậc hàng giai cấp ta mang,
Hạnh hiền đức độ há từng ai hay?
Kẻ ngu muốn tỏ bày ra dáng
Rằng ta đây là hạng cao vời.
Trong nhà dù sáng như trời,
Ra ngoài phải chịu đựng người hạ lưu.
Cả
hai anh em sống nơi đó ba năm. Thế rồi vua
cha gọi chúng về nhà. Từ đó lòng tự phụ của chúng
giảm hẳn đi.
*
Khi
kể xong Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết Tứ Ðế. Ở phần kết thúc về Tứ
Ðế, vị Tỷ-kheo giận dữ kia đắc quả Bất Lai. Bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:
-
Bấy giờ vị Tỷ-kheo giận dỗi này là Culladaddara, còn Ta là Mahàdaddara.
-ooOoo-
305
Chuyện Thử Thách Giới Đức (Tiền thân Sìlavìmamasana)
Thật ra
chẳng việc nào tội lỗi ...,
Chuyện
này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ-Viên về sự chê trách tội lỗi.
Các
tình tiết sẽ được kể trong số 459. Tiền thân Pànìya, trong Chương Mười
một. Sau đây là phần tóm tắt.
Năm
trăm Tỷ-kheo sống ở Kỳ Viên, gần đến lúc nửa đêm hôm ấy, đi sâu vào cuộc thảo luận về
dục lạc. Bấy giờ bậc Ðạo Sư vẫn luôn luôn trông chừng các Tỷ-kheo suốt sáu thời
khắc của đêm ngày, giống như kẻ chột cẩn thận giữ gìn con mắt còn lại
của mình, như người cha chăm sóc đứa con một, như con trâu rừng giữ kỹ cái đuôi
của nó. Giữa đêm khuya, do thiên nhãn Ngài quan sát khắp Kỳ Viên và chứng kiến
việc các Tỷ-kheo bàn thảo kia; tựa như bọn cướp đã tìm thấy lối vào cung điện của một đại vương, Ngài mở
cửa Hương phòng, gọi Ànanda và sai ông họp các Tỷ-kheo trong Tinh xá trên con đường lát vàng (tức Kỳ Viên) và
bảo dọn cho Ngài một chỗ ngồi trước Hương phòng. Tôn giả Ànanda làm theo lời
dạy rồi báo cho Ngài hay. Bấy giờ, bậc Ðạo Sư ngồi vào chỗ ngồi đã chọn sẵn, bảo các Tỷ-kheo
họp lại rồi dạy:
- Này
các Tỷ-kheo, các trí giả ngày xưa nghĩ rằng không thể che dấu hành động sai trái và vì vậy họ cố
tránh làm điều xấu.
Rồi
Ngài kể cho họ một chuyện đời xưa.
*
Ngày
xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn. Khi lớn lên, ngài được một vị thầy nổi danh thiên hạ trú trong
thành phố ấy dạy dỗ. Ngài đứng đầu số năm trăm học
trò. Bấy giờ ông thầy ấy có một con gái đã đến tuổi dậy thì, ông ta
nghĩ: "Ta sẽ thử đức hạnh của các thanh
niên này, ta sẽ gả con gái ta cho kẻ nào có đức hạnh cao nhất".
Một
hôm, ông bảo các học trò:
-
Này các bạn, ta có một con gái mới lớn, ta muốn kén chồng cho nó, nhưng ta phải
có quần áođẹp và đồ trang sức thích hợp
cho nó. Các bạn hãy lấy cắp vài thứ ấy mà đừng cho các bạn khác biết rồi mang đến cho ta. Khi nào không ai
trông thấy thì ta sẽ nhận, còn nếu các bạn mang mónđồ bị người ta trông thấy
thì ta sẽ từ chối.
Các
học trò đều đồng ý và nói:
-
Tốt lắm.
Thế
là từ hôm ấy, họ lấy cắp quần áo, đồ trang sức mà các bạn bè không biết rồi mang đến cho thầy. Ông sắp xếp các thứ mà mỗi người
mang đến ở từng nơi riêng biệt. Về phần Bồ-tát, ngài
chẳng lấy cắp thứ gì cả.
Thấy
thế, ông thầy bảo:
-
Còn bạn, bạn ơi, bạn chẳng mang đến gì cho ta ư?
Ngài đáp:
-
Thưa thầy, đúng thế.
Thầy
hỏi:
-
Sao thế bạn?
Ngài
trả lời:
-
Nếu lấy đồ vật mà không kín đáo thì thầy không nhận. Nhưng con thấy rằng
không thể nào che giấu hành động xấu của mình được.
Và để chứng minh chân lý này, ngài đọc hai bài kệ sau đây:
Thật ra chẳng việc nào tội lỗi
Lại kín bưng đối với đời này.
Kẻ ngu tưởng kín đáo thay,
Thần linh cũng đã thấy ngay hết rồi.
Ðiều bí mật chẳng nơi giấu được,
Với tôi đây không nốt cái không.
Ở nơi chẳng có ai cùng
Nhưng tôi có đó, hết luôn không rồi!
Lại kín bưng đối với đời này.
Kẻ ngu tưởng kín đáo thay,
Thần linh cũng đã thấy ngay hết rồi.
Ðiều bí mật chẳng nơi giấu được,
Với tôi đây không nốt cái không.
Ở nơi chẳng có ai cùng
Nhưng tôi có đó, hết luôn không rồi!
Ông
thầy rất bằng lòng với lời lẽ ấy, liền bảo:
-
Này bạn, nhà ta không thiếu của cải, nhưng ta muốn gả con gái ta cho một người
có đức hạnh và ta đã làm như thế để thử các thanh niên ấy. Bây giờ chỉ có bạn là
xứng đáng với con gái ta.
Thế
rồi ông trang sức cho con gái và đem gả cho Bồ-tát, còn với những người kia ông bảo:
-
Hãy lấy lại mọi thứ mà các anh đã mang đến cho ta và đưa về nhà của các anh đi.
*
Sau đó, bậc Ðạo Sư dạy:
-
Này các Tỷ-kheo, thế đấy, những người học trò
xấu kia vì tính không thật thà đã không lấy được cô thiếu nữ ấy, trong khi chàng trai trẻ
khôn ngoan kia, do đức hạnh tốt, đã lấy được nàng làm vợ.
Rồi
ngài đọc bài kệ khác:
Cậu Hoang, cậu Khánh, cậu Vui
Lại thêm cậu Dễ, cậu Tồi, cậu Vinh
Thảy mong được vợ cho mình
Lầm đường lạc nẻo mà thành lông bông.
Thấy rõ Pháp từ trong tuổi trẻ,
Luôn chấp trì Chân đế mà thôi.
Do lòng can đảm cao vời,
Bà-la-môn lấy được người vợ kia.
Lại thêm cậu Dễ, cậu Tồi, cậu Vinh
Thảy mong được vợ cho mình
Lầm đường lạc nẻo mà thành lông bông.
Thấy rõ Pháp từ trong tuổi trẻ,
Luôn chấp trì Chân đế mà thôi.
Do lòng can đảm cao vời,
Bà-la-môn lấy được người vợ kia.
*
Sau
khi chấm dứt bài thuyết giảng trang trọng này, bậc Ðạo Sư tuyên thuyết Tứ Ðế và
ở các phần kết thúc về Tứ Ðế, năm trăm vị Tỷ-kheo kia đạt được Thánh quả.
Bậc
Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:
-
Lúc bấy giờ, Xá-lợi-phất là người thầy, còn chính Ta là chàng trai trẻ tuổi
sáng trí kia.
-ooOoo-
306.
Chuyện Hoàng Hậu Sujàta (Tiền thân Sujàta)
Dáng như
cái trứng, trái gì đây? ...,
Chuyện
này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về hoàng hậu Mallikà (Mạt-lợi).
Một
hôm, tương truyền có xảy ra việc cãi cọ giữa hoàng hậu và vua. Người ta thường
bảo đó là một chuyện xích mích trong hậu cung. Vua giận quá đến độ không cần biết tới có sự
có mặt của hoàng hậu nữa. Mallikà tự nghĩ: "Chắc bậc Ðạo Sư không biết
rằng vua giận ta đến thế nàođâu!".
Nhưng
bậc Ðạo Sư đã biết hết và quyết định sẽ giảng hòa giữa hai
người. Vì thế tờ mờ sáng, Ngàiđã mặc áo trong khoác áo ngoài rồi cầm bình bát,
dẫn theo năm trăm Tỷ-kheo vào Xá-vệ và đến cổng cung điện. Vua đỡ lấy
bình bát của Ngài, đưa Ngài vào nội điện và mời Ngài ngồi vào chỗđược dọn sẵn cho
Ngài. Vua rưới nước cúng dường trên tay trái Ngài và các Tỷ-kheo ở sau Ngài,
rồi đem cơm bánh ra mời. Nhưng bậc Ðạo Sư lấy tay che bình bát của
Ngài lại và nói:
- Thưa
Ðại vương, hoàng hậu đâu rồi?
Vua đáp:
- Bạch
Thế Tôn, Ngài hỏi bà ấy làm gì? Bà ấy còn biết phải trái gì đâu! Bà đang say sưa vì danh dự mà bà được hưởng.
- Tâu
Ðại vương - bậc Ðạo Sư nói - Trước kia chính ngài ban vinh dự cho người phụ nữ
ấy; bây giờ ngài lại lấy hết đi và không chịu xóa bỏ lỗi lầm mà bà đã phạm đối với ngài thì ngài đã sai rồi.
Nghe
bậc Ðạo Sư dạy như thế, vua cho mời hoàng hậu đến. Bà đến hầu cận bậc Ðạo Sư. Ngài dạy:
- Các
vị phải sống với nhau hòa thuận.
Sau khi
ca ngợi hạnh phúc của sự hòa hợp, Ngài ra đi. Từ đó vua và hoàng hậu sống
hạnh phúc bên nhau.
Các
Tỷ-kheo bàn tán trong Pháp đường rằng chỉ cần một lời, bậc Ðạo Sư đã hòa giải được vua và hoàng hậu. Bậc Ðạo
Sư bước vào. Sau khi hỏi các Tỷ-kheo đang bàn tán việc gì và được họ kể lại, Ngài dạy:
- Này
các Tỷ-kheo, không phải bây giờ mà xưa kia, Ta cũng hòa giải họ bằng một lời
khuyến dụ.
Rồi
Ngài kể một chuyện đời xưa.
*
Ngày
xưa, khi Brahmadatta là vua xứ Ba-la-nại, Bồ-tát là đại thần của vua, vừa là cố vấn về thế sự và
thánh sự.
Một
hôm, vua đứng ở cửa sổ nhìn xuống
sân cung điện. Ngay lúc ấy một
thiếu nữ thanh xuân xinh đẹp đang đội trên đầu một rổ táo và rao:
-
Táo đây, táo chín đây, ai mua táo không?
Nhưng
nàng không dám vào sân cung điện.
Vua
vừa nghe tiếng nàng, đã yêu nàng ngay. Khi
biết rằng nàng chưa có chồng, vua gọi nàng đến và cho lên ngôi chánh hoàng hậu, lại ban cho nàng vinh dự lớn
lao. Bấy giờ, dưới mắt vua, nàngđược yêu thương và làm vua hài lòng.
Một
hôm, vua đang ăn táo đựng trong
một cái đĩa bằng vàng. Thấy thế, hoàng hậu Sujàta hỏi:
-
Tâu Chúa thượng, ngài đang ăn cái gì vậy?
Và
bà đọc bài kệ đầu:
Dáng như cái trứng, cái gì đây
Trong đĩa vàng kia đặt trước ngài,
Sắc đỏ xinh thay - Tâu thánh thượng,
Trái cây này mọc ở đâu vầy?
Trong đĩa vàng kia đặt trước ngài,
Sắc đỏ xinh thay - Tâu thánh thượng,
Trái cây này mọc ở đâu vầy?
Vua
tức giận và nói:
-
Này cô gái nhà bán rau quả kia, cô chuyên bán táo chín, cô lại há không nhận ra
trái táo là tráiđặc biệt của chính gia đình cô hay sao?
Rồi
vua đọc hai bài kệ tiếp theo:
Áo quần mộc mạc, đầu không mão,
Ngày ấy nào cô hổ thẹn đâu?
Vạt áo đựng đầy bao trái táo,
Bây giờ lại hỏi trái cây nào!
Cô quá tự cao, hư hỏng ra,
Ðời cô chẳng thấy thú đâu mà!
Ði đi, táo ấy, lui về lượm,
Cô chẳng còn là vợ của ta.
Ngày ấy nào cô hổ thẹn đâu?
Vạt áo đựng đầy bao trái táo,
Bây giờ lại hỏi trái cây nào!
Cô quá tự cao, hư hỏng ra,
Ðời cô chẳng thấy thú đâu mà!
Ði đi, táo ấy, lui về lượm,
Cô chẳng còn là vợ của ta.
Thế
rồi Bồ-tát tự nghĩ: "Chẳng có ai ngoài ta ra có thể hòa giải đôi vợ chồng này được. Ta sẽ làm dịu cơn giận của vua và ngăn
ngài đuổi bà ấy ra khỏi cửa". Rồi ngài đọc bài kệ thứ tư:
Ðây là tội của người phụ nữ
Tăng trưởng theo ngôi thứ mà ra.
Xin ngài thôi giận, thứ tha,
Vì ngài đã tặng cho bà ngôi cao.
Tăng trưởng theo ngôi thứ mà ra.
Xin ngài thôi giận, thứ tha,
Vì ngài đã tặng cho bà ngôi cao.
Vua
nghe thế bèn bỏ hết lỗi lầm của hoàng hậu phục hồi ngôi cũ của bà. Từ đó hai người sống với nhau rất hòa ái.
*
Kể
xong Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân.
-
Bấy giờ vua Kosala là vua xứ Ba-la-nại, hoàng hậu Mallikà là Sujàtà, còn chính
Ta là quan cận thần kia.
-ooOoo-
307.
Chuyện Thần Cây Hồng Điệp (Tiền thân Palàsa)
Bà-la-môn,
sao người có trí ...,
Bậc Ðạo
Sư lúc sắp diệt độ đã kể chuyện này về Trưởng lão Ànanda.
Tôn giả
Ànanda biết rằng ngay trong đêm ấy, bậc Ðạo Sư sẽ diệt độ bèn tự bảo: "Ta còn
phải giữ giới luật, còn nhiều công hạnh phải thực hiện. Bậc Ðạo Sư chắc chắn sẽ
diệt độ rồi. Thế là công việc trong suốt hai lăm năm qua ta cung
phụng Ngài sẽ chẳng có kết quả gì". Tràn ngập sầu bi, Trưởng lão gục vào
then cửa có chạm hình đầu khỉ của phòng chứa đồ trong vườn và khóc nức nở.
Bậc Ðạo
Sư thấy vắng Ànanda liền hỏi các Tỷ-kheo vị ấy ở đâu. Sau khi nghe thuật lại,
Ngài gọi vị ấy vào và bảo:
- Này
Ànanda, ông đã tích trữ cả một kho công đức. Hãy tiếp tục tinh cần rồi
ông sẽ được thoát khỏi khổ đau của đời người. Chớ nên sầu bi. Làm
sao sự phụng dưỡng của ông đối với Ta bây giờ không có kết quả được, bởi vì
những sự phụng dưỡng của ông trước kia trong những ngày ông còn mang tội lỗi đã không phải là không được đáp đền.
Rồi
Ngài kể một chuyện đời xưa.
*
Ngày
xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra mang hình hài của
một Thần cây hồng điệp. Bấy giờ, dân chúng
ở Ba-la-nại rất sùng kính các vị thần như thế và vẫn thường đến cúng kiến.
Một
người Bà-la-môn nghèo khó kia tư nghĩ: "Ta cũng sẽ đi cúng bái thần linh". Rồi ông ta tìmđược
một cây hồng điệp lớn mọc trên chỗ đất cao. Ông rải sỏi đá rồi quét tước xung quanh, săn sóc rễ cây
sạch sẽ, nhổ cỏ ... Ông dâng cúng một tràng đủ năm loại hoa thơm rồi đốt một cây nến làm lễ dâng hương hoa.
Sau khi cung kính dâng thánh lễ, ông nói:
-
Mong ngài được an bình.
Rồi
ông bỏ đi. Ngày hôm sau ông lại đến thật sớm và ân cần chúc hỏi.
Một
hôm, Thần cây chợt nghĩ: "Người Ba-la-môn này chăm sóc ta rất kỹ lưỡng. Ta
sẽ thử lòng ông ta và tìm xem tại sao ông ta tôn kính ta rồi sẽ ban cho ông điều ước muốn của ông". Thế là khi người
Bà-la-môn ấy đến quét tước quanh gốc
rễ cây, Thần liền hóa thành một Bà-la-môn lớn tuổi đứng gần đó và đọc bài kệ đầu:
Bà-la-môn, sao người có trí
Lại hỏi han cây chỉ vô tri?
Lời cầu, lời chúc ra chi!
Cây trong thảm ấy đáp gì người đâu!
Lại hỏi han cây chỉ vô tri?
Lời cầu, lời chúc ra chi!
Cây trong thảm ấy đáp gì người đâu!
Nghe
thế, người Bà-la-môn ấy trả lời bằng bài kệ thứ hai:
Cây nổi tiếng từ lâu vẫn đứng
Chỗ an cư của những vị thần.
Thần kia tôi kính muôn vàn,
Chắc rằng thần giữ kho tàng nơi đây.
Chỗ an cư của những vị thần.
Thần kia tôi kính muôn vàn,
Chắc rằng thần giữ kho tàng nơi đây.
Vị
Thần cây nghe thế rất bằng lòng về ông ta liền bảo:
-
Này Bà-la-môn, ta sinh ra là vị Thần của cây này. Ðừng sợ ta, ta sẽ cho người
kho tàng ấy.
Và để làm an lòng ông, Thần thể hiện thần lực, đứng lơ lửng trên không tại cổng vào lâu đài của mình và đọc thêm hai bài kệ:
Bà-la-môn tâm đầy từ ái
Chính ta đây ghi lấy việc người
Hành vi sùng đạo trên đời,
Bao giờ kết quả cũng thời xứng cân.
Cây sung kia đổ tràn bóng mát
Xứng cùng bao tặng vật, cúng dường.
Dưới cây chôn một kho tàng
Phần người được thưởng, đào vàng mà xin.
Chính ta đây ghi lấy việc người
Hành vi sùng đạo trên đời,
Bao giờ kết quả cũng thời xứng cân.
Cây sung kia đổ tràn bóng mát
Xứng cùng bao tặng vật, cúng dường.
Dưới cây chôn một kho tàng
Phần người được thưởng, đào vàng mà xin.
Ngoài
ra, Thần còn nói thêm:
-
Này Bà-la-môn, nếu người phải đào kho tàng lên và mang
theo thì người sẽ vất vả quá. Vậy hãy ra đi trước, rồi ta sẽ mang kho tàng về nhà người và để tại chỗ kia. Thế là người được hưởng kho báu ấy suốt đời; hãy bố thí và
hãy giữ tròn đạo hạnh.
Sau
khi khuyên dụ người Bà-la-môn như thế, vị Thần cây liền thực hiện thần lực
chuyển kho tàng vào trong nhà của người ấy.
*
Bậc
Ðạo Sư chấm dứt bài thuyết giảng và nhận diện Tiền thân:
-
Lúc bấy giờ, Ànanda là người Bà-la-môn, còn Ta là vị Thần cây.
-ooOoo-
308.
Chuyện Chim Gõ Kiến (Tiền Thân Javasakuna)
Bao
nhiêu lòng tốt trong tôi...,
Chuyện
này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về sự vô ơn của Ðề-bà-đạt-đa.
Cuối
cùng, Ngài dạy:
- Chẳng
phải chỉ bây giờ mà từ xưa kia, Ðề-bà-đạt-đa cũng đã tỏ ra vô ơn.
Sau đó, Ngài kể một chuyện đời xưa.
*
Ngày
xưa, khi vua Brahmadatta trị vị xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra là một con chim Gõ
kiến sống trong vùng Tuyết Sơn.
Bấy
giờ, có một con Sư tử, trong khi ăn mồi, bị một miếng xương mắc trong cổ. Cổ nó sưng lên đến độ nó không thể ăn gì được và đau đớn khôn cùng. Chim Gõ kiến đang kiếm đồ ăn, đậu trên một cành cây, trông thấy Sư tử và hỏi
nó:
-
Này bạn, cái gì làm bạn đau thế?
Nghe
Sư tử bảo cho biết, chim nói:
-
Bạn ạ, tôi có thể lấy cái xương ra khỏi cổ họng bạn nhưng tôi không dám chui đầu vào mồm bạn và sợ bạn ăn tôi luôn!
-
Bạn ơi, đừng sợ, tôi sẽ không ăn
bạn đâu. Xin bạn hãy cứu sống tôi.
-
Ðược rồi.
Chim
nói thế và bảo Sư tử nằm xuống một bên nó. Rồi nó nghĩ: "Ai biết được anh bạn này sẽ làm sao chứ?" Và để ngăn ngừa Sư tử ngậm miệng lại, nó cắm một
khúc cây giữa hàm trên và hàm dưới Sư tử, thò đầu vào miệng con này rồi dùng mỏ gắp đầu mút xương. Cái xương rớt ra ngoài rồi mất đi. Gõ kiến rút đầu ra khỏi miệng Sư tử, lấy mỏ đập khúc cây cho rớt ra rồi nhảy lên đậu trên chóp một cành cây.
Sư
tử được khỏi bệnh. Một hôm nó đang ăn một con bò
rừng mà nó vừa giết. Chim Gõ kiến liền nghĩ: "Ta sẽ thử lòng hắn xem
sao?". Ðậu trên một cành cây phía trên đầu Sư tử, nó nói với Sư tử qua bài kệ sau:
Bao nhiêu lòng tốt trong tôi,
Tôi đây đã tỏ cho ngài lần kia.
Phần ngài chẳng nguyện cao xa,
Cho tôi đôi chút gọi là hảo tâm.
Tôi đây đã tỏ cho ngài lần kia.
Phần ngài chẳng nguyện cao xa,
Cho tôi đôi chút gọi là hảo tâm.
Nghe
thế, Sư tử trả lời bằng bài kệ thứ hai:
Ngươi gởi đầu vào hàm Sư tử
Loài vuốt nanh rực thứ máu hồng
Nhưng ngươi vẫn sống như thường:
Hảo tâm ta đã tỏ tường cho ngươi.
Loài vuốt nanh rực thứ máu hồng
Nhưng ngươi vẫn sống như thường:
Hảo tâm ta đã tỏ tường cho ngươi.
Chim
Gõ kiến nghe thế, liền đọc thêm bài kệ nữa:
Bao việc tốt trên đời
Thi hành để giúp ngươi.
Giúp loài vô ơn nghĩa
Mong chi được đền bồi?
Ðừng khởi ý chua cay
Ðừng buông lời gắt gay.
Phường xấu xa như thế,
Ta cần lánh xa ngay!
Thi hành để giúp ngươi.
Giúp loài vô ơn nghĩa
Mong chi được đền bồi?
Ðừng khởi ý chua cay
Ðừng buông lời gắt gay.
Phường xấu xa như thế,
Ta cần lánh xa ngay!
Nói
vậy xong, chim Gõ kiến bay đi.
*
Bậc
Ðạo Sư chấm dứt Pháp thoại và nhận diện Tiền thân:
-
Bấy giờ, Ðề-bà-đạt-đa là con Sư tử, còn Ta chính là con chim Gõ kiến.
-ooOoo-
309.
Chuyện Người Tiện Dân (Tiền thân Chavaka)
Thưa
Ðạo sư, thưa Vương đệ tử...,
Chuyện
này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về hội chúng của nhóm Sáu
Tỷ-kheo.
Chuyện được kể với đầy đủ chi tiết
trong bộ Luật Tạng (Vinaya) đây chỉ là phần tóm tắt.
Bậc Ðạo
sư gọi Sáu Tỷ-kheo ấy đến và hỏi xem có thật họ đã ngồi giảng Giới luật ở chỗ
thấp trong khi các đệ tử của họ ngồi ở chỗ cao hơn. Họ thú nhận rằng thật như
thế. Bậc Ðạo Sư quở trách họ về sự thiếu tôn trọng của họ đối với Giới luật của Ngài và
bảo rằng các trí giả xưa kia cũng đã phải quở trách người ta về việc ngồi ở chỗ
thấp mà giảng dạy, dù là giảng dạy các học thuyết ngoại đạo đi nữa.
Rồi
Ngài kể một chuyện đời xưa.
*
Ngày
xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra là con của một phụ
nữ hạ tiện. Chàng lớn lên và trở thành gia trưởng. Vợ chàng đang mang thai, rất thèm muốn ăn xoài, và bảo chồng:
-
Chàng ơi, em muốn ăn xoài quá.
-
Này em yêu, - chàng đáp - mùa này không có
xoài, ta sẽ đem về cho em một vài
trái chua khác.
Nàng
bảo:
-
Chàng ơi, nếu được ăn xoài thì em
sống. Nếu không, thì em sẽ chết mất!
Người
chồng quá mê say vợ liền nghĩ: "Ta kiếm đâu ra được một trái xoài bây giờ?" Bấy giờ, trong vườn của
vua Ba-la-nại có một cây xoài ra trái quanh năm. Vì thế, chàng nghĩ: "Ta
sẽ đến đó hái một trái xoài chín để làm dịu cơn thèm của nàng". Ban đêm, chàng đến khu vườn ấy rồi trèo lên cây, bước từ cành này sang cành nọ mà
tìm trái. Trong khi chàng miệt mài như thế thì trời bắt đầu sáng. Chàng tự bảo: "Nếu bây giờ ta tụt
xuống mà ra đi, ta sẽ bị trông thấy
và bị bắt như một tên trộm, ta nên chờ cho đến khi trời tối đã!" Thế rồi chàng trèo lên chỗ chĩa của cây
và vào ngồi đó.
Lúc
ấy, vua đang nghe vị giáo sư của
ngài giảng kinh. Khi hai người vào vườn cây, vua ngồi xuống ở một chỗ cao nơi
gốc cây xoài, để giáo sĩ ngồi một chỗ
thấp hơn và nghe giáo sĩ thuyết giảng. Bồ-tát ngồi ở phía trên họ, tự nghĩ:
"Ông vua này thật bậy quá, đang nghe giảng kinh mà
lại ngồi chỗ cao. Còn Bà-la-môn kia cũng bậy không kém, ngồi ở chỗ thấp mà dạy.
Còn ta cũng bậy nốt vì ta đã rơi vào uy lực của đàn bà, chẳng kể chi mạng sống của ta mà đi ăn trộm xoài thế này".
Thế
rồi chàng đu vào một cành cây đang treo lơ lửng, buông người xuống khỏi cây,
đứng trước vua và giáo sĩ và nói:
-
Tâu Ðại vương, tôi là một kẻ đọa đày, ngài là kẻ
cuồng si thô tục và giáo sĩ này là một người chết.
Vua
hỏi chàng bảo như thế nghĩa là gì, chàng liền đọc bài kệ đầu:
Thưa Ðạo sư, thưa Vương đệ tử,
Tôi thấy kia mọi sự lỗi lầm,
Hai ngài đọa khỏi thiên ân,
Hai ngài giới luật đều làm sai hư.
Tôi thấy kia mọi sự lỗi lầm,
Hai ngài đọa khỏi thiên ân,
Hai ngài giới luật đều làm sai hư.
Giáo
sĩ Bà-la-môn nghe thấy, liền đọc bài kệ thứ hai:
Gạo ta ăn lấy từ đồi nọ
Mùi thơm ngon như có thịt vào.
Kẻ kia tội lỗi, tại sao
Thánh đang dùng bữa, lại rao giới điều?
Mùi thơm ngon như có thịt vào.
Kẻ kia tội lỗi, tại sao
Thánh đang dùng bữa, lại rao giới điều?
Bồ-tát
nghe thế, liền đọc thêm hai bài kệ nữa:
Hãy dọc ngang mọi chiều mặt đất,
Bà-la-môn, người sẽ thấy ra
Xem kia, đau khổ ấy là
Số phần chung của người ta trên đời.
Do tội lỗi, đời người tàn ố
Giá còn thua mảnh vỡ chiếc bình
Coi chừng tham ý, dục tình,
Chúng đưa tới cõi khổ hình đau thương.
Bà-la-môn, người sẽ thấy ra
Xem kia, đau khổ ấy là
Số phần chung của người ta trên đời.
Do tội lỗi, đời người tàn ố
Giá còn thua mảnh vỡ chiếc bình
Coi chừng tham ý, dục tình,
Chúng đưa tới cõi khổ hình đau thương.
Vua
rất hài lòng về việc trình bày giới luật của chàng, hỏi chàng thuộc giai cấp
nào. Chàng thưa:
-
Tâu Ðại vương, tôi là hạng tiện dân.
Vua
bảo:
-
Này bạn, nếu bạn thuộc một gia đình có đẳng cấp cao thì ta đã đưa bạn lên làm vị vua độc nhất rồi. Nhưng từ nay, ta là vua ban ngày, còn bạn sẽ là vua
ban đêm.
Vua
nói xong, quàng vào cổ chàng tràng hoa mà ngài vẫn đeo và phong chàng làm quan tổng trấn. Từ đó các quan trong thành có lệ mang một tràng hoa đỏ ở cổ. Cũng từ ngày đó trở đi, vua an trú trong lời dạy của ngài,
rất kính trọng thầy dạy mình và vẫn ngồi ở chỗ thấp mà nghe thầy dạy kinh điển.
*
Thuyết
giảng xong, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:
-
Bấy giờ, Anànda là vị vua, còn Ta chính là người tiện dân kia.
-ooOoo-
0 Komentar